Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Quá trình giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.78 KB, 105 trang )

1


2


3


2.2. Giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ giai đoạn 1936 – 1939………….44
2.2.1. Chủ trương của Đảng………………………..……………………...……44
2.2.2. Kết quả………………………………………..………………………….52
2.3. Đánh giá…………………………………………..………………………..59
Tiểu kết chương 2:…………………………………………..….........................63
CHƯƠNG 3. CHỦ TRƯƠNG GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1939 – 1945……………….....64
3.1. Bối cảnh lịch sử………………………………………………………..….64
3.1.1. Bối cảnh quốc tế……………………………………….………………..64
3.1.2. Tình hình trong nước……………………………………………………68
3.2. Chủ trương đấu tranh mới của Đảng Cộng sản Đông Dương…………..…70
3.3. Kết quả…………………………………………………………………….82
3.4. Một số nhận xét đánh giá……….…………………………………………87
Tiểu kết chương 3: ………………………………………………………..……92
KẾT LUẬN …………………….……………….………………………...…...93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………..…………………………......96

4


5



MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau gần một phần tư thế kỷ,

từ một quốc gia độc lập có chủ quyền chúng ta trở thành thuộc địa của Pháp. Đối
với dân tộc ta, một dân tộc có truyền thống yêu nước nồng nàn, suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước truyền thống đó luôn được gìn giữ và phát huy
mỗi khi đất nước đứng trước họa xâm lăng. Cho nên, ngay từ khi trở thành thuộc
địa của thực dân Pháp, nhân dân ta phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, quyền dân
tộc và dân chủ bị giam cầm trong chế độ thực dân đen tối, hàng nghìn cuộc đấu
tranh đòi quyền dân tộc và dân chủ đã diễn ra nhưng đều đi đến thất bại, con
đường cứu nước đen tối tưởng chừng không có lối ra. Đến cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng về
đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Khi đó, năm 1911, người thanh niên
yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định rời quê hương ra đi tìm đường cứu
nước. Trải qua quá trình đấu tranh, gian khổ, tìm tòi Người đã tìm ra con đường
cứu nước cho dân tộc Việt Nam – con đường cách mạng vô sản – dưới ánh sáng
của chủ nghĩa Mác – Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga đã soi sáng cho con
đường cách mạng mà Người lựa chọn. Từ đây Người xúc tiến quá trình hiện
thực hóa con đường cách mạng đó về Việt Nam – một con đường không giống
với bất cứ con đường cứu nước nào trước đó đã thực hiện trên đất nước ta.
Bước vào thế kỷ XX, thế kỷ của văn minh nhân loại cũng là kỷ nguyên của
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên
toàn thế giới. Năm 1917, cuộc cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và giành
thắng lợi, mở ra một thời đại mới, “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại
giải phóng dân tộc”, như một tiếng sét đã đánh thức nhân dân châu Á tỉnh giấc
mê hàng thế kỷ, cho nên muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con

đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Sự thật là, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa Xuân năm
1930 là một sự kiện lịch sử vĩ đại chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và
giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ đây, yêu cầu bức thiết của lịch sử
6


dân tộc là giải quyết hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ lại trở nên cần kíp hơn bao
giờ hết, điều này được chứng minh ngay trong bản Chính cương vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo được thông qua tại hội nghị thành lập Đảng Cộng
Sản Việt Nam. Chính cương nêu rõ con đường cách mạng Việt Nam là làm “Tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam thời bấy giờ,
tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: một là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực
dân Pháp, hai là, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến. Cho
nên, con đường cứu nước muốn thành công nhất thiết phải giải quyết đúng đắn
hai mâu thuẫn này, tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Tức là giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ trong cách mạng.
Thực chất của hai vấn đề dân tộc và dân chủ trong cách mạng lúc này là, đánh
đổ ách thống trị của TDP và phong kiến tay sai, giành lại độc lập cho dân tộc
đem lại ruộng đất cho dây cày và phát triển đất nước theo con đường cách mạng
vô sản. Do đó, hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ không tách rời nhau, có mối
quan hệ khăng khít với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đòi hỏi giai cấp
lãnh đạo cách mạng phải nhận thức và giải quyết một cách thỏa đáng.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chứng kiến nhiều biến
động của dân tộc ta vừa “bi” vừa “hùng”, chỉ trong vòng 15 năm nhưng đã làm
nên những trang sử hào hùng nhất, chói lọi nhất trong lịch sử hàng nghìn năm
của dân tộc ta. Từ mùa Xuân năm 1930 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam tới khi cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đã đưa nhân dân ta
tập dượt qua ba cao trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939, 1939 – 1945 để

đi đến thắng lợi cuối cùng. Cách mạng Việt Nam trong 15 năm ấy cũng là giai
đoạn thể hiện đỉnh cao cho quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong cách mạng. Tùy vào từng giai đoạn cụ thể,
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó thể hiện một cách linh hoạt, phù hợp với điều
kiện lịch sử từng thời kỳ. Giải quyết hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ - phản đế
và phản phong là yêu cầu cấp thiết của lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ nhằm mục
tiêu “độc lập dân tộc, ruộng đất dân cày”.
7


Với những lý do cơ bản nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Quá
trình giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình.
1.

Tình hình nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có rất nhiều tài liệu

nghiên cứu đã được công bố như:
Cuốn “Lịch sử Việt Nam 1930 – 1945” do PGS Trần Bá Đệ chủ biên, nhà
xuất bản trường Đại học sư phạm Hà Nội 1 xuất bản năm 1992, đã bao quát toàn
bộ thời kỳ cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời cho tới thắng lợi của cuộc
cách mạng tháng Tám khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cuốn “Lịch sử Việt Nam”, Tập II (1858 – 1945) của Viện khoa học xã hội
do GS. Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, nhà xuất bản Khoa học xã hội, tái
bản năm 2004, đã trình bày một cách khái quát lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi
thực dân Pháp nổ súng xâm lược cho tới ngày cách mạng toàn thắng năm 1945.
Cuốn “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam” (tập 1) của cố Tổng
Bí thư Trường Chinh, nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1976. Đây là tác phẩm chọn

lọc đã trình bày một cách khái quát về sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam để vạch ra đường lối chính trị, chiến lược và sách
lược của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.
Cuốn “Cách mạng tháng Tám 1945 toàn cảnh” của GS.TS Phan Ngọc Liên
biên soạn, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005. Trình bày một cách
cụ thể cuộc cách mạng tháng Tám trên phạm vi cả nước và một số vấn đề xung
quanh cuộc Cách mạng tháng Tám của Việt nam từ góc độ trong và ngoài nước.
Ngoài ra nghiên cứu lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 còn thu hút
nhiều nhà nghiên cứu về các vấn đề cụ thể như:
Luận án tiến sĩ lịch sử: “Cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở
Nghệ An” của Tiến sĩ Trần Văn Thức, công bố năm 2003 đã nghiên cứu một
cách đầy đủ và hoàn chỉnh có hệ thống cuộc cách mạng tháng Tám ở Nghệ An.

8


Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng: “Báo chí Trung Kỳ giai đoạn 1930 – 1945”
của Tiến sĩ Nguyễn Văn Trung, công bố năm 2012 đã làm sáng tỏ quá trình đấu
tranh cách mạng của Trung Kỳ thông qua hình thức báo chí của Xứ ủy Trung
Kỳ.
Những tài liệu và công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã đề cập đến các
vấn đề khác nhau của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu một các chuyên sâu, có hệ thống về vấn đề “Quá trình
giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945” cho nên thực hiện đề tài này không trùng lắp
với bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào đã được công bố, tuy nhiên đây
sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng và chủ yếu để chúng tôi thực hiện đề
tài này.
2.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện nhiệm

vụ dân tộc và dân chủ trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Giải
quyết nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến trong chiến lược cách mạng
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Nội dung đề tài tập trung phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Phạm vi thời gian của đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian 15
năm, từ năm 1930 đến năm 1945, thông qua 3 phong trào cách mạng 1930 –
1931, 1936 – 1939, 1939 – 1945.
Phạm vi không gian của đề tài được chủ yếu nghiên cứu việc thực hiện mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trên pham vi toàn nước Việt Nam.
3.

Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
- Tài liệu văn kiện, lý luận: Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng

Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ trong cách mạng.
9


- Tài liệu tham khảo: Các công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc, dân
chủ Việt Nam, các công trình chuyên khảo về lịch sử Việt Nam giai đoạn cận
đại, các công trình nghiên cứu về các phong trào cách mạng chống Pháp.
- Tài liệu báo chí: Tập hợp các bài viết liên quan đế vấn đề dân tộc dân
chủ, phong trào cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nghiên cứu lịch sử. Sử dụng phương pháp lịch sử - lôgic
làm phương pháp nghiên cứu chính. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp...
4.

Ý nghĩa của đề tài
Thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn

diện và có hệ thống về “Mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945”, với mục đích tìm hiểu một cách
cụ thể về mối quan hệ của hai nhiệm vụ này trong cách mạng Việt Nam nhằm
cung cấp một tài liệu tham khảo cho quá trình học tập và giảng dạy lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1930 – 1945.
5.

Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong phong trào cách
mạng 1930 – 1931.
Chương 2. Giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong phong trào dân chủ
1936 – 1939.
Chương 3. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc trong phong
trào cách mạng 1939 – 1945

10



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. GIẢI QUYẾT NHIỆM VỤ DÂN TỘC VÀ DÂN CHỦ
TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1931
1.1. Vài nét về tình hình Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược và
đô hộ
1.1.1. Thực dân Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam
Năm 1858, sau nhiều lần đề nghị triều đình nhà Nguyễn mở cửa biển để
giao thương buôn bán bất thành, TDP đã nổ súng vào Đà Nẵng bắt đầu cho kế
hoạch xâm lược Việt Nam bằng vũ lực. Hành động của TDP như một nhát dao
chặt đứt sợi dây xích bảo vệ vốn đã mục rũa của chế độ phong kiến Việt Nam
cũng như triều đình nhà Nguyễn – nhà nước phong kiến cầm quyền tại Việt
Nam lúc bấy giờ. Từ một quốc gia độc lập, tự chủ nay đất nước ta rơi vào cảnh
áp bức, đô hộ, mọi quyền lợi của quốc gia dân tộc đều phụ thuộc vào “nước
Pháp bảo hộ”. Triều đình nhà Nguyễn với những nỗ lực cứu vãn tình thế của
mình đã chống chọi một cách yếu ớt rồi từng bước thỏa hiệp, nhượng bộ, đầu
hàng cục bộ và đi đến đầu hàng hoàn toàn TDP bằng việc ký kết với Pháp các
điều ước bất bình đẳng. Việc Việt Nam bị tư bản phương Tây xâm lược nửa sau
thế kỷ XIX là một diễn biến tất yếu của lịch sử, nhưng tất yếu bị xâm lược
không đồng nghĩa với tất yếu bị mất nước. Với những chính sách thực thi của
vương triều Nguyễn đã biến những điều không tất yếu ấy trở thành tất yếu bị
mất nước.
Không đồng tình với những chính sách mà triều đình nhà Nguyễn thực
thi, các thế hệ văn thân, sĩ phu và đông đảo quần chúng nhân dân yêu nước Việt
Nam đã đứng lên đấu tranh nhằm đánh đuổi kẻ thù, giành lại chủ quyền dân tộc,
có những lúc phong trào yêu nước còn chủ trương “đánh cả Triều lẫn Tây”
nhằm thể hiện thái độ phản đối lại triều đình nhà Nguyễn.
Từ khi xâm lược nước ta, TDP đã thực thi những chính sách cai trị hà
khắc. Đằng sau ngọn cờ “Khai hóa văn minh” mà họ rêu rao là “ăn cướp” là
“giết người”, là mê hoặc và đầu độc nhân dân ta trong rượu cồn và thuốc phiện,

lòng tự tôn dân tộc không những bị cướp đi mà còn bị chà đạp thảm hại, quyền
11


lợi của nhân dân chẳng những không được cải thiện mà còn bị tước đoạt một
cách trắng trợn, nhân dân ta phải chịu cảnh áp bức, bóc lột đến tột cùng, quyền
dân tộc và quyền con người bị xâm phạm nghiêm trọng.
Từ đây, Việt Nam bước vào giai đoạn mới – giai đoạn đấu tranh
chống xâm lược của thực dân phương Tây để giành lại độc lập dân tộc, nhiệm
vụ cách mạng được hình thành, ngay lúc này chính là hai nhiệm vụ cơ bản: đánh
đuổi TDP và tay sai đòi lại quyền dân tộc, tức là thực hiện hai nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ.
Năm 1858, TDP nổ súng xâm lược Việt Nam, sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, chia Việt
Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế
độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết
với địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt
Nam.
Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền,
đầu tư khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ
thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách
khai thác thuộc địa của Pháp đã tạo nên sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt
Nam, nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản
Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
Về văn hóa: Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực
dân, dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu… “chúng tôi không những bị áp bức
và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê

thảm… bằng thuốc phiện, bằng rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt
tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”[53;22-23].
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo
dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, sự phân hóa
12


của các giai cấp cũ và sự hình thành một số giai cấp mới trong xã hội: trong đó
có giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận của người dân mất nước và ở những mức
độ khác nhau, đều bị TDP áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị áp bức, bóc lột của
TDP và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với TDP xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ PK.
Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với TDP xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam lúc này là xã hội thuộc địa
nửa phong kiến.
1.1.2. Yêu cầu của lịch sử dân tộc đặt ra về con đường cứu nước cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào nửa sau thế kỷ XIX, nước ta bị TDP vũ trang xâm lược, sau khi bình
định nước ta thành công bằng việc triều đình nhà Nguyễn ký kết với thực dân
Pháp các điều ước bất bình đẳng như: Hiệp ước Nhâm Tuất (năm 1862) triều
đình nhà Nguyễn đồng ý cắt 3 tỉnh miền đông lục tỉnh là Gia Định, Định Tường
và Biên Hòa cho TDP. Hiệp ước Giáp Tuất (năm 1874) triều đình nhà Nguyễn
công nhận chủ quyền của Pháp ở cả Lục tỉnh Nam kỳ. Hiệp ước Hác măng (năm
1883) triều đình nhà Nguyễn thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, còn lại
đặt dưới chế độ “bảo hộ” của Pháp. Hiệp ước Patơnốt (năm 1884) triều đình nhà
Nguyễn chấp thuận nước Pháp sẽ thay mặt cho triều đình Huế trong mọi quan hệ
đối ngoại. Từ đây nước ta chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, mọi
quyền đối nội, đối ngoại đều nằm trong chế độ “bảo hộ” của TDP.

Như vậy, dù đã bị mất nước nhưng mọi tầng lớp nhân dân yêu nước nhận
thức được rằng phải đứng lên đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,
giành lại độc lập cho dân tộc, các phong trào yêu nước nổ ra mạnh mẽ ngay khi
thực dân Pháp đặt chân đến nước ta, chính người Pháp cũng phải thừa nhận
rằng, họ đã phải đối đầu với một sự phẫn nộ ghê gớm của người dân Việt Nam,
những người tay không, chân đất nhưng tràn đầy tinh thần quả cảm, dám đấu
tranh và dám hy sinh.
13


Sau khi đã bình định nước ta, TDP bắt tay vào quá trình khai thác thuộc
địa mà họ rêu rao là “khai hóa văn minh”, cũng từ đây xã hội Việt Nam bị phân
hóa sâu sắc, TDP tăng cường bóc lột sức người sức của, từng bước biến Việt
Nam thành thuộc địa của Pháp, xâm phạm quyền dân tộc của nước Việt Nam.
Với danh nghĩa là nước bảo hộ nhưng thực chất thực dân Pháp đang xâm lược
nước ta.
Có thể thấy, từ một quốc gia phong kiến độc lập, thống nhất có chủ quyền
chúng ta mất nước rơi vào ách đô hộ của TDP, nổi lên mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với TDP xâm lược và đô hộ, đây là mâu thuẫn nổi bật, gay gắt và cơ bản nhất
lúc bấy giờ. Nhiệm vụ của lịch sử dân tộc đặt ra lúc này là đánh đuổi thực dân
Pháp để giành lại độc lập cho dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách đối với mỗi
người Việt Nam yêu nước, thôi thúc họ đứng lên đấu tranh chống ách đô hộ của
TDP.
Mặt khác, đối với chế độ PK Việt Nam nói riêng và chế độ quân chủ nói
chung trên thế giới luôn thường nhật tồn tại mâu thuẫn giai cấp, chủ yếu là giữa
nông dân với địa chủ PK. Vì vậy, như một quy luật tất yếu khi TDP xâm lược và
đô hộ nước ta mâu thuẫn dân tộc trở nên căn bản và bao trùm, theo đó mâu
thuẫn giai cấp sẽ được điều tiết tạm thời lắng dịu để tập trung giải quyết vấn đề
mâu thuẫn dân tộc. Tuy nhiên, thực tế lịch sử dân tộc lại cho thấy rằng trong quá
trình xúc tiến âm mưu xâm lược Việt Nam cũng như quá trình TDP đặt ách đô

hộ rồi từng bước thực hiện ngày càng quy mô quá trình bóc lột thuộc địa ở Việt
Nam, chúng đã nhận được sự cấu kết ngày càng rõ nét hơn của bọn phong kiến
tay sai Việt Nam. Sự cấu kết ấy ngày càng chặt chẽ, không chỉ gây tổn hại cho
phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh cách mạng mà đồng thời mâu thuẫn
giai cấp nhất là giữa nông dân với địa chủ phong kiến tay sai lại trở nên gay gắt
tồn tại cùng với mâu thuẫn dân tộc. Chính vì thế để giải quyết mâu thuẫn giai
cấp ấy đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc là phải đánh đổ chế độ phong kiến
thực hiện người cày có ruộng, đem lại tự do dân chủ cho nhân dân.
Yêu cầu khách quan của lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
đặt ra là cần phải tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ tư sản để thực thi
14


nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Đó phải là một cuộc cách mạng DCTS kiểu mới,
nhằm mục đích tiêu diệt thực dân xâm lược, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn
cho dân tộc, đánh tan phong kiến tay sai phản động, xóa bỏ những tàn tích
phong kiến, giải quyết vấn đề ruộng đất cho người nông dân, thực hiện những
quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta mất nước, mất độc lập, tự
do, mất quyền sống và mất cả nền văn hóa dân tộc hình thành qua hàng ngàn
năm lịch sử. Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc,
cơm áo hạnh phúc cho nhân dân, giành lại giá trị văn hóa và tinh thần của con
người Việt Nam là nguyện vọng thiết tha nhất của mọi người dân Việt Nam yêu
nước.
Trước hết, đối với một dân tộc, quyền dân tộc là quyền sống không bị lệ
thuộc, bị áp bức hoặc bị đô hộ bởi một thế lực nước ngoài, quyền sống trong độc
lập, tự do, bình đẳng, tự mình quyết định chế độ chính trị của mình, quyền sử
dụng tiếng mẹ đẻ và chữ viết của dân tộc trong giao lưu xã hội cũng như trong
giáo dục, trong tiếp xúc với các cơ quan công sở của nhà nước, quyền được bảo
tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Bảo đảm quyền dân tộc cơ bản cho tất cả các

dân tộc, không phân biệt là dân tộc thiểu số hay dân tộc đa số, dân tộc chậm phát
triển hay dân tộc có sự phát triển cao về các mặt là xu hướng của thời đại, là
đường lối, chính sách tiến bộ của những nhà nước hiện đại. Việt Nam là nhà
nước gồm nhiều dân tộc có truyền thống sâu sắc và đoàn kết dân tộc. Quyền dân
tộc là những quyền cơ bản nhất, đồng thời cũng là cơ sở tối thiểu để bảo đảm
cho một dân tộc tồn tại và phát triển bình thường, là cơ sở để dân tộc đó thực
hiện các quyền khác của mình.
Quyền dân tộc cơ bản gồm bốn yếu tố:
Thứ nhất là, “độc lập”: Tức là nhà nước đó phải tự định đoạt vận mệnh
dân tộc mình mà không bị lệ thuộc vào sự can thiệp của nước ngoài, không có
quân đội của nước ngoài đóng trên lãnh thổ, đó phải là một nhà nước có chủ
quyền, có nhân dân và có lãnh thổ riêng.

15


Thứ hai là, “chủ quyền”: Nhà nước có chủ quyền là nhà nước có quyền tự
quyết riêng về đối nội, đối ngoại, chiến tranh – hòa bình của quốc gia mình.
Thứ ba là, “thống nhất”: thống nhất ở đây là thống nhất về tổ chức chính
quyền nhân dân từ trung ương đến địa phương, về hệ thống pháp luật, lãnh thổ.
Thứ tư là, “toàn vẹn lãnh thổ”: một nhà nước có chủ quyền, thống nhất,
không bị chia cắt về lãnh thổ: đất liền, các hải đảo, vùng biển, vùng trời
Các yếu tố của quyền dân tộc cơ bản luôn có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Trong đó, độc lập là yếu tố quan trọng nhất vì nó là cơ sở, nền tảng quyết
định các yếu tố còn lại: có độc lập thì mới có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ.
Trước nguy cơ đối đầu với một đế quốc hùng mạnh, phát triển hơn dân
tộc ta về một nền văn minh và trình độ khoa học kỹ thuật, lúc này không phải là
cuộc đối đầu giữa những vũ khí thô sơ mà là cuộc đối đầu với các phương tiện
chiến tranh hiện đại, sự chênh lệch lực lượng rất bất lợi cho ta. Đứng trước tình

cảnh đó, chế độ phong kiến cầm quyền nước ta đã không tìm ra được kế sách để
đưa đất nước thoát khỏi họa mất nước mà đã từng bước đầu hàng giặc một cách
hèn yếu, nước ta bị xâm phạm chủ quyền, quyền dân tộc, quyền dân chủ bị xâm
hại một cách trắng trợn, do đó vấn đề đặt ra lúc này của các thế hệ người dân
yêu nước, không khuất phục trước sức mạnh của kẻ thù chính là tìm ra con
đường giải quyết cho nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đưa nước ta thoát khỏi ách
nô lệ của chế độ thực dân phương Tây.
Nhưng đối với nguyện vọng của cả dân tộc ta lúc đó là đế quốc xâm lược
và gắn liền với chúng là giai cấp phong kiến. Sự câu kết giữa đế quốc và phong
kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Do đó, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế
quốc xâm lược gắn liền với mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chế độ PK, chỗ dựa
cho ách thống trị và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, nhiệm vụ chống ĐQ
và nhiệm vụ chống PK không thể tách rời nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc
nhất thiết phải bao hàm nội dung dân chủ, phản đế và phản phong.
Chúng ta biết rằng, từ trước tới nay, một phong trào dân tộc thực sự bao
giờ cũng chứa đựng một nội dung dân chủ nhất định, bởi vì, bất cứ giai cấp nào
16


muốn đấu tranh để giành lại chủ quyền dân tộc hoặc muốn “tự mình trở thành
dân tộc”, thì không thể không đồng thời thực hiện những yêu cầu dân chủ nào
đó đối với quần chúng nhân dân - lực lượng quyết định thành bại của phong trào
dân tộc.
Nước ta là một nước nông nghiệp, hơn 90% dân số là nông dân, chủ nghĩa
đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân ta căn bản là bóc lột
nông dân. Vì vậy, giải phóng dân tộc trước hết và căn bản phải là giải phóng
nông dân. Nói DC ở đây trước hết và căn bản cũng là nói dân chủ cho nông dân.
Nguyện vọng tha thiết của nông dân là “độc lập dân tộc” và “người cày có
ruộng”, là được giải thoát khỏi hai tầng áp bức và bóc lột của đế quốc và phong
kiến. Nông dân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức và bóc lột của địa chủ, nếu đánh

đổ được chủ nghĩa đế quốc, kẻ duy trì và bảo vệ chế độ phong kiến, kẻ thù lớn
nhất của dân tộc và cũng là của nông dân. Giải phóng nông dân khỏi ách địa chủ
phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân là nội dung cơ bản của nhiệm vụ
dân chủ trong cách mạng, đồng thời cũng là xuất phát từ chính yêu cầu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bởi vì vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề
nông dân.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rõ, yêu cầu cấp thiết của lịch sử
Việt Nam đầu thế kỷ XX là phải giải quyết một cách thỏa đáng nhiệm vụ DT và
nhiệm vụ DC, tức là thực hiện một cuộc cách mạng chứa đựng cả hai nội dung
phản đế và phản phong, giành độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày.
1.1.3. Sự thất bại của lập trường cứu nước theo khuynh hướng
phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Giữa lúc quyền dân tộc và dân chủ bị xâm hại nghiêm trọng, chế độ
phong kiến cầm quyền đã hèn nhát đầu hàng giặc, các thế hệ người dân Việt
Nam yêu nước đã đứng lên tìm con đường cứu nước, cứu dân. Tiêu biểu phải kể
đến phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản.
Phong trào Cần Vương (1885 – 1896): Ngày 13/7/1885, vua Hàm Nghi
xuống chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa
phương ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị
17


Pháp bắt nhưng phong trào vẫn tiếp tục đến năm 1896. Về cơ bản phong trào
phát triển qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: (1885 – 1888) mang tính chất giúp vua cứu nước một cách
đậm nét, vua Hàm Nghi trực tiếp chỉ huy nhân dân kháng chiến ở Quảng Bình,
Hà Tĩnh và ở những địa phương khác đều có đại diện của Vua tổ chức và lãnh
đạo kháng chiến, cho thấy sự phối hợp và chỉ huy chiến đấu giữa các địa phương
là tương đối chặt chẽ và thống nhất.
Giai đoạn 2: (1888 – 1896) đây là giai đoạn Cần Vương không có

Vua, tính chất giúp vua cứu nước mờ nhạt do vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, tuy
vậy phong trào vẫn tiếp tục dưới sự dẫn dắt của văn thân, sĩ phu. Phạm vi hoạt
động của phong trào thu hẹp, chuyển trung tâm hoạt động lên vùng trung du
miền núi. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt sự phối hợp chiến đấu giữa các địa
phương trở nên rời rạc, chỉ còn quy về một số lãnh tụ tiêu biểu ở vùng Thanh –
Nghệ, tuy nhiên, do Pháp đẩy mạnh đàn áp nên phong trào cuối cũng đã thất bại
và bị dập tắt năm 1896.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884, nghĩa quân
Yên Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt
hại, cuộc đấu tranh của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành
công. Thất bại của những phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ
tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ lịch sử dân tộc đặt ra lúc này.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu
nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo
phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu
hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi TDP, giành độc lập dân tộc, khôi
phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động, một bộ phận khác lại coi cải
cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập.
18


Đại diện cho xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng
phương pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho
dân tộc. Theo ông, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đuổi thực dân Pháp khôi
phục quyền độc lập cho nước Việt Nam, đó là chủ quyền độc lập thực sự và đầy
đủ chứ không phải thứ độc lập giả hiệu, ông cho rằng cần thiết phải sử dụng bạo

động vũ trang làm phương pháp giành độc lập. Tuy nhiên, Phan Bội Châu lại lựa
chọn phương pháp thiên về bạo động cá nhân.
Phan Bội Châu thiếu sự hiểu biết về kẻ thù, ông hiểu sâu sắc về bản chất
của chủ nghĩa TDP bao nhiêu thì lại mơ hồ về đế quốc Nhật Bản bấy nhiêu, xác
định sai mối quan hệ bạn – thù, đặt niềm tin sai chỗ nên đã dẫn tới sự bế tắc
trong con đường cứu nước của mình.
Đại biểu cho xu hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân, đả kích
bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện
khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu
tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.
Ngoài ra, trước yêu cầu của lịch sử Việt Nam, các phong trào đấu tranh
diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức phong phú, các tổ chức đảng phái ra đời
nhằm nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo cách mạng như Tân Việt cách mạng Đảng, Việt
Nam quốc dân Đảng... Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng
tới giành độc lập dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm
khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao
hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Tuy diễn ra sôi nổi, dưới nhiều hình thức
nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Tóm lại, từ khi Việt Nam biến thành thuộc địa của TDP, các tầng lớp
nhân dân luôn đấu tranh để tự giải phóng. Vì quyền lợi và địa vị trực tiếp bị đế
quốc Pháp xâm phạm, một bộ phận PK Việt Nam (phái phong kiến thất thế và
có liên hệ với quần chúng) lãnh đạo cuộc vận động chống đế quốc Pháp trong
khi đại bộ phận giai cấp phong kiến, trước hết là bọn đại phong kiến, đã đầu
hàng đế quốc. Phong trào Cần Vương và Văn thân thất bại thì tiếp đến các
19


phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, mưu bạo động của Việt
Nam quốc dân Đảng với khẩu hiệu “quân chủ lập hiến” và khẩu hiệu “dân

quyền”. Trong thời gian ấy nổ ra chiến tranh du kích của nông dân ở Yên Thế,
Bắc Giang, phong trào kháng thuế của nông dân Trung Kỳ và khởi nghĩa Thái
Nguyên, những cuộc vận động mang tính chất dân chủ tư sản, nhưng chưa hoàn
toàn thoát khỏi ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến.
Các cuộc vận động trên đều thất bại vì không lập được mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp, không tổ chức được quần chúng rộng rãi,
không có cương lĩnh và chính đảng của giai cấp tiên tiến lãnh đạo, chỉ hô hào,
cổ động “đánh Tây” mà ít chú ý vận động quần chúng đông đảo đòi quyền lợi
thiết thực hằng ngày, không chú trọng xây dựng lực lượng chính trị và vũ trang,
không phát triển chiến tranh du kích, không xây dựng và củng cố các căn cứ địa
cách mạng… trong thời kỳ Văn thân lãnh đạo, phong trào yêu nước và cách
mạng Việt Nam chỉ có tính chất chống thực dân. Sang thời kỳ tư tưởng dân tộc,
dân chủ tư sản lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã có tính chất DCTS (phản đế và
phản phong), nhưng chỉ là DCTS lối cũ.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống TDP cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư
sản đã bế tắc. Xét đến cùng, nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự thất bại đó là do
chưa nhận thức đúng yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc lúc bấy giờ. Kể từ
khi thực dân Pháp xâm lược và đô hộ nước ta, nhiệm vụ đặt ra là phải giải quyết
hai mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, hay nói cách
khác là giải quyết hai vấn đề cơ bản, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ. Theo đó,
con đường cứu nước theo lập trường phong kiến đã tỏ ra lỗi thời, không phù hợp
với điều kiện lịch sử dân tộc lúc bấy giờ và xu thế của thời đại, các phong trào
đấu tranh yêu nước chỉ nhằm một mục tiêu dùng vũ khí thô sơ đánh đuổi thực
dân Pháp khôi phục lại chế độ phong kiến, không nhận thức đúng đắn nhiệm vụ
cấp thiết của lịch sử dân tộc. Con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản với hai đại biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, tuy rằng, con
đường cứu nước mang tính chất tiến bộ, song vẫn không giải quyết thỏa đáng
20



hai nhiệm vụ cơ bản là dân tộc và dân chủ, tập hợp lực lượng đánh đuổi thực dân
Pháp và bọn phong kiến tay sai. Phan Bội Châu chú ý giải quyết vấn đề dân tộc
(đánh Pháp) còn Phan Châu Trinh lại chú ý chống phong kiến, theo ông cần phải
“tiêu diệt nọc độc phong kiến”. Cả hai con đường cứu nước phong kiến và dân
chủ tư sản đều không nhận thức và giải quyết thỏa đáng yêu cầu của lịch sử dân
tộc đặt ra, không đồng thời đặt ra và giải quyết cả hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, không đáp ứng được nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp nông dân, không tập hợp
được đông đảo quần chúng nhân dân và trận tuyến đánh quân thù, do đó các con
đường cứu nước đều lần lượt rơi vào bế tắc. Từ đây cách mạng Việt Nam lâm
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về mặt đường lối, về giai cấp lãnh đạo.
Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm ra một con đường cách mạng mới, một giai
cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín
và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
1.2. Quan điểm và chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc và dân chủ
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc) quyết định rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Hành trình bôn ba của
Người trải qua những năm tháng gian khổ, hy sinh, đi tới nhiều vùng đất khác
nhau và Người nhận thấy trên thế giới này tồn tại hai hạng người: người bóc lột
và người bị bóc lột. Trong hành trình tìm đường cứu nước Người đã quan tâm,
tìm hiểu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người đánh giá cao tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư
sản tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1789), nhưng
cũng nhận thức rõ hạn chế của các cuộc cách mạng đó, từ đó Người khẳng định
con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho
nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Người đặc biệt
quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga (1917) và rút ra kết luận: trong
thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi,

nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật.
21


Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Người tìm
thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam. Tháng 12/1920, tại đại hội Đảng Xã Hội Pháp, Người bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và sau đó tham gia thành lập Đảng Cộng
sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc – từ người thanh niên yêu nước trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Từ đây, Người xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch ra phương
hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện chính trị, tư
tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam
thông qua các bài đăng trên báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công
nhân… và xuất bản một số tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Tác phẩm là một đòn giáng mạnh mẽ vào chế độ thực dân nói chung và thực dân
Pháp nói riêng, thức tỉnh tinh thần dân tộc và tinh thần yêu nước nhằm đánh
đuổi TDP xâm lược.
Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, mở
các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng
được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội
thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền
để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin và lý luận giải phóng dân tộc vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi

đi học tại trường Đại học phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng
Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Cùng với
việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công
nông, Lính cách mệnh, Tiền phong nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về
22


Việt Nam. Quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã thức tỉnh và giác ngộ
quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân phát triển
theo con đường cách mạng vô sản. Đặc biệt với tác phẩm Đường cách mệnh
(1927) được xem là cẩm nang gối đầu giường của quần chúng cách mạng, nói
cho toàn thể nhân dân ta rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc
chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người, do đó phải đoàn kết
toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công nông và phải luôn ghi nhớ rằng công
nông là người chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh. Và cách mạng
muốn thắng lợi cần phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững cách mạng mới
thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, mà trong thời đại ngày nay chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản
ra đời từ năm 1929, các cuộc đấu tranh đã mang tính chất chính trị rõ rệt, công
nhân chuyển hình thức đấu tranh từ tự phát sang tự giác, mỗi cuộc đấu tranh đã
có sự kết hợp, ủng hộ giữa các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, giữa các ngành và
các địa phương. Phong trào công nhân đã có sức thu hút và lôi cuốn phong trào
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Cũng vào thời gian này, phong trào
yêu nước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào nông dân diễn ra sôi nổi ở
nhiều nơi trên cả nước. Phong trào công nhân và nông dân đã hỗ trợ lẫn nhau
trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. “Điều đặc biệt và quan trọng
bậc nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần

chúng công nông có tính chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải chịu ảnh hưởng
quốc gia chủ nghĩa như trước nữa”[23;93].
Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
đến cuối năm 1929 ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: Đông Dương Cộng sản
Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (7/1929), Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn (9/1929). Ba tổ chức cộng sản ra đời kịp thời đáp ứng yêu cầu của phong
trào cách mạng Việt Nam, nêu cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây
23


dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức hoạt động phân tán,
chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Yêu cầu cấp thiết đặt ra lúc này cần phải thành lập một đảng duy nhất đứng ra
lãnh đạo phong trào cách mạng ở ĐD, nhận được tin về sự chia rẽ của những
người cộng sản ở ĐD, NAQ đã rời Xiêm đến Trung Quốc. Người kêu gọi và chủ
trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, họp từ 6/1/1930 đến 7/2/1930. Hội
nghị thảo luận đề nghị của NAQ gồm năm điểm với nội dung:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản ở Đông Dương.
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại
biểu Chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương” [23;1].
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam. ĐCSVN ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận
động của cách mạng Việt Nam, sự phát triển của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên đến ba tổ chức cộng sản, đến ĐCSVN trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và quan điểm cách mạng NAQ. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở
Việt Nam đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, theo một

đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ
chức và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự kiện ĐCSVN ra đời là “một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[58;8].
1.2.2. Cương lĩnh chính trị (2/1930) và Luận cương chính trị (10/1930)
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930)
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam như: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt được

24


hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN. Cương lĩnh xác định các
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[23;2]. Tính chất giai
đoạn và lý luận cách mạng không ngừng đã được thể hiện trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng: cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến
lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới khác với
những chủ trương, những con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương
thời đã đi vào bế tắc và thất bại. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp thu và
vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
Đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã
thể hiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc xác
định đúng đắn phương hướng, con đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là cơ sở để giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam.
“Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” con đường này xem ra chưa phù hợp với lý luận cách mạng của chủ nghĩa

Mác - Lênin nhưng nó lại phù hợp với điều kiện, đặc điểm và thực tiễn của cách
mạng Việt Nam: Đối với nước ta, một nước lấy nông nghiệp làm ngành chính,
dân số chủ yếu là nông dân, cho nên đưa vấn đề ruộng đất lên trên là tranh thủ
sự ủng hộ của nhân dân, làm cho họ thấy được quyền lợi của mình. Nông dân từ
xưa đến nay chưa bao giờ được làm chủ ruộng đất và hưởng phần hoa lợi đó,
nay được trao ruộng đất, người nông dân mới thấy được quyền lợi của mình một
cách trực tiếp. Do đó, con đường cách mạng này tuy không phù hợp với lý luận
cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng lại phù hợp với điều kiện, đặc
điểm thực tiễn của cách mạng Việt Nam, nó có sức lôi cuốn, hấp dẫn mạnh mẽ
nông dân tham gia vào cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam Cương lĩnh chỉ rõ: Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc
lập. Tức là nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc
25


×