Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.01 KB, 125 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_______________

LÊ TRƯỜNG CỬU

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 60.31.02.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Nghệ An, 2015
LỜI CẢM ƠN


2

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp tác giả
đã được các thầy cô giáo và cán bộ, nhân viên của trường Đại học Vinh tạo
điều kiện, giúp đỡ rất nhiệt tình. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
nhà trường, các thầy cô giáo và đặc biệt là PGS, TS.Nguyễn Lương Bằng,
người hướng dẫn khoa học đã giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Với những kiến thức đã được học tại trường và theo mong muốn


nghiên cứu, tác giả đã lựa chọn làm đề tài luận văn: "Nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện
nay". Do các giới hạn về kiến thức và thời gian nghiên cứu, chắc chắn luận
văn còn có những thiếu sót và hạn chế. Tác giả mong nhận được sự chỉ dẫn,
góp ý, nhận xét của thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp để tiếp tục hoàn
thiện trong tương lai.
Xin trân trọng cảm ơn!
Long An, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Lê Trường Cửu

MỤC LỤC
Trang


3
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
1.2. Quan điểm về tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin
1.3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là tất yếu khách quan
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH LONG AN
2.1. Khái quát tình hình các tôn giáo ở Long An
2.2. Thực trạng công tác Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Long An

2.3. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra về quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN
GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
3.1. Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở Long An
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở Long An
3.3. KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã
hội ra đời từ hàng ngàn năm lịch sử và là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống
chính trị, văn hóa xã hội, tâm lý, lối sống, phong tục tập quán và an ninh
trật tự của nhiều quốc gia dân tộc. Do vậy, cũng như các hoạt động khác
trong xã hội có nhà nước, tôn giáo tất yếu chịu sự quản lý của nhà nước.

01
08
08
18
28
39
39

54
74

81
81
82
93
98
102
107


4
Mục đích quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm
cho hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường, đúng với các qui định của pháp
luật và phong tục tập quán, văn hóa nơi hành vi tôn giáo đó diễn ra, vì lợi
ích dân tộc và cộng đồng, trong đó có lợi ích của giáo hội.
Vấn đề quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo nói chung, với giáo hội
các tôn giáo nói riêng đã được đặt ra ngay từ buổi đầu lập nước. Tại phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
ngày 3-9-1945, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên
bố Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Đề nghị của Người được thông
qua và từ đó đến nay đã trở thành một đường lối nhất quán của dân tộc ta.
Đường lối đó đã chứng tỏ tính chất đúng đắn của Đảng và nhà nước ta về
tôn giáo và công tác tôn giáo, góp phần thành công cho Cách mạng Việt
Nam trong suốt thời gian qua.
Việt Nam gồm 54 thành phần dân tộc, có lịch sử ngàn năm văn hiến.
Tôn giáo tín ngưỡng, đã trở thành một bộ phận giá trị đạo đức và văn hóa
truyền thống. Với sự hội tụ của nhiều tôn giáo, cùng với tín ngưỡng, tôn
giáo bản địa, giữa các tôn giáo có sự hòa hợp lẫn nhau. Bản chất Nhà nước

ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân do Đảng lãnh đạo. Nhà nước là
người đại diện cho lợi ích hợp pháp của nhân dân, trong đó có đồng bào tôn
giáo. Về bản chất, quan hệ nhà nước - giáo hội ở nước ta hiện nay là không
có mâu thuẫn đối kháng về lợi ích. Chủ thể quản lý và khách thể quản lý
ngày càng xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ mỗi bên, hướng đến đích
chung là xây dựng nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, nhờ đó, xu hướng
“đồng hành với dân tộc” đang thể hiện rõ trên lĩnh vực pháp lý là các hoạt
động tôn giáo ngày càng vận hành đúng trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật của nhà nước. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác


5
tôn giáo, xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ,
đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo,… Số người tham
gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Bên cạnh xu hướng hành đạo cùng dân
tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, đã xuất hiện hoạt
động tôn giáo không bình thường, vi phạm một số quy định chung của Nhà
nước, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, việc biến
gia thành tự. Ngoài ra, một số người lợi dụng tự do tín ngưỡng tiến hành
hoạt động chống đối chính quyền, kích động tín đồ tạo điểm nóng tôn giáo
gây mất ổn định chính trị. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta xác
định phải tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo, một
mặt vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải cảnh giác
chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch.
Long An nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, có 190 xã,
phường, thị trấn; 15 huyện, thị xã, thành phố. Có 05 huyện biên giới giáp
với Campuchia, 02 huyện giáp cửa sông Soài Rạp ra Biển Đông; là cửa ngỏ

của thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ, có vị trí liên
kết kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh trong khu vực Đông và Nam Bộ.
Long An bao gồm 14 tổ chức tôn giáo hợp pháp với 509 cơ sở thờ tự,
2.129 chức sắc, 2.816 chức việc và gần 400.000 tín đồ, chiếm gần 27% dân
số toàn tỉnh. Có 81/190 xã trọng điểm về công tác tôn giáo [18]. Các cấp uỷ
Đảng, chính quyền luôn quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt các chính
sách tôn giáo. Do vậy, các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các tôn


6
giáo luôn được quan tâm, đáp ứng kịp thời; đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào các tôn giáo ngày càng được cải thiện tốt hơn.
Tuy nhiên, những năm gần đây, các tôn giáo có xu hướng thành lập
mới, chia tách tổ chức tôn giáo cơ sở trực thuộc; khôi phục lại cơ sở tôn giáo
đã bị chiến tranh tàn phá, đẩy mạnh các hoạt động nâng cấp, trùng tu, xây
dựng mới cơ sở thờ tự, các hoạt động từ thiện xã hội; tình hình đòi lại đất,
xin lại đất đai có nguồn gốc từ tôn giáo đã được Nhà nước giao cho tổ chức,
cá nhân sử dụng; các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến đất đai tôn giáo có
chiều hướng gia tăng; các điểm nhóm Tin lành chưa đăng ký sinh hoạt vẫn
lén lút hoạt động, các hoạt động truyền đạo trái phép vẫn còn diễn ra, đặc
biệt là ở các xã vùng sâu, vùng xa.
Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An
đã tăng cường chỉ đạo công tác tôn giáo nói chung và trọng tâm là công tác
công quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao
nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo và vai trò của nó trong đời sống tinh thần
của nhân dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương của Đảng
và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo chống mọi âm mưu
lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

Trước những yêu cầu cấp bách đó, bản thân là người trực tiếp tham
gia công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở địa phương, tác
giả chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay ” làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành chính trị học với mong muốn đóng góp làm giàu thêm lý luận


7
thông qua kinh nghiệm thực tiễn về quản lý Nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử, từ trước tới nay có nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong
nước và ngoài nước sưu tầm, biên soạn. Những công trình nghiên cứu có
thể tạm chia thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Các công trình khoa học chuyên ngành
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này như:
GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở
Việt Nam, Nxb CTQG; GS.TS Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng Việt Nam- lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị;
Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo; Lê
Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS. TS Ngô Hữu Thảo - chủ nhiệm
đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng
giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS. TS Hoàng Minh
Đô- Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo tin lành ở Việt Nam- Thực trạng, xu
hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo,
quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,…
Nhóm thứ hai: Các đề tài nghiên cứu liên quan
Liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động

tôn giáo có các công trình khoa học sau: Ban Tôn giáo Chính phủ (2005),
Tập bài giảng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo; Bùi Đức Luận (chủ biên), Tôn giáo và


8
công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo, Nxb Tôn giáo,
2005; TS Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam
hiện nay, Nxb CAND; TS Trần Minh Thư (2005), “Quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”; Hoàng Công Khôi
(2001), Quản lý nhà nước đối với Đạo Thiên chúa giáo trên địa bàn Thành
phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ Luật học) . Ngoài ra còn có nhiều bài viết,
luận văn cao cấp lý luận chính tri – hành chính về công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo đăng trên một số Tạp chí chuyên ngành…
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác
nhau, đã cung cấp nhiều kiến thức, kinh nghiệm về vấn đề tôn giáo và quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Các nhận định, đánh giá của những
công trình đó tác giả kế thừa có chọn lọc làm nguồn tài liệu tham khảo cho
đề tài khóa luận này.
Vấn đề tôn giáo cụ thể ở tỉnh Long An có rất ít sách, bài viết, đa số là
các báo cáo tổng kết về tình hình tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về
hoạt động tôn giáo. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học
nào đề cập trực tiếp đến “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay”.
Kết quả của các nghiên cứu nói trên đã là những tài liệu quý để học
viên kế thừa thực hiện tốt đề tài. Hướng đề tài mà học viên lựa chọn, sẽ góp
sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn không chỉ trước mắt mà
còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Long An.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


9
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước về hoạt động
tôn giáo trên địa bàn tỉnh Long An, luận văn đề xuất một số giải pháp và
các kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo ở tại tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo hiện nay.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long
An, những vấn đề đặt ra cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo ở địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Long An hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long An, từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối
với tôn giáo.


10

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành và liên
ngành như tôn giáo học, xã hội học tôn giáo, chính trị học tôn giáo kết hợp
với các phương pháp lịch sử và logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra,
điền dã, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Đây là công trình khoa học nghiên cứu, tổng kết đánh giá
về tình hình hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh Long An, cũng như
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh.
Thứ hai: Đề xuất hệ thống giải pháp bao gồm cả giải pháp chung và
đề xuất cụ thể trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa
bàn tỉnh Long An. Đồng thời đây cũng là bản tổng kết thực tiễn để có cơ sở
bước đầu vận dụng vào thực tiễn công tác tổ chức quản lý hoạt động tôn
giáo trên địa bàn tỉnh
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long An trong
giai đoạn hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây
dựng chủ trương, biện pháp và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay. Luận văn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập.
8. Kết cấu của luận văn


11
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là hiện tượng xuất hiện từ lâu trong đời sống tinh thần của
con người, nhưng cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa hoàn chỉnh. Tôn giáo
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, truyền thống
v.v. và phụ thuộc vào nhận thức của mỗi dân tộc, mỗi nhóm người và của
từng cá nhân nên khó có định nghĩa chính xác về tôn giáo. Trong các từ
điển thông dụng thường định nghĩa tôn giáo là sự sùng bái và sự thờ phụng
của con người đối với thần linh hoặc các mối quan hệ của con người đối với
thần linh. Chẳng hạn: “Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội hình thành
nhờ vào lòng tin và sùng bái Thượng đế, thần linh’’ [38, tr.239] ; “Tôn giáo
là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng
bái những lực lượng siêu nhiên quyết định số phận con người” [37, tr.1011].
Một số tác giả khác lại quan niệm: “Tôn giáo bao gồm hệ thống hoàn
chỉnh các quan niệm, ý thức tín ngưỡng, thể hiện tập trung ở lòng tin, tình
cảm tôn giáo hành vi và hoạt động tôn giáo.Tôn giáo là hình thức tín
ngưỡng có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và Giáo hội, được tổ chức chặt chẽ ”


12
[19, tr.8] hay “Tôn giáo là tín ngưỡng của những người cùng chung một tổ
chức có hệ thống giáo lý, giáo luật và lễ nghi” [48, tr.8].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, tôn giáo không
chỉ là hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội. Với tư cách là
hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh một cách hoang đường, hư ảo
hiện thực khách quan. Trong tác phẩm chống “Đuy - rinh”, Ph.Ăngghen đã

đưa ra khái niệm về tôn giáo “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế”.[24,
tr.437]
Trong Văn kiện của Đảng nêu “Tôn giáo là hệ thống các quan niệm tín
ngưỡng sùng bái một hay nhiều vị thần linh nào đó và những hình thức, lễ
nghi thực hiện sự sùng bái ấy. Tôn giáo thuộc hình thái ý thức xã hội, có
nguồn gốc từ hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể, trình độ nhận thức và tâm
lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử” [2].
Ở Việt Nam hiện nay, quan niệm mang tính phổ biến để hiểu tôn giáo
thì tôn giáo có một kết cấu gồm 4 yếu tố bộ phận như sau:
+ Ý thức tôn giáo: gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng Tôn giáo
+ Nghi lễ tôn giáo: gồm thờ cúng và biểu tượng tôn giáo
+ Luật lệ tôn giáo
+ Tổ chức tôn giáo: tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống
giáo lý, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công
nhận.


13
Tuy nhiên, trong khi chúng ta nhận thức như vậy về tôn giáo thì cũng
cần thấy rằng, trên thực tế không phải tất cả mọi người, mọi quốc gia đều
nhận thức như vậy, mà không ít trường hợp những bộ phận cấu thành của
tôn giáo còn ở dạng chưa đầy đủ và hoàn thiện vẫn được gọi là “tôn giáo”.
Khái niệm hoạt động tôn giáo
Theo Điều 3, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo số 21/2004/PLUBTVQH do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 18/6/2004 quy
định rõ: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật,
lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo’’.
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền

những lý lẽ về nguồn gốc, sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Truyền
đạo là một đặc tính của tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin
tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo của tín đồ được thực
hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp
họ hiểu, tin theo tôn giáo và thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển
thêm số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín
đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn
đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực
hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn
giáo, đảm bảo duy trì trật tự hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Như vậy, hoạt động tôn giáo là hình thức biểu hiện bên ngoài cụ thể
nhất của nội dung tôn giáo. Bất kỳ một tôn giáo nào khi tồn tại trong xã hội
đều được biết đến bằng các hoạt động cụ thể. Hoạt động tôn giáo chỉ do các


14
cá nhân, tổ chức tôn giáo thực hiện. Thông qua hoạt động tôn giáo để duy
trì sự tồn tại và phát triển của tôn giáo trong đời sống hiện thực.
Khái niệm công tác tôn giáo
Hiện tại vẫn còn có ý kiến khác nhau về công tác tôn giáo. Có quan
niệm cho rằng đó là hoạt động riêng có của cơ quan nhà nước nhằm đấu
tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo. Có quan niệm cho rằng đó chính là
hoạt động vận động quần chúng tín đồ của Mặt trận, các đoàn thể, tổ chức
xã hội. Các quan niệm trên là không đầy đủ. Trong thực tế, công tác tôn
giáo bao gồm rất nhiều nội dung:
- Công tác vận động quần chúng tín đồ.
- Công tác tranh thủ hàng ngũ chức sắc tôn giáo.
- Công tác đối ngoại về tôn giáo.

- Công tác xử lý vi phạm pháp luật của các cá nhân và tổ chức tôn
giáo.
- Công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm
phạm an ninh trật tự.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo.
- Công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của nhà nước về tôn giáo.
- Công tác nghiên cứu lý luận và tổ chức hoạt động thực tiễn trên lĩnh
vực tôn giáo.
Chủ thể của các hoạt động này là các cơ quan, ban ngành nhà nước;
tổ chức, đoàn thể xã hội thuộc hệ thống chính trị của Đảng và nhà nước từ


15
Trung ương tới địa phương tiến hành.
Như vậy, công tác tôn giáo là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị tiến hành theo chức năng nhiệm vụ
của Đảng nhằm mục đích đảm bảo quyền tôn giáo tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của quần chúng đồng thời đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo
chống phá nhà nước.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm đối tượng quản lý nhà nước về tôn
giáo
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Hoạt động quản lý xuất hiện từ lâu và gồm nhiều loại, trong đó quản
lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của nhà nước.
Quản lý nhà nước là hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng
quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người do các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước tiến hành để
thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã hội. Hoạt động quản lý

nhà nước diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng v.v. nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp
pháp của nhân dân.
Quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là sự tác động, điều
hành, điều chỉnh, đối với tôn giáo và hành vi, hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật, đạt được mục
tiêu của chủ thể quản lý.


16
Nói đến quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là nói đến sự tác
động của chủ thể quản lý nhà nước đối với chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra
tác động quản lý trong mọi quá trình hoạt động. Đối tượng với đối tượng
quản lý (tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ chức tôn giáo). Trong đó,
chủ quản lý tiếp nhận sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý. Sự tác động
này không mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục
đích rõ ràng. Còn mục tiêu quản lý là cái đích cần phải đạt tới tại một thời
điểm do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực
hiện các tác động quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý phù
hợp.
1.1.2.2. Đặc điểm đối tượng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
Đối tượng quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo gồm: tín
đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ chức tôn giáo. Đây là đối tượng quản lý
có tính đặc thù, họ vừa là công dân Việt Nam nhưng đồng thời là người có
niềm tin và tình cảm tôn giáo ở những mức độ khác nhau, chịu sự chi phối
của giáo lý, giáo luật, nghi lễ của tôn giáo.
- Tín đồ tôn giáo
Theo khoản 8 điều 3 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2004: “Tín
đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận’’. Như
vậy, tín đồ tôn giáo là người có đức tin tôn giáo, họ coi niềm tin tôn giáo rất

thiêng liêng và gắn bó với niềm tin ấy một cách tự nguyện. Tín đồ tôn giáo
gắn với một tổ chức Giáo hội, hàng ngày đóng góp cho Giáo hội, làm việc
theo sự phân công của Giáo hội và tham gia những hoạt động của cộng
đồng tôn giáo [7, tr. 64]
Đối với mỗi tôn giáo do giáo lý, giáo luật, cách thức hành đạo khác


17
nhau nên quy định về tiêu chí tín đồ của mình cũng khác nhau. Tín đồ Phật
giáo là những người đã thọ Tam quy ngũ giới và đi lễ hàng tháng. Tín đồ
Công giáo là tất cả những người đã chịu phép rửa tội (Báp tem) mà chưa bỏ
hoặc cải đạo. Tín đồ đạo Cao Đài gồm tất cả những thành viên trong các gia
đình đạo Cao Đài mà chưa bỏ hoặc cải đạo[45, tr.16-17].
Tín đồ của các tôn giáo có sự thống nhất trên hai mặt: công dân và tín
đồ. Về mặt công dân, tín đồ bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân
khác về nghĩa vụ và quyền lợi. Về mặt tín đồ, tín đồ theo tổ chức tôn giáo
nào đều phải tuân thủ những quy định của tổ chức tôn giáo đó. Trong mỗi
tín đồ đều có sự thống nhất giữa mặt công dân (xã hội) và mặt tín đồ (tôn
giáo) nhưng không đồng nhất. Đây chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể
quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần nắm vững.
Việt Nam là một quốc gia đa Tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo,
chiếm khoảng 20% dân số cả nước. Đại đa số tín đồ tôn giáo là người lao
động, trong đó chủ yếu là nông dân có tinh thần yêu nước, gắn bó với dân
tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tín đồ
các tôn giáo đã đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân
tộc. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đồng bào có đạo đang cùng với cả
nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sống “tốt đời, đẹp đạo”, cùng
toàn dân đoàn kết phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Đây là đặc điểm rất tích cực trong đồng bào các tín đồ. Quản lý nhà

nước đối với hoạt động tôn giáo cần phải phát huy được những nhân tố tích
cực, khơi dậy những truyền thống quý báu trong đồng bào có đạo - phải coi
đây là một yếu tố quan trọng góp phần phát huy nội lực để xây dựng đất
nước.


18
Bên cạnh đại đa số đồng bào có tinh thần yêu nước, gắn bó với dân tộc,
một số tín đồ do nhiều nguyên nhân khác nhau trong hoạt động tôn giáo còn
chưa tuân thủ pháp luật, bị các phần tử cơ hội lôi kéo, lợi dụng chống lại
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, gây mất ổn định trong xã
hội.
Từ đặc điểm này đòi hỏi quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
một mặt phải tôn trọng và bảo đảm nhu cầu Tín ngưỡng Tôn giáo của các
tín đồ; giải quyết hài hòa giữa mặt công dân và mặt tín đồ; phải nhận thức
được đâu là nhu cầu, nguyện vọng Tôn giáo chính đáng của quần chúng và
đâu là yếu tố lợi dụng tôn giáo. Điều này quyết định đến sự thành công của
quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, góp phần làm cho đạo và
đời, Tôn giáo và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn bó, hài hòa với
nhau.
- Nhà tu hành
Theo khoản 9 điều 3 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2004 thì
nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo
giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. Như vậy, khái niệm nhà tu
hành dùng để chỉ những người tu hành chuyên nghiệp của các tôn giáo, kể
cả trong tổ chức Giáo hội, dòng tu, tu viện, các trường đào tạo của tôn giáo
hoặc có thể ngoài đời (tu tại gia) không phân biệt chức vị và phẩm hàm tôn
giáo của họ. Trong đạo Phật, nhà tu hành bao gồm các vị: Hòa thượng,
Thượng tọa, Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, Sư cô và các vị Tăng ni sinh đang
học trong các trường trung cấp, cao đẳng và Học viện Phật giáo. Các vị xuất

gia tu hành ở các Chùa, Tịnh thất, Tịnh xá, Niệm phật đường; trong đạo
Công giáo: nhà tu hành bao gồm các vị Hồng y, Giám mục, Linh mục và
các nam nữ Tu sĩ trong các dòng tu, các chủng sinh trong các Đại chủng


19
viện, v.v..; trong đạo Tin lành, đó là các vị Mục sư, Giảng sư và các vị đang
theo học tại các trường Thánh kinh Thần học [45, tr.18].
- Chức sắc tôn giáo
Chức sắc là “người có chức vị trong một số Tôn giáo”; chức sắc là
“chức phẩm’’[45, tr.19]. Theo khoản 10 điều 3 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn
giáo năm 2004 thì chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Như vậy, chức sắc là những người có chức vị và phẩm hàm trong tôn giáo,
như: trong Đạo phật là các vị có chức vị trong hệ thống tổ chức Giáo hội và
có phẩm hàm từ: Đại đức, Thượng tọa, Hòa thượng, Sư cô, Ni sư, Ni
trưởng; trong đạo Công giáo là các vị có chức vị trong hệ thống tổ chức
Giáo hội và phẩm hàm: Linh mục, Giám mục, Hồng Y.
Chức sắc trước hết là tín đồ thuộc một tổ chức tôn giáo nhất định bởi
vậy họ cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ. Song khác với tín đồ,
chức sắc là người được tổ chức tôn giáo đào tạo, tấn phong, bổ nhiệm vào
các chức vị Thánh hoặc các chức vị thẩm quyền trong tổ chức tôn giáo. Họ
là đội ngũ nòng cốt của Giáo hội các tôn giáo, vừa có vai trò quản lý, điều
hành đạo vừa có trình độ giáo lý, giáo luật. Tiếng nói của chức sắc có trọng
lượng lớn, có lúc có nơi giữ vai trò quyết định đến lập trường tư tưởng và
thái độ của tín đồ. Chức sắc còn đại diện cho quần chúng tín đồ chịu trách
nhiệm về hoạt động của đạo đối với xã hội. Chức sắc tôn giáo dù thuộc
khuynh hướng nào đều có sự điều chỉnh hoạt động theo hướng thích nghi,
hợp tác với chính quyền để tăng cường truyền giáo.
Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo ở nước ta là một lực lượng khá
đông đảo, việc phát huy vai trò của các chức sắc tôn giáo, nhà tu hành rất

quan trọng và cần thiết trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.


20
- Tổ chức tôn giáo
Theo khoản 3 điều 3 Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2004: “Tổ
chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công
nhận’’.
Cơ cấu tổ chức của tôn giáo được quy định theo Hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo và được nhà nước công nhận. Trong mỗi tôn giáo tổ
chức bộ máy được sắp xếp khác nhau, có tôn giáo được tổ chức thành một
hệ thống từ Trung ương tới cơ sở như Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo
hội Phật giáo Việt Nam v.v. nhưng cũng có những tôn giáo trong quá trình
phát triển do nhiều nguyên nhân bị tách ra thành nhiều hệ phái khác nhau,
mỗi hệ phái tạo thành một tổ chức độc lập như đạo Tin lành, đạo Cao đài.
Trong mối quan hệ nội bộ của tổ chức tôn giáo, có tổ chức có mối quan hệ
hành chính đạo rất chặt chẽ, cấp dưới phục tùng cấp trên, như Công giáo.
Ngược lại, có tổ chức hành chính đạo lại rất lỏng lẻo, như đạo Phật, Phật
giáo Hòa hảo v.v..
Trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội, Giáo hội là tổ chức đại
diện cho tổ chức tôn giáo để giải quyết các công việc có liên quan đến tôn
giáo. Giáo hội là cơ cấu tổ chức, bộ máy hành chính của tôn giáo và cũng là
cơ quan quyền lực của tôn giáo. Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính
phủ, hiện nay ở nước ta có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo đã được nhà
nước cấp đăng ký hoặc công nhận về tổ chức và 1 pháp môn tu hành.
- Đồ dùng việc đạo phục vụ cho việc sinh hoạt tôn giáo (đồ dùng
việc đạo) bao gồm: Kinh, sách , tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ trống, kèn,
chuông, mõ, v.v… Đồ dùng phục vụ sinh hoạt tôn giáo có sự thống nhất



21
giữa hai mặt vật chất và mặt biểu đạt. Mặt vật chất: tất cả đồ dùng việc đạo
đều được làm bởi chất liệu khác nhau và dưới dạng vật chất cụ thể. Mặt
biểu đạt: mỗi đồ dùng việc đạo biểu đạt một nội dung nào đó và cái được
biểu đạt chỉ được hiện hữu vào nội dung sinh hoạt tôn giáo.
- Cơ sở vật chất tôn giáo bao gồm: Nơi thờ tự và các cơ sở vật chất
của tôn giáo.
Nơi thờ tự: là nơi thờ cúng và thể hiện đức tin của tín đồ đối với tôn giáo
thông qua việc thực hiện các lễ nghi tôn giáo. Cơ sở tôn giáo có sự thống
nhất giữa bố mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt cộng đồng. Mặt
vật chất, nơi thời tự các tôn giáo được xây dựng bằng những vật liệu khác
nhau và theo mô hình, kiến trúc khác nhau phù hợp với niềm tin của từng
tôn giáo. Mặt tôn nghiêm, là nơi hiện hữu của thần quyền, nơi bái vọng
ngưỡng mộ và biểu hiện tình cảm, đức tin tôn giáo, nơi diễn ra những lễ
nghi tôn giáo quan trọng. Mặt trụ sở, là nơi diễn ra các hoạt động hành
chính đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi
sinh hoạt các hội đoàn tôn giáo,v.v… Trong các mặt trên, tôn nghiêm là mặt
chi phối các mặt khác.
Cơ sở vật chất của tôn giáo bao gồm: khuôn viên, ruộng đất, cơ sở
đào tạo, cơ sở từ thiện…Cơ sở vật chất tôn giáo có hai mặt cơ bản: là tài sản
và hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Mặt tài sản của các tổ chức tôn giáo
được bảo hộ bằng pháp luật của nhà nước. Mặt hoạt động, tuỳ theo chức
năng của cơ sở tôn giáo.
Như vậy, đối tượng quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
có tính đặc thù so với đối tượng quản lý trong các lĩnh vực khác. Xác định
rõ những đặc điểm có tính đặc thù của đối tượng quản lý trên lĩnh vực này


22

có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn hình thức, phương pháp quản lý
phù hợp vừa đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo vừa đảm bảo thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và nhà
nước ta.
1.2. Quan điểm về tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin
Định nghĩa kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, gần
đây được nhiều học giả thừa nhận, là tư tưởng của Ph. Ăngghen nêu trong
tác phẩm Chống Đuyrinh,: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản
ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người - của những lực lượng ở bên ngoài
chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. [24,
Tr.437].
Trong quan niệm thường ngày, tôn giáo là một khái niệm dùng để
khái quát toàn bộ các hình thức tôn giáo cụ thể khác nhau đang tồn tại trong
xã hội như: Ki tô giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao đài,
Hòa hảo…. Tôn giáo đã có một thời gian dài hình thành, phát triển và tồn
tại hàng ngàn năm cùng với sự biến thiên của lịch sử. Giữa các tôn giáo cụ
thể, sự sùng bái, thờ cúng, các hình thức lễ nghi, cách tổ chức,… có sự khác
nhau, rất đa dạng, phức tạp.
Các hình thức tôn giáo nguyên thủy tôn thờ một dạng vật chất nào đó
mà con người cảm thấy có sự thần bí, có tính siêu nhiên như: to tem giáo,
bái vật giáo, ma thuật giáo; Khi nhận thức của con người phát triển, xuất
hiện ý niệm “thế giới bên này”, “thế giới bên kia”, tôn giáo chuyển sang
giai đoạn “vật linh giáo”, tôn thờ yếu tố “linh hồn” và hướng tới “thế giới


23
bên kia”. Ý niệm về “thế giới bên kia” - thế giới hư ảo - thế giới siêu linh,
đã làm cơ sở cho nhiều tôn giáo tiếp theo sau xuất hiện. Một số tôn giáo có

ý niệm, niềm tin, dẫn đến tôn thờ “Chúa trời”, “Đấng cứu thế” - thượng đế thánh thần,… (như Công giáo, Tin lành…). Có tôn giáo lại tôn thờ những
nhân vật, những con người có thật đã mở ra con đường chân tu thoát tục cho
con người (như Phật giáo nguyên thủy…). Chính sự đa dạng, phức tạp của
các tôn giáo cụ thể đã làm cho sự thống nhất về khái niệm tôn giáo trở nên
khó khăn. Cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo. Đại
từ điển tiếng Việt xác định tôn giáo là: “hình thái ý thức xã hội nhờ vào
lòng tin và sự sùng bái thượng đế, thần linh” của con người.
Các nhà khoa học về tôn giáo đưa ra định nghĩa tôn giáo một cách
chung nhất: “đó là bộ phận mà con người cảm nhận những điều tưởng
tượng ra một cách hoang tưởng từ xã hội và từ tự nhiên mà họ đang sống
theo cách suy nghĩ của nền văn hóa đang chi phối họ”.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng: “Tôn giáo là một hiện tượng xã hội,
một hình thái ý thức xã hội, là thế giới quan lộn ngược trong mối quan hệ
giữa con người và siêu nhiên, cái hiện thực và cái hư ảo, cái trần tục và cái
thiêng liêng, cái trần gian và cái siêu trần gian; là sự phản ánh hư ảo, hoang
tưởng những sức mạnh bên ngoài (cả tự nhiên và xã hội), trong đó sức
mạnh trần gian mang sức mạnh siêu thế gian, sức mạnh siêu nhiên chi phối
toàn bộ cuộc sống của cộng đồng người”.
Tôn giáo theo nghĩa đầy đủ của nó có những đặc trưng cơ bản mà
các nhà nghiên cứu thường đề cập tới, thậm chí coi đó là những tiêu chí để
xem xét tôn giáo.


24
Một là, xuất hiện hình thành niềm tin và sự tôn thờ của con người,
của cộng đồng người đối với lực lượng siêu nhiên - “Đấng siêu nhiên” như
Đức chúa Jesus- đấng cứu thế của Ki tô giáo, Thích ca mâu ni - Phật tổ như
lai của Phật giáo, Thánh Ala của Hồi giáo... Mỗi tôn giáo có thể tôn thờ một
hoặc một số “Đấng siêu nhiên”, “Đấng siêu nhiên” trong niềm tin và sự tôn
thờ của tín đồ là “Đấng tối cao” có vai trò chi phối và quyết định đối với số

phận của con người cả trong cuộc sống hiện tại và cả khi đã sang “thế giới
bên kia”.
Hai là, hình thành hệ thống biểu tượng, hình thức lễ nghi, phương
tiện để tín đồ giáo tiếp với “Đấng siêu nhiên”, bao gồm; nhà thờ, đền đài,
thánh thất, biểu tượng kiến trúc tượng đài “Đấng siêu nhiên”, cùng với các
hình thức lễ nghi: cầu nguyện, tâm niệm, tụng kinh, làm lễ, rước sách, nhạc
hát... Đó là những phương tiện để thực hành tôn giáo, để tín đồ chiêm
nghiệm, thể hiện lòng ngưỡng mộ, sự thờ phụng thiêng liêng, biểu thị lòng
tin tưởng cũng như cầu xin được ban phước lành, được hưởng ân huệ may
mắn, được siêu thoát linh hồn..., chính vì vậy, mỗi tôn giáo đều chú trọng
xây dựng hình thành hệ thống biểu tượng, hình thức lễ nghi tôn giáo của
mình mang tính thiêng liêng, tôn nghiêm, thuyết phục và thu hút tín đồ.
Ba là, có hệ thống giáo thuyết phản ánh thế giới quan, nhân sinh
quan, các quan niệm về đạo đức, luân lý của tôn giáo. Hệ thống giáo thuyết
bao gồm: các quan niệm, truyền thuyết, giáo lý, giáo luật kinh thánh... của
tôn giáo. Hệ thống giáo thuyết làm cơ sở để xây dựng tôn giáo, hướng cuộc
sống và hoạt động của những người tu hành và các tin đồ theo các chuẩn
mực, mục đích mà các tôn giáo đã xác định. Trong thực tế, giáo thuyết tôn
giáo không phải bất biến mà sự bổ sung, biến đổi để thích nghi với điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, phong tục tập quán, truyền thống đạo


25
đức... của dân tộc, quốc gia, thời đại. Khi tôn giáo bị lợi dụng, trở thành
công cụ của giai cấp thống trị thì giáo thuyết tôn giáo sẽ phục vụ cho mục
đích chính trị.
Bốn là, có tổ chức quản lý, hình thành cộng đồng tôn giáo. Tôn giáo
nào hình thành, tồn tại cũng thường phải có những người chuyên hành đạo
và hệ thống tín đồ theo tôn giáo của mình. Với cộng đồng đó, nhất định phải
có tổ chức quản lý. Mỗi tôn giáo có hình thức tổ chức quản lý và mối quan

hệ cộng đồng tôn giáo riêng của mình. Bộ máy tổ chức quản lý thuộc gọi là
“giáo hội”, những người chuyên hành đạo thường gọi là các chức sắc tôn
giáo như giám mục, linh mục, mục sư, hòa thượng, thượng tọa,... Đó là
những người tổ chức truyền đạo, phát triển tín đồ, điều hành quá trình hành
đạo, hướng dẫn tín đồ thỏa mãn nhu cầu nguyện vọng, niềm tin tôn giáo của
mình. Tín đồ tôn giáo là những người dân có niềm tin sùng bái, tôn thờ các
“Đấng siêu nhiên”, tuân theo các qui định của tổ chức tôn giáo. Tín đồ cùng
chức sắc có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành mức độ “sầm uất” của tôn
giáo, trở thành một lực lượng xã hội tồn tại khách quan.
Như vậy, trên phương diện quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần
lưu ý khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh không thể không nói đến những
dấu hiệu cơ bản sau: Tôn giáo là cộng đồng người có chung niềm tin vào
một thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ thống giáo lý; giáo luật; lễ nghi; có
tổ chức.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn
giáo và hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị
trí nằm ở Khu vực Đông Nam Á có 3 mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi


×