Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.3 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

MAI THỊ YẾN

ĐỘNG TỪ CHỈ SỰ VẬN ĐỘNG DI CHUYỂN
TRONG THƠ TỐ HỮU

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

MAI THỊ YẾN

ĐỘNG TỪ CHỈ SỰ VẬN ĐỘNG DI CHUYỂN
TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. TRỊNH THỊ MAI

NGHỆ AN - 2015



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.........................................................................6
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................9
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................9
6. Đóng góp của luận văn............................................................................10
7. Cấu trúc của luận văn..............................................................................10
Chương

1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.............................11
1.1. Động từ và động từ chỉ vận động di chuyển trong tiếng Việt..............11
1.1.1. Động từ..................................................................................11
1.1.2. Động từ chỉ vận động di chuyển............................................24
1.2. Tố Hữu và thơ Tố Hữu.........................................................................31
1.2.1. Tác giả Tố Hữu......................................................................31
1.2.2. Thơ Tố Hữu...........................................................................32
1.3. Tiểu kết chương 1.................................................................................35
Chương

2

ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỘNG TỪ CHỈ VẬN ĐỘNG DI CHUYỂN
TRONG THƠ TỐ HỮU..................................................................................36
2.1. Đặc điểm về tiểu loại của động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố

Hữu..............................................................................................................36
2.1.1. Kết quả thống kê....................................................................36
2.1.2. Nhận xét chung về tiểu loại động từ chỉ vận động di chuyển
trong thơ Tố Hữu..................................................................36


4
2.2. Đặc điểm ngữ pháp của động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố
Hữu..............................................................................................................39
2.2.1. Xét trong quan hệ với chủ thể hành động..............................39
2.2.2. Xét trong quan hệ với bổ ngữ mà động từ chi phối...............64
2.2.3. Xét trong quan hệ với phụ từ đi kèm.....................................71
2.3. Tiểu kết chương 2.................................................................................83
Chương
VAI

3

TRÒ

CỦA

ĐỘNG

TỪ

CHỈ

VẬN


ĐỘNG

DI

CHUYỂN

TRONG THƠ TỐ HỮU..................................................................................84
3.1. Dẫn nhập...............................................................................................84
3.2. Các vai trò của động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu.....85
3.2.1. Động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu góp phần
thể hiện tư thế của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.85
3.2.2. Động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu góp phần
thể hiện khí thế của con người Việt Nam và dân tộc Việt
Nam.......................................................................................92
KẾT LUẬN...................................................................................................102
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................105


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ là kết tinh của cái đẹp ngôn từ. Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ
đặc biệt, nó là sự thăng hoa của tâm hồn người nghệ sĩ. Mỗi từ ngữ, mỗi hình
ảnh đều thể hiện những cung bậc tình cảm khác nhau của thi nhân. So với văn
xuôi, dung lượng của bài thơ ngắn hơn rất nhiều, vì thế để thể hiện được tất cả
trạng thái, cung bậc tình cảm thì nhà thơ phải dồn nén qua từng từ ngữ. Từ
ngữ trong thơ giữ vai trò rất quan trọng, nó không chỉ đơn thuần là chất liệu
của người sáng tác mà còn là biểu tượng, là hình ảnh, là giá trị.
1.2. Tố Hữu là một nhà thơ lớn, đồng thời là một nhà hoạt động cách
mạng. Ông được mệnh danh là con chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt

Nam. Cả cuộc đời sáng tác, ông đã để lại một khối lượng thi phẩm đồ sộ, với
những tập thơ lớn như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một
tiếng đờn. Thơ ông theo sát những chặng đường lớn của cách mạng Việt
Nam. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị thể hiện lẽ sống lớn, những tình
cảm lớn của người công dân, người chiến sĩ cách mạng đối với Đảng, với Tổ
quốc, với nhân dân, với Bác Hồ. Thơ Tố Hữu không chỉ có giá trị lớn về mặt
nội dung mà còn có giá trị lớn về mặt nghệ thuật. Đọc thơ Tố Hữu, mỗi từ
mỗi câu đều ánh lên niềm tin, lý tưởng cách mạng. Nếu nói không quá thì từ
nào, dù là những từ không có nghĩa từ vựng như tiểu từ hay phụ từ cho đến
những lớp từ cơ bản như danh từ, động từ, hay tính từ trong thơ ông cũng đều
là phương tiện nghệ thuật để chuyển tải lý tưởng, lẽ sống, niềm tin khát vọng
của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Trong rất nhiều lớp từ mang giá trị nghệ
thuật đó, có một lớp từ rất tiêu biểu được nhà thơ sử dụng dày đặc, xuyên suốt
các tác phẩm, thể hiện rõ ý đồ của nhà thơ, đó chính là lớp động từ chỉ sự vận
động di chuyển.


6
1.3. Trong hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu luôn có mặt trong chương
trình sách giáo khoa Ngữ văn ở các cấp học. Thơ ông đã "đốt lửa" và "truyền
lửa" cho biết bao thế hệ bạn đọc. Đồng thời, thơ Tố Hữu đã trở thành đối
tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi trong nước
cũng như nước ngoài. Thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ nhiều góc độ, bình
diện khác nhau. Tố Hữu được đánh giá là "nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca
cách mạng Việt Nam hiện đại".
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Động từ chỉ sự vận động
di chuyển trong thơ Tố Hữu” làm đối tượng nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Động từ chỉ sự vận động di chuyển đã được các nhà Việt ngữ học
nói đến từ lâu khi nghiên cứu về từ loại động từ. Có thể kể đến một số tác giả

tiêu biểu như Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Đinh Văn Đức, Lê Biên,
Hoàng Trọng Phiến, Đỗ Thị Kim Liên v..v…
Vận dụng lý thuyết về động từ, đã có một số công trình nghiên cứu
động từ trong tác phẩm văn học. Đó là các bài viết, các luận văn, luận án như:
- Trịnh Thị Hương với công trình: “Động từ trong tục ngữ tiếng Việt”
(Luận văn cao học Đại học Vinh).
- Đỗ Ngọc Quyên với công trình: “Đặc điểm của động từ trong ca dao”
(Luận văn cao học Đại học Vinh).
- Phạm Thị Lựu với công trình: “Đặc trưng ngữ nghĩa các nhóm động
từ trong ca dao trữ tình Việt Nam” (Luận văn cao học Đại học Vinh).
2.2. Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc vậy nên hơn nửa thế kỉ qua, thơ
Tố Hữu trở thành đối tượng nghiên cứu quan trọng của giới học thuật, thu hút
hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi. Từ những góc độ tiếp cận
khác nhau, các nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá: Tố Hữu là một phong
cách lớn, thơ Tố Hữu có giá trị đặc sắc trong sự phát triển của nền văn học
dân tộc.
Trước hết là những nghiên cứu ở góc độ phê bình văn học. Đến nay đã
có hàng trăm công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ góc độ phê bình văn


7
học. Đó là các công trình của các giáo sư văn học đầu ngành và các nhà thơ
nhà văn như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, Lê
Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Phong Lan,
Trần Thanh Đạm, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi,… Ngoài
những giáo sư hàng đầu, các nhà thơ lớn còn có rất nhiều tác giả khác cũng
nghiên cứu về thơ Tố Hữu, đó là các bài báo, các luận văn, luận án. Có thể kể
đến các tác giả như Mai Lương, Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thị Hải Lý, Trần
Danh Thạo, Nguyễn Thị Yến, Mai Văn Phương, Vũ Thanh Dũng, Nguyễn
Thị Lan, Mai Xuân Hải,...

Trong “Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu”, Nguyễn Văn Hạnh có
viết "Đọc thơ anh thoáng qua dễ không thấy hết được những phát hiện mới
mẻ, độc đáo. Ít thấy kỹ thuật. Thậm chí có những cái quen thuộc, "chung
chung", gần "mòn", "cũ" (…). Nó có chỗ mạnh của nó. Đó cũng là một trong
những chỗ mạnh của văn học dân gian" [23, tr. 843].
Lê Đình Kỵ đã khẳng định tính dân tộc đậm đà trong thơ Tố Hữu qua
cách sử dụng ẩn dụ trong thơ: "Tố Hữu cũng sử dụng rộng rãi lối ví von rất
quen thuộc của ca dao (…). Thông thường thì là ví von gián tiếp hơn, theo lối
mà ngày nay chúng ta gọi là ẩn dụ, nhưng ý vị và cấu trúc thì vẫn rất gần với
ca dao" [38, tr.801].
Trong cuốn “Những thế giới nghệ thuật thơ”, Trần Đình Sử có nhận xét
về thế giới ngôn từ trong thơ Tố Hữu: "Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả một
thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột cùng, dâng hiến tột độ. Hệ thống hình
ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu thực sự là tiếng thơ nóng bỏng, sáng ngời,
bay bổng, nhiệt huyết" [51, tr.187]. Cũng trong bài viết này, tác giả khẳng
định "Ngôn từ thơ Tố Hữu mang tính chất hiện thực và cổ điển" [51, tr.188].
Đặng Thai Mai trong công trình “Mấy ý nghĩ” đã khái quát các giá trị
nội dung chính của thơ Tố Hữu. Nguyễn Đình Thi trong “Mấy vấn đề văn
học” cũng dành rất nhiều trang bàn về thơ Tố Hữu. Nhà thơ đã khẳng định


8
những giá trị của thơ Tố Hữu đối với cách mạng và dân tộc. Chế Lan Viên
trong “Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu” cũng phân
tích sức mạnh của thơ Tố Hữu. Xuân Diệu trong “Phê bình giới thiệu thơ” đã
chỉ ra những đặc trưng thơ Tố Hữu và sự đóng góp to lớn của thơ Tố Hữu vào
thơ Việt Nam hiện đại.
Tác giả Trần Đình Sử trong “Thi pháp thơ Tố Hữu” đã chỉ ra những
đặc điểm quan trọng trong thơ Tố Hữu từ kiểu nhà thơ, quan niệm nghệ thuật
về con người thế giới đến ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ,…

Tác giả Phong Lan trong tác phẩm “Tố Hữu - tác gia và tác phẩm” đã đề
cập đến những vấn đề: Quan niệm Tố Hữu về văn học nghệ thuật, câu chuyện
về con đường thơ, Tố Hữu một tài năng thơ ca - nhà thơ mở đầu nền thơ ca
cách mạng, nhà thơ của tình thương mến, nhà thơ của lẽ sống thời đại,…
Còn về góc độ ngôn ngữ học cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
về thơ Tố Hữu như tìm hiểu về nhạc điệu, đại từ, danh từ riêng, về từ chỉ màu
sắc, về từ chỉ cảm thán, từ chỉ không gian, thời gian… trong thơ Tố Hữu. Có
thể kể một số công trình tiêu biểu như:
- Nguyễn Thị Hải Hoa với công trình: “Nhạc điệu thơ Tố Hữu” (Luận
văn cao học Đại học Vinh).
- Trần Danh Thạo với công trình: “Đặc điểm ngôn ngữ thơ trong tập
Gió Lộng” (Luận văn cao học Đại học Vinh).
- Mai Văn Phương với công trình: “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu trong
đời sống văn học cách mạng Việt Nam” (Luận văn cao học Đại học Vinh).
- Lê Thị Hà với công trình: “Đại từ trong thơ Tố Hữu”, luận văn tốt
nghiệp Đại học Vinh, năm 2007.
- Nguyễn Thị Yến với công trình: “Từ chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu”,
khóa luận tốt nghiệp Đại học Vinh, năm 2006.
- Trần Thị Bích Thủy với công trình: “Khảo sát vốn từ chỉ không gian,
thời gian trong thơ Tố Hữu” khóa luận tốt nghiệp Đại học Vinh, năm 2005.
- Hoàng Thị Hằng với công trình: “Danh từ riêng trong thơ Tố Hữu”
khóa luận tốt nghiệp Đại học Vinh, năm 2010.


9
Điểm lại các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi thấy chưa có công
trình nào nghiên cứu về động từ nói chung cũng như động từ di chuyển nói
riêng trong thơ Tố Hữu. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “ Động từ chỉ vận động
di chuyển trong thơ Tố Hữu” làm đối tượng nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là động từ chỉ sự vận động di
chuyển trong thơ Tố Hữu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì số lượng thơ Tố Hữu rất nhiều, với nhiều tập thơ, và xuất phát từ
mật độ xuất hiện động từ chỉ sự vận động di chuyển trong các tập thơ có khác
nhau nên chúng tôi chỉ khảo sát động từ chỉ sự vận động di chuyển trong bốn
tập thơ quan trọng nhất là Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thống kê, phân loại các động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ
Tố Hữu.
- Phân tích đặc điểm của động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ
Tố Hữu.
- Phân tích vai trò của động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu.
- Rút ra một số đặc điểm của phong cách ngôn ngữ thơ Tố Hữu qua
động từ di chuyển.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê phân loại: Thống kê và phân loại động từ chỉ
vận động di chuyển trong các tập thơ của Tố Hữu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích đặc điểm từng kiểu loại
động từ chỉ vận động di chuyển trong thơ Tố Hữu. Trên cơ sở đó đưa ra nhận
xét, đánh giá khái quát những nét độc đáo về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của
nhà thơ trong việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật.


10
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Luận văn so sánh cách sử dụng động
từ chỉ vận động di chuyển qua các tập thơ của Tố Hữu để làm nổi bật lên
phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà thơ.

6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu động từ di chuyển trong thơ Tố
Hữu một cách có hệ thống. Các kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ
sung, làm rõ cho lý thuyết về động từ nói chung và động từ di chuyển nói
riêng trong tiếng Việt. Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng có góp phần nhất
định trong việc khẳng định phong cách thơ Tố Hữu, và góp phần vào việc
giảng dạy thơ Tố Hữu ở trường phổ thông hiệu quả hơn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung liên quan đến đề tài.
Chương 2: Đặc điểm của động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ
Tố Hữu.
Chương 3: Vai trò của động từ chỉ sự vận động di chuyển trong thơ
Tố Hữu.


11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Động từ và động từ chỉ vận động di chuyển trong tiếng Việt
1.1.1. Động từ
1.1.1.1. Khái niệm động từ
Động từ là một từ loại phức tạp nhất, được sử dụng rộng rãi nhất,
chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong hệ thống các loại từ của các ngôn ngữ.
Sự quan trọng của nó đã được chú ý ngay từ thời các nhà triết học và các nhà
ngữ văn cổ đại ở Hi Lạp và Ấn Độ.
Ở Việt Nam đã có nhiều nhà ngôn ngữ nghiên cứu về động từ. Xung
quanh vấn đề động từ từ trước tới nay có hai ý kiến trái ngược nhau. Ý kiến
thứ nhất là phủ nhận sự tồn tại của từ loại động từ trong tiếng Việt. Hướng ý

kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ.
Hướng ý kiến thứ nhất tiêu biểu là Grammart và Lê Quang Trinh. Hai
tác giả này phủ nhận khả năng nhận định các từ loại trong tiếng Việt, do đó
phủ nhận sự tồn tại của động từ: “Trong tiếng Việt không có đại từ, mạo từ,
danh từ hay động từ cũng không có giống, số mà chỉ có những từ không thôi.
Những từ này đều là những từ đơn âm tiết, nội dung không biến đổi, ý nghĩa
của chúng thay đổi hay được xác định nhờ những từ đặt trước hay theo sau,
nghĩa là nhờ chức năng vị trí ở trong câu” (Nghiên cứu tiếng An Nam, 1992, tr
201 - 202). Ngày nay hướng ý kiến này khó đứng vững.
Hướng ý kiến thứ hai thừa nhận sự có mặt của động từ song lại quan
niệm khác nhau về khả năng và kết quả phân loại. Tác giả Trần Trọng Kim
cho rằng: “Động từ là tiếng biểu diễn cái dụng của chủ từ” (xem Trần Trọng
Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm, Việt Nam văn phạm, Sài Gòn, 1940).
G.Obare, Trương Vĩnh Kí, V.Bacbie, Nguyễn Lân trái lại đều lấy tiêu
chí nghĩa để xác định khái niệm động từ: “Động từ là thứ dùng để diễn đạt


12
một động tác, một hành vi, một ý nghĩa hoặc một cảm xúc, một trạng thái
hoặc sự phát triển, biến hóa của một trạng thái” (Nguyễn Lân, Ngữ pháp Việt
Nam, Hà Nội, 1956, tr32).
Lê Văn Lý, Êmênô thấy được hạn chế của quan niệm chỉ dựa vào ý
nghĩa nên họ tỏ ra khách quan hơn là dựa vào hình thức. Tuy nhiên hạn chế
của họ là bỏ qua mặt ý nghĩa, tuy đó là một trong hai mặt không thể thiếu
được khi nghiên cứu bất kì một hình tượng ngôn ngữ nào. Tác giả Lê Văn Lý
nói rõ chủ chương của mình: “Người chức năng chủ nghĩa tốt nhất làm việc
không dựa vào ý nghĩa của từ mà dựa vào chức năng của chúng, sự ứng phó
của chúng và kết cấu của chúng” (Lê Văn Lý, Le parler VietNamien, Paris,
1948, tr 132, 134).
Quan niệm về động từ mà Êmênô đưa ra còn có ý nghĩa rất rộng không

những đó là động từ mà còn có cả tính từ và phó từ. Nghĩa là ông không thừa
nhận sự độc lập của động từ, không cho rằng từ loại này tách khỏi tính từ và
phó từ.
Hiện nay quan điểm tỏ ra thuyết phục và được nhiều người ủng hộ là
lấy tiêu chuẩn làm quy định, ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp để xác
định khái niệm, khả năng đặc điểm và phân định nhóm động từ của tác giả:
Hoàng Tuệ, Nguyễn Kim Thản, Lê Biên, Diệp Quang Ban, Đinh Văn Đức,
Phan Thiều, Lê Cận, Đỗ Thị Kim Liên,…
Khi nói về khái niệm động từ các tác giả đều thống nhất: Động từ là lớp
từ biểu thị ý nghĩa hoạt động hay trạng thái nhất định của người và sự vật.
1.1.1.2. Đặc điểm của động từ
a. Về ý nghĩa khái quát
Động từ là những thực từ chỉ quá trình, các dạng vận động của sự vật,
thực thể có sự vật tính. Quá trình vận động có thể là hoạt động, hành động
như: tôi đọc sách, cô ấy dệt vải; có thể là trạng thái cảm nghĩ như: em yêu
quê hương, nó mong thư; có thể là quá trình biến đổi như: chúng tôi trở thành


13
giáo viên; quá trình vận động di chuyển như: mẹ đi Nha Trang, hoặc vận động
ban phát như: con biếu mẹ tấm áo.
b. Về ngữ pháp
b.1. Trong cấu trúc động từ khi làm thành tố trung tâm, động từ có khả
năng kết hợp với các thành tố phụ sau đây:
Thành tố phụ trước động từ: có tên gọi chung là các thành tố phụ chỉ
tình thái. Những thành tố phụ này vừa thể hiện ý nghĩa ngữ pháp, vừa mang ý
nghĩa tình thái. Đó là những từ:
Chỉ phạm vi đối chiếu của vận động, hoạt động như: cũng, đều, cứ…
Chỉ sự tiếp diễn của hoạt động như: còn, vẫn, vẫn còn…
Chỉ về thời - thể của vận động, quá trình như: sắp, đang, đã, sẽ, vừa,

vừa mới…
Chỉ ý nghĩa phủ định như: chưa, không, chẳng…
Chỉ ý nghĩa khuyên can, ngăn cấm như: hãy, đừng, chớ…
Chỉ về mức độ của trạng thái, hoạt động như: rất, hơi…
Cần chú ý là khả năng kết hợp “HÃY, ĐỪNG, CHỚ” là đặc trưng ngữ
pháp tiêu biểu của động từ tiếng Việt.
Ví dụ:
- Hồi trước, cả hai chúng tôi đều học một trường.
- Ông vừa mới mua được con mèo tam thể.
(Nguyễn Công Hoan)
- Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác.
(Dương Hương Ly)
- Thủ và Ban cũng vừa bì bõm lội đến.
(Nguyễn Khải)
- Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
(Hàn Mặc Tử)


14
- Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ.
(Nguyễn Mỹ)
Điều cần lưu ý là, các thành tố phụ này vừa có tính chất từ pháp, vừa có
tính chất cú pháp.
Chúng không những xuất hiện trong cấu trúc một ngữ động từ mà còn
có thể xuất hiện trong cấu trúc khác, những bối cảnh khác như:
- Bây giờ đang ngày mùa.
- Chúng tôi cũng một lòng.
- Những cô này đều quê Hải Phòng.
Các thành tố phụ trước động từ không có vị trí ổn định, rõ ràng, dứt

khoát như ở ngữ danh từ. Do tác động về nghĩa, một số nhóm từ có thể đối lập
nhau, không thể cùng tồn tại trong một cấu trúc. Chính vì vậy, không thể
dựng được mô hình cấu trúc ngữ động từ có đầy đủ tất cả các nhóm thành tố
phụ cũng xuất hiện như ở danh ngữ. Sơ bộ có thể thấy cấu trúc của ngữ động
từ có thành tố trung tâm và các thành tố phụ trước.
Chỉ
phạm vi Tiếp diễn
cũng,
đều, cứ

vẫn, còn

Thời
gian

Chỉ phủ
định

đã, sẽ,
đang, sắp

Không,
chưa
chẳng

Chỉ
mệnh
lệnh
Hãy,
đừng,

chớ

T

Động từ
làm trung
tâm ngữ

(T: có thể là tính từ hoặc từ phụ có vị trí linh hoạt, đứng trước hoặc sau
động từ trung tâm).
Khảo sát ngữ liệu thực tế, các ngữ động từ thường chỉ có 2 đến 4 thành
tố phụ ở trước, trường hợp dưới đây là rất hạn hữu:
Cũng vẫn cứ đang còn rất lo lắng về tình trạng sức khỏe của bà ấy.
Xem xét khả năng kết hợp giữa các từ ở trước động từ, chúng ta càng thấy rõ
tính chất phức tạp, không thuần nhất của chúng:


15

Cũng
Vẫn
Đều
Lại
Cứ

Cũng
+
-

Vẫn

+
+
+
+

Đều
+
-

Lại
+
+
-

Cứ
+
+
-

Nhà ngôn ngữ học Nga Lekomcev Ju đã biểu thị mối quan hệ giữa
động từ trung tâm với các thành tố phụ như sau:
®îc


®Òu

còng

®ang
®éng tõ

®·
(muèn)

VÉn
Kh«ng

(ph¶i)
(cÇn)

Các thành tố phụ này có thể là thực từ hoặc hư từ (thường là thực từ),
có tính chất cú pháp rất đa dạng, có thể thuộc về các từ loại khác nhau. Các
thành tố phụ về cấu tạo có thể là từ ngữ và cũng có thể là một cụm chủ - vị.
- Danh từ là thành tố phụ thường gặp nhất sau động từ trung tâm, như:
viết thư, đọc sách, chặt cây, cuốc đất, thăm mẹ, về quê Hà Nội, đi máy bay,
nằm võng….
Các thành tố phụ thuộc từ loại khác:
- thi đỗ, chặt đổ, bẻ gẫy (thành tố phụ là động từ).
- học giỏi, hát hay, múa đẹp, cười vui vẻ (tính từ).


16
- chia tư (số từ).
- ăn rồi, làm xong, tìm thấy (thành tố phụ là hư từ thường là phụ từ
hoặc quan hệ từ).
b.2. Chức năng ngữ pháp của động từ trong câu
Giống như danh từ, động từ có thể đảm nhiệm nhiều chức vụ ngữ pháp
khác nhau. Chức năng phổ biến, thường trực: tiêu biểu nhất của động từ trong
cấu trúc câu đơn là làm vị ngữ trực tiếp, độc lập.
Ví dụ:
- Mặt trời mọc.

- Hoa nở.
- Nó đọc sách.
- Chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Họ trả sách cho thư viện.
- Mẹ đi chợ.
Ngoài chức năng vị ngữ, động từ còn có thể đảm nhiệm các chức vụ
ngữ pháp khác:
+ Động từ làm chủ ngữ. Khả năng này của động từ là ít xuất hiện và
cấu trúc câu thường có từ “là”, ví dụ:
- Sản xuất tốt là nhiệm vụ của nhà máy chúng ta.
- Dạy tốt, học tốt là nhiệm vụ của thầy và trò trong nhà trường chúng ta.
+ Động từ giữ chức vụ bổ ngữ, ví dụ:
- Con tập nói.
- Nó xin mua cuốn sách.
+ Động từ giữ chức vụ định ngữ, ví dụ:
- Cô ấy đọc cuốn truyện mới mua.
- Hàng mới về chưa có giá.


17
Điều đáng lưu ý là: với khả năng làm định ngữ, động từ có thể kết hợp
với danh từ tạo nên từ ghép chính phụ, loại biệt nghĩa, ví dụ: nhà ăn, bàn học,
xe ủi, rau luộc, phòng tắm, bánh rán, thuốc tiêm….
1.1.1.3. Phân loại động từ
Hiện nay có nhiều cách phân loại động từ khác nhau. Chúng tôi xin
điểm qua một số cách phân loại như sau:
a. Trương Vĩnh Kí chia động từ tiếng Việt thành:
- Động từ phụ trợ
- Động từ chủ động
- Động từ bị động

- Động từ phản thân
- Động từ tương hỗ
- Động từ vô nhân xưng và động từ đơn nhân xưng
- Động từ đơn giản và động từ ghép
- Động từ liên tục và động từ giảm nhẹ
b. Nguyễn Kim Thản chia động từ tiếng Việt thành:
- Phân loại động từ theo sự phân phối của các hư từ phục vụ động từ:
+ Nhóm 1: Là những động từ có phương hướng xác định
+ Nhóm 2: Nhóm động từ đa phương
+ Nhóm 3: Nhóm động từ vô phương
+ Nhóm 4: Nhóm động từ trạng thái
+ Nhóm 5: Nhóm động từ tình cảm
+ Nhóm 6: Nhóm động từ tri giác
- Phân loại theo tính chất chi phối của động từ
+ Những động từ thuộc nhóm ngoại hướng: Động từ tác động,
động từ nửa tác động, động từ phát nhận, động từ hạn chế, động từ gây khiến,
động từ đánh giá nhận xét, động từ xuất hiện - tồn tại - tiêu hủy, nhóm động


18
từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ thể, động từ cảm nghĩ nói năng, động từ - hệ
từ, động từ tình thái.
c. Diệp Quang Ban chia động từ tiếng Việt thành:
- Động từ không độc lập:
+ Động từ tình thái
+ Động từ quan hệ
- Độc từ độc lập:
+ Phân loại theo phụ từ đi kèm
+ Phân loại theo thực từ đi kèm
d. Nguyễn Anh Quế chia động từ thành:

- Nhóm động từ chỉ hoạt động tình cảm: yêu, thương, thích, quý, mến,…
- Nhóm động từ chỉ trạng thái: có, còn, mất, hết,…
- Nhóm động từ biểu thị ý chí khả năng: muốn, mất, còn, nữa, có thể,…
- Nhóm động từ biểu thị hành động nội hướng: ngủ, bơi, chạy, nhảy,
khóc, cười,…
- Nhóm động từ ngoại hướng: viết, đọc, ăn, xây, phát triển, qua,
sang, về,…
- Nhóm động từ khuyết ý: được, bị, trở thành, trở nên, biến thành,…
e. Lê Biên chia động từ tiếng Việt thành:
- Động từ độc lập:
+ Động từ tác động
+ Động từ trao nhận
+ Động từ gây khiến
+ Động từ cảm nghĩ nói năng
+ Động từ chỉ vận động di chuyển
+ Động từ tồn tại
+ Động từ chỉ quá trình biến hóa


19
- Động từ không độc lập:
+ Động từ chỉ khả năng ý chí
+ Động từ chỉ sự tiếp thụ
f. Đỗ Thị Kim Liên chia động từ tiếng Việt thành:
- Động từ nội động
- Động từ ngoại động
- Động từ phát nhận
- Động từ gây khiến
- Động từ cảm nghĩ nói năng
- Động từ biến hóa

- Động từ xuất hiện tồn tại
- Động từ tình thái
- Động từ chuyển động
- Động từ trạng thái
- Động từ kết nối
- Động từ bị động
Nhìn vào cách phân loại trên có thể thấy mức độ phân chia cụ thể có
khác nhau nhưng những tiểu loại cơ bản của động từ thì đều giống nhau. Hai
tác giả Lê Biên và Đỗ Thị Kim Liên phân loại khá cụ thể chi tiết và các tiểu
loại động từ mà hai tác giả này phân tương đối gần nhau. Luận văn của chúng
tôi theo cách phân loại của tác giả Lê Biên. Thuật ngữ động từ chỉ vận động
di chuyển được chúng tôi dùng theo cách gọi của Lê Biên. Sau đây, chúng tôi
xin trình bày cụ thể các loại động từ theo cách phân loại của Lê Biên.
Trước hết ông chia động từ tiếng Việt thành 2 mảng lớn là những động
từ độc lập và những động từ không độc lập.
a. Những động từ độc lập: Là những động từ tự thân đã có nghĩa. Chúng có
thể dùng độc lập, không cần một động từ khác đi kèm, và có thể giữ chức vụ
làm thành phần chính của câu như:


20
+ Tôi mở cửa.
+ Cô ấy hát.
+ Chiếc xe mới mua.
+ Chú bé cắt cỏ.
Trong mảng động từ độc lập có các tiểu loại động từ sau:
a1. Động từ tác động: là những động từ chỉ vận động, quá trình thuộc
về hoạt động hành vi của chủ thể. Động từ này có bổ ngữ đối tượng. Hành
động do chủ thể gây ra có tác động đến đối tượng, làm cho đối tượng biến đổi
về tính chất, trạng thái hoặc vị trí trong không gian. Đó là các động từ như:

cắt, gặt, cuốc, chặt, ăn, bắt, gánh, xách, giết, đọc, đóng…
Ví dụ:
+ Nông dân gặt lúa.
+ Anh ấy đóng ghế.
+ Chị tôi gánh nước.
Kết quả chịu tác động ở đối tượng tùy thuộc vào đặc trưng nghĩa của
từng lớp động từ cụ thể.
+ Nó kéo xô nước ở giếng lên.
+ Sâu cắn lúa.
+ Công nhân xây dựng đang sửa chữa các lớp học.
Sơ đồ cấu trúc hoạt động của những từ này:
A - V - A1
(A, A1: Là danh từ hoặc đại từ. A: chủ thể tác động, A1: bổ ngữ đối
tượng chịu tác động, V: động từ tác động).
Cũng có khi A1 không xuất hiện: Nông dân đi gặt (nếu nghĩa của động
từ đã xác định).
Trong lớp động từ chỉ hành động tác động, có tiểu loại có 2 bổ ngữ (ít
nhất phải có một bổ ngữ đối tượng).


21
a2. Động từ mang nghĩa trao nhận
Đó là những động từ như: tặng, cho, biếu, cấp, phát, trả, nộp, đền,
dâng (ý nghĩa trao) và: vay, mượn, đòi, chiếm, cướp, đoạt, thu, thu hồi (ý
nghĩa nhận).
Về nghĩa khái quát: là động từ chỉ vận động, hoạt động mang ý nghĩa
trao hoặc nhận.
Về ngữ pháp: thường có hai bổ ngữ: một bổ ngữ chỉ sự vật là đối tượng
được trao nhận (A2); một bổ ngữ là đối tượng bị tác động (A1) - bổ ngữ này
có khi không xuất hiện. Cả hai bổ ngữ đều do hoạt động của chủ thể chi phối.

Sơ đồ cấu trúc hoạt động của động từ trao nhận:
A - V - A2 - A1
(A1: được gọi là bổ ngữ đối tượng trực tiếp)
(A2: bổ ngữ gián tiếp, thường là danh từ hoặc đại từ xưng hô)
Ví dụ:
Học sinh mượn sách của thư viện.
A

V

A1

A2

a3. Động từ gây khiến
Là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối hoạt
động của đối tượng, ví dụ:
Bác sĩ bảo chị ấy cần đi điều trị.
Về ngữ pháp: động từ gây khiến đòi hỏi phải có hai bổ ngữ, một bổ ngữ
(A1) là đối tượng chịu tác động của động từ gây khiến, thường là danh từ và
có thể là đại từ xưng hô; bổ ngữ thứ hai là bổ ngữ nội dung do hành động của
chủ thể (động từ gây khiến) chi phối, tác động gây ra ở đối tượng; vì vậy bổ
ngữ chỉ nội dung (A2) thường là động từ, tính từ (hoặc là một số ngữ động từ,
ngữ tính từ…).
Sơ đồ cấu trúc của động từ gây khiến:
A - V - A1 - A2


22
(A: chủ ngữ; V: động từ gây khiến; Chủ ngữ có thể là một chủ thể hoặc

một dự kiện)
Ví dụ: Con học giỏi / khiến cho cha mẹ vui lòng.
A

V

A1

A2

Sản xuất lúa gạo tăng / làm cho mọi người phấn khởi.
A (c-v)

V

A1

A2

a4. Động từ cảm nghĩ nói năng
Đó là những động từ chỉ về vận động, quá trình hoạt động thuộc về
nhận thức, cảm xúc, trạng thái tình cảm như: hiểu, biết, nghe, thấy, nhớ,
mong, lo, sợ, yêu, ghét, hi vọng, căm giận, tin tưởng,…
Về ngữ pháp: sau động từ này có bổ ngữ đối tượng tác động (chứ
không phải là đối tượng bị tác động). Cấu tạo câu bổ ngữ này có thể là một từ,
một ngữ, một cụm chủ - vị.
a5. Động từ chỉ vận động di chuyển
Tiểu loại này chúng tôi sẽ trình bày thành một mục riêng.
a6. Động từ tồn tại
Khái niệm tồn tại được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm nghĩa tồn tại,

nảy sinh, xuất hiện và cả tiêu biến.
Những động từ tồn tại biểu thị trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Đặc điểm ngữ pháp của lớp động từ này là động từ tồn tại luôn xuất hiện cùng
sự vật tồn tại. Những động từ tồn tại thường được sử dụng: có, còn, nảy sinh,
nở, mọc, lặn, nổi, sống, chết, tàn, tắt, tan tác,….
Sơ đồ cấu trúc của động từ này:
A-V
Động từ tồn tại
Ví dụ: - Hoa nở
- Trăng lặn


23
Hoặc P - V - A (dạng thức câu đặc biệt chỉ sự tồn tại).
(V: động từ tồn tại; A: sự vật tồn tại; P: thành phần chỉ thời gian, vị trí
nơi chốn)
Ví dụ: - Trên bầu trời xuất hiện đàn chim én.
- Gần sáng có mưa rào.
- Trong bút còn mực.
a7. Động từ chỉ quá trình biến hóa
Là những động từ chỉ vận động quá trình biến hóa của sự vật, bắt buộc
phải có danh từ bổ ngữ ở sau. Lớp động từ này bao gồm: trở nên, nên, trở
thành, thành, hóa, biến đổi…
b. Những động từ không độc lập: còn được gọi là “động từ phụ trợ” (trợ động
từ) hoặc động từ tình thái.
Những động từ không độc lập có đặc điểm:
- Về ý nghĩa: là những động từ “trống nghĩa”, biểu thị tình thái, vận
động, quá trình nhưng tự thân chưa mang nghĩa trọn vẹn.
- Về ngữ pháp: nói chung chúng có đầy đủ các đặc trưng ngữ pháp như
các động từ khác về khả năng làm thành phần trung tâm một ngữ động từ, về

khả năng kết hợp với các thành tố phụ ở trước và ở sau.
Ví dụ: - Bố cũng cần giữ sức khỏe.
- Ngày mai anh vẫn có thể lên đường.
- Sao em lại nỡ nói với chị như thế?
Trong hoạt động cú pháp, khi làm thành phần câu, những động từ
không độc lập được “lấp đầy” về ý nghĩa bằng các thực từ (động từ độc lập,
danh từ) hoặc bằng một cụm chủ - vị.
Ví dụ: - Xí nghiệp cần những người thợ giỏi.
- Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế.
Có thể chia các động từ không độc lập thành hai nhóm:


24
- Động từ chỉ khả năng ý chí: có thể, muốn, quyết định…
- Động từ chỉ sự tiếp thụ: bị, được.
Có thể tổng kết cách phân loại động từ tiếng Việt của Lê Biên bằng mô
hình sau:
Động từ tác động
Động từ ban phát - tiếp nhận
Động từ gây khiến
Động từ độc lập

Động từ chỉ vận động di chuyển
Động từ cảm nghĩ nói năng

Động từ

Động từ tồn tại
Động từ biến hóa
Động từ không độc lập


Động từ bị động
Động từ chỉ khả năng ý chí

1.1.2. Động từ chỉ vận động di chuyển
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
a. Về ý nghĩa khái quát
Đó là những động từ chỉ vận động mang ý nghĩa hoạt động di chuyển,
dời chỗ như: ra, vào, đi, chạy, sang, bò, toài,…Khái niệm di chuyển ở đây có
thể hiểu theo ba cách:
a1. Tự thân chủ thể tiến hành hoạt động di chuyển.
Ví dụ: - Mẹ về.
- Nó lăn xuống hố.
b1. Chủ thể làm cho một sự vật khác di chuyển, dời chỗ (chủ thể không
di chuyển mà làm cho sự vật khác dời chỗ).
Ví dụ: - Nó lăn chiếc thùng xuống hố.
c1. Chủ thể và sự vật (được xem là phương tiện di chuyển cùng dời chỗ).
Ví dụ: - Tôi đi xe đạp.
- Học sinh bơi thuyền.


25
Có thể coi những trường hợp hoạt động do chủ thể tự tiến hành là
những động từ vận động di chuyển đích thực (trường hợp a1, c1). Còn trường
hợp (b1) là vận động di chuyển không đích thực, nói khác đi, đó là những
động từ ngoại động.
b. Đặc điểm ngữ pháp
Bản thân ý nghĩa đặc trưng của động từ sẽ chi phối những biểu hiện
ngữ pháp. Đã là vận động di chuyển thì đương nhiên có quan hệ gắn bó với
phạm vi không gian và phạm vi thời gian (trước hết chủ yếu nhất là phạm vi

không gian).
Trong ý nghĩa không gian, cái quan trọng cơ bản nhất là: ý nghĩa định
vị và ý nghĩa phương hướng. Cần hiểu khái niệm định vị theo nghĩa rộng, bao
gồm việc quy chiếu, xác định một vị trí, một sự vật cụ thể, đích thực và định
vị nhận thức (thuộc phạm vi tinh thần, có quan hệ đến hình thái ý thức, văn
hóa - lịch sử, xã hội…). Trên tọa độ không gian phải xác định hai vị trí làm
mốc: điểm gốc và điểm giới hạn trong không gian.
Đối với động từ vận động di chuyển cần chú ý xác định vị trí xuất phát
hay đích của di chuyển có liên quan tới vị trí gốc và giới hạn của vận động di
chuyển. Có như vậy, chúng ta mới thấy hoạt động đa dạng, linh hoạt của lớp
động từ di chuyển. Chẳng hạn cách nói:
- Chúng tôi vào thăm lăng Bác.
- Con ra thăm lăng Bác.
(Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác)
Đặc điểm riêng biệt của động từ vận động di chuyển là sau động từ bắt
buộc phải có thành tố phụ chỉ nơi chốn (bổ ngữ chỉ địa điểm).
Ví dụ: - Tôi vào Nha Trang.
- Mẹ đến xí nghiệp.
- Chúng em ra sân.


×