1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----------------------
DƯƠNG XUÂN HUYÊN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Ở LẠNG SƠN HIỆN NAY
Chuyên ngành : Tôn giáo học
Mã số : 60 22 90
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG MINH ĐÔ
HÀ NỘI - 2006
1
1
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội ra đời từ
hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị,
văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều
quốc gia.
Vào những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.
Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh
các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân
gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn
giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc, thuần túy
tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện các hoạt động tôn giáo không bình
thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động
tôn giáo: Một số chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch về
tình hình tôn giáo ở trong nước; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã từ chối không
tham gia lễ diễu hành cùng các tổ chức tôn giáo trong dịp lễ Quốc khánh 2/9/2005 với lý do
là Nhà nước đối xử không bình đẳng với Hội thánh, gây hiệu ứng tiêu cực về chính trị; các tổ
chức tôn giáo, nhất là đạo Tin lành gia tăng các hoạt động truyền đạo vào vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để
có những hoạt động chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm nóng
tôn giáo; có giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của Nhà nước; nhiều tổ chức đội
lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên
ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta… Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để vừa đảm
2
2
3
bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng
tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí chiến lược về địa chính trị, kinh tế, an
ninh quốc phòng. Là địa đầu biên cương của Tổ quốc, đây cũng là một trong những địa bàn
trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hoạt động chống phá.
Số lượng tôn giáo ở Lạng Sơn có qui mô không lớn, hiện nay chỉ có ba tôn giáo chính:
Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Nhìn chung các tín đồ theo đạo đại bộ phận là những người
dân sống tốt đời đẹp đạo. Đường hướng chung của các tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay đều tập
trung củng cố đức tin, tuyên truyền phát triển đạo. Song ở Lạng Sơn, điều cần quan tâm là sự
phát triển của đạo Tin lành. Tin lành được truyền vào Lạng Sơn từ năm 1938, chủ yếu tập
trung ở khu vực đồng bào dân tộc Dao sinh sống (huyện Bắc Sơn). Thời gian qua sự phát
triển của đạo Tin lành ở khu vực này đã gây những ảnh hưởng tiêu cực về nhiều mặt, xáo trộn
cuộc sống bình thường của người dân, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ các dân tộc thiểu số, giữa
người theo và không theo đạo Tin lành. Đáng chú ý là những phần tử xấu vì lợi ích cá nhân
hoặc bất mãn đã lợi dụng đạo Tin lành để chia rẽ quần chúng với Đảng, Chính quyền hoặc
cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân của tín đồ.
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Lạng Sơn đã có nhiều tiến bộ và đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó cũng
còn một số tồn tại: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu
tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm
lý phản cảm cho quần chúng tín đồ và các chức sắc tôn giáo, tạo ra những sơ hở không đáng
có cho một số phần tử xấu lợi dụng. Đặc biệt việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhất là ở cơ sở còn quá cứng nhắc; các
đoàn thể nhân dân vùng đồng bào có đạo nói chung hoạt động còn kém hiệu quả; công tác
xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được
quan tâm đúng mức; việc thực hiện Chỉ thị số 01 của Thủ Tướng Chính phủ “Về một số công
tác đối với đạo Tin lành” còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức đối với tôn giáo và hoạt động
tôn giáo của đảng ủy, chính quyền ở một số nơi còn chưa thống nhất.
3
3
4
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo,
vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã
hội của tỉnh nhà; mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo, chống mọi âm mưu lợi
dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ tình hình đặt ra nói trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo. Hy vọng
rằng với đề tài này, tôi sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cấp bách
không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý Nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng là một trong
những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, từ khi có Nghị quyết 24- NQ/TW (năm 1990)
của Bộ Chính Trị, việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương chính sách đối với tôn
giáo ngày càng được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau trên bình diện cả nước, thể hiện ở
nhiều công trình như: GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo
ở Việt Nam, Nhà xuất bản CTQG; PGS. TS Nguyễn Đức Lữ - Chủ nhiệm đề tài (2002) Đổi
mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay- những bài học kinh nghiệm
và kiến nghị cụ thể, Đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước; TS Ngô Hữu Thảo-Chủ nhiệm
đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế
và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đề tài
khoa học cấp bộ; TS Hoàng Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam-
Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo,
quản lý, Thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước; Trung tâm Tư liệu- Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (1995), Tôn giáo, Tín ngưỡng hiện nay- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
thiết,…
4
4
5
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
có các đề tài sau: TS Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, Nxb Công
an nhân dân; TS Trần Minh Thư (2005), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một
yêu cầu khách quan”, Tạp chí Công tác tôn giáo số 3; Lê Minh Quang (2000), Quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay- Vấn đề và giải pháp, Luận văn thạc sĩ
khoa học tôn giáo; Võ Thị Mộng Thu (2001), Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động
Công giáo ở Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học tôn giáo và một số luận văn của
các lớp Cử nhân chính trị, Cao cấp chính trị tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh viết về công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở một số tỉnh, thành trong cả nước,…
Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề tôn giáo và
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Các công trình đó sẽ được tác giả kế thừa sử
dụng làm nguồn tài liệu tham khảo trực tiếp cho đề tài luận văn này.
Ở tỉnh Lạng Sơn, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo chưa có đề tài nào đi sâu nghiên
cứu cụ thể, vấn đề mới chỉ được đề cập trong các báo cáo tổng kết của Ban Dân vận Tỉnh ủy,
Phòng tôn giáo Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh… qua các năm. Vì vậy hướng đề tài mà tôi
lựa chọn, hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Lạng Sơn hiện nay, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu:
Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng
Sơn, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
5
5
6
Hai là, làm rõ tình hình thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
Ba là, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong tình hình mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi có Nghị
quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính Trị về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới (từ năm
1990 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước đối với
tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp
lịch sử và lôgíc, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, thống kê và tổng hợp, đặc biệt chú trọng đến phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, bước đầu luận văn
làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
6
6
7
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện
pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường Chính
trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được
chia ra làm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở LẠNG SƠN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của công tác
tôn giáo. Các quan điểm, đường lối của Đảng về công tác tôn giáo qua các thời kỳ lịch sử đều
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lĩnh vực này. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo tiếp tục khẳng định cần
“Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” [ 31, tr.53].
Để nhận thức tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, về mặt lý luận
cần phải nhận thức rõ một số vấn đề cơ bản sau đây.
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý đã xuất hiện từ lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý” cho đến nay vẫn còn
nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy từng mục tiêu và dưới các góc độ nghiên cứu, người ta có thể
đưa ra những quan niệm khác nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là quá trình bao
gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên
trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt được mục tiêu đã
định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ
7
7
8
thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những qui luật nhất
định.
Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ quản lý được thống nhất ở hai nội dung
chủ yếu sau:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu của quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động phù hợp
với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý. Sự tác động này không mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ
chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý
hoạt động phù hợp với ý chí của mình.
Từ hai nội dung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý: “Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã
được đặt ra từ trước” [8, tr.21].
1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý xuất hiện từ lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó quản lý xã hội là
một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội được đặt ra từ khi lao động của con người bắt đầu
được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của chủ thể quản
lý và qui luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi Nhà nước xuất
hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm.
Quản lý nhà nước hiện nay được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền
lực Nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do tất cả
các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng
của Nhà nước đối với xã hội.
8
8
9
Nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống
hành pháp (Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp).
1.1.1.3. Tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử, có tài liệu
thống kê đến nay có hàng trăm khái niệm về tôn giáo, tùy cách tiếp cận và mục tiêu nghiên
cứu khác nhau người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tôn giáo.
- Quan điểm trước Mác về tôn giáo:
Trước khi xuất hiện đạo Kitô, bên cạnh những hình thức tôn giáo sơ khai, việc các nhà
nước độc lập sùng bái các vị thần rất phổ biến, với những nghi thức và niềm tin có quan hệ
đến cái thiêng liêng. Con người vừa kính trọng, vừa sợ hãi những lực lượng siêu nhiên, nên
họ đã thực hiện những nghi lễ hiến tế nhằm tỏ lòng tôn kính và cầu xin sự che trở, giúp đỡ
của đấng siêu nhiên tối cao, để làm “tăng thêm sức mạnh của bản thân và của cộng đồng,
vượt qua một cách thắng lợi những thách thức, khó khăn, hy vọng các thần linh giúp đỡ để
tránh những tai họa đang hoặc sẽ dẫn đến” [ 67, tr.22].
Khi tư tưởng nhà thờ thống trị những “đêm trường trung cổ” ở Châu âu đã bắt con
người tìm kiếm chỗ dựa tinh thần ở niềm tin tôn giáo, đó là sự phụ thuộc vào các bậc tiên tri
và các đấng siêu phàm. Trong tôn giáo con người thoát khỏi thời gian, vì tôn giáo là lĩnh vực
tri thức giải đáp mọi điều bí ẩn của thế giới quan, gạt bỏ mọi mâu thuẫn thầm kín trong tư
tưởng con người, do vậy tôn giáo là lĩnh vực của chân lý vĩnh cửu. Nhà triết học cổ điển Đức
Wil Helm Frie Hegel cho rằng tôn giáo là tri thức thần thánh, là tri thức của con người về
thần thánh, vì vậy ông đã kết luận: Trong tôn giáo con người tự do trước thần thánh, vì ý chí
của con người hòa đồng với ý chí của Thượng đế.
L. Feuer bach, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đưa ra luận
điểm: Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người. Trong
tác phẩm “ Bản chất của Ki tô giáo” ông đã cho rằng cái mà ý thức tôn giáo quan niệm là
Thượng đế không phải là cái gì khác hơn sự “phóng rọi” của chính bản thân con người, con
người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào, thì Thượng đế của họ đúng như vậy, con người có bao
nhiêu giá trị thì Thượng đế cũng chỉ có bấy nhiêu. Từ Thượng đế có thể suy ra con người, và
9
9
10
từ con người có thể suy ra Thượng đế, Thượng đế là cái tự thân đã được biểu hiện ở con
người, tôn giáo là sự vén mở trang trọng những kho tàng ẩn giấu của con người, là sự thừa
nhận những ý nghĩ thầm kín nhất, là sự thú nhận công khai những bí mật tình yêu của con
người.
Quan điểm của L.Feuer bach là một bước tiến dài trong quá trình nhận thức tôn giáo
mà C.Mác đã kế thừa, song C.Mác đã chỉ ra rằng khi nhìn nhận về con người L.Feuer bach
có những hạn chế vì con người mà L.Feuer bach chỉ ra là con người trừu tượng, chung chung
chứ không đề cập đến “con người lịch sử thực sự”, chưa thấy được “tinh thần tôn giáo” bản
thân nó là sản phẩm xã hội và con người trừu tượng mà ông phân tích, trên thực tế, bao giờ
cũng thuộc về một hình thái nhất định, một cộng đồng người nhất định.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo:
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những vị lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, các ông đã để lại những tư
tưởng lý luận quý báu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trong đó có những nhận
định khoa học và cách mạng về vấn đề tôn giáo.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc của tôn giáo, C.Mác đã chỉ ra rằng:
Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa tìm thấy bản thân mình
hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con người chính là thế giới những con người,
là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, không phải tôn giáo sáng
tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo biến bản chất con người
thành tính hiện thực, ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự. Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng
giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần; tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân [38, tr.58].
Còn trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăngghen đã đưa ra khái niệm về tôn giáo
“Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong
đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế” [ 38, tr.13].
10
10
11
Với những nhận định như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm được câu trả lời cho các
nhà tư tưởng đương thời là cái quyết định của sự phát triển xã hội loài người nói chung, tôn
giáo nói riêng chủ yếu là yếu tố kinh tế hay tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng, cái
quyết định của sự phát triển xã hội là yếu tố kinh tế, nhưng hai ông cho đó không phải là yếu
tố duy nhất. Chính trong bộ “Tư bản”, khi giải thích tại sao ở thời cổ Hy Lạp, chính trị đóng
vai trò chủ yếu, còn bước sang thời kỳ trung cổ ở Châu âu, thì vai trò ấy lại do đạo Kitô nắm
giữ, C.Mác cho rằng, chỉ có phân tích điều kiện kinh tế thì mới giải đáp được câu hỏi đó.
Qua sự phản ánh của tôn giáo, những lực lượng tự phát của tự nhiên và xã hội trở
thành sức mạnh siêu nhiên có quyền uy tối thượng và đã tác động đến một cộng đồng, một
nhóm xã hội có tổ chức. Tôn giáo chỉ ra đời khi xuất hiện giai cấp và có đấu tranh giai cấp.
Do đó khi nói về tôn giáo, V.I. Lênin đã định nghĩa: “Tôn giáo là một trong những hình thức
áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn
khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô độc”
[65, tr.169].
- Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam.
Qua đó đã phát huy được tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quản lý hoạt động tôn giáo trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Động viên, khích lệ bà con giáo dân phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, trong các văn bản pháp luật quản lý nhà nước về tôn
giáo chưa có tài liệu nào giải thích cụ thể về khái niệm này. Mặc dù việc giải thích khái niệm
tôn giáo chưa đồng nhất, song nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh thì có mấy dấu hiệu cơ bản
sau:
+ Nói đến tôn giáo là nói đến cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu
nhiên, huyền bí;
+ Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
+ Có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ.
11
11
12
1.1.1.4. Hoạt động tôn giáo
Điều 3, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định: Hoạt động tôn giáo là việc
truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo [60, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về
nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin
tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo của tín đồ được thực hiện. Đối với
những người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin theo tôn giáo và
thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành,
chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn
giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực hiện qui định của
giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt
động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động trên, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo với hoạt
động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt động hành đạo có
hoạt động truyền đạo.
1.1.1.5. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ các khái niệm như đã trình bày ở phần trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư
pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng
các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù
hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước, chức năng nhiệm vụ
của nhà nước, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ
quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động
tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo qui định của pháp luật.
12
12
13
1.1.2. Yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta
hiện nay
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói riêng
là công việc bình thường của mọi nhà nước, trong đó có Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo có một số quan điểm cho
rằng, hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần
phải quản lý, nếu có sự quản lý của nhà nước thì tự do tôn giáo sẽ không còn. Nhưng thực tế
hiện nay cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở đâu có hoạt động tôn giáo thì ở đó
có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia đều có sự điều chỉnh khác nhau, nếu
vì trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc thì sự quản lý, điều chỉnh của nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo là cần thiết.
Yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý chí
của nhà nước mà còn xuất phát từ thực tế khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và
những ảnh hưởng của tôn giáo trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, đồng thời là thực thể xã hội, tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự biến đổi của
lịch sử nhân loại. Tôn giáo ra đời từ những tiền đề kinh tế-xã hội, từ nguồn gốc tâm lý và
nhận thức, trong đó nguồn gốc kinh tế- xã hội giữ vai trò quyết định. Khi những nguồn gốc
làm phát sinh tôn giáo chưa được giải quyết, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Thừa nhận những thực
tế khách quan này, một mặt nhà nước cần tăng cường quản lý các hoạt động của tôn giáo để
tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật theo phương châm “tốt đời,
đẹp đạo”, mặt khác cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.
Tuy nhiên trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu
sắc đến nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội của nhiều quốc gia. Tôn giáo có nhiều chức
năng đối với xã hội như chức năng thế giới quan, chức năng liên kết cộng đồng, chức năng
đền bù hư ảo, điều chỉnh hành vi đạo đức của con người,…Thực hiện các chức năng này, tôn
giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, đoàn kết những người bị áp bức trong cuộc
đấu tranh chống lại những bất công của xã hội, khuyên răn con người hướng thiện, làm điều
nhân đức, tránh điều bất nghĩa, bất nhân “… tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận
13
13
14
nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [18,
tr.2].
Nhưng đồng thời tôn giáo cũng mang những hạn chế, tiêu cực, như hạn chế trong việc
nhận thức thế giới khách quan, các nhà kinh điển Mácxít đã chỉ ra “Nhưng tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người” [38, tr.75]. Tôn giáo
thường bị những kẻ xấu lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối, tôn giáo có khả năng liên kết
con người trong một cộng đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy người ta đến chỗ
nghi kị, đối đầu, hận thù và xung đột gây nên những thảm họa cho nhân loại…
Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phát huy những mặt tích
cực, hạn chế những tiêu cực trong tôn giáo, nhà nước cần tăng cường công tác quản lý, để các
hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung
của xã hội và nhu cầu tâm linh tinh thần của quần chúng.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần thiết phải tăng cường công tác quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới ở đất nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Trong lĩnh vực tôn giáo, ngay khi hòa bình
được lập lại ở miền Bắc, Nhà nước ta đã khẳng định “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được vi phạm quyền tự do ấy. Mỗi người
Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào” [9,
tr.112]. Trong những năm gần đây, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
ngày càng rõ ràng và chứa đựng những nội dung mới, các Nghị quyết của Đảng và chính
sách của Nhà nước đều nhìn nhận “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [31, tr.48 ].
Đồng thời Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật” [45, tr.1].
14
14
15
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tôn giáo cần phải được tăng cường để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước, đáp ứng các quá trình cải biến cách mạng trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Thứ hai, thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta trong thời
gian vừa qua đã cho thấy, chính quyền và đội ngũ cán bộ có trách nhiệm ở một số nơi chưa
nhận thức đúng và quán triệt đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về vấn đề tôn giáo. Trong quản lý có nơi còn chủ quan, nóng vội và đơn giản khi giải
quyết nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo, dẫn đến vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của nhân dân; có nơi lại thụ động, buông lỏng quản lý dẫn tới các hoạt động tôn giáo lấn lướt
chính quyền, kỷ cương, phép nước không được giữ nghiêm.
Vì những lý do trên, cần phải tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo,
một mặt khắc phục được những lệch lạc, phiến diện trong công tác quản lý; mặt khác vừa
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và góp phần đưa các hoạt động của
tôn giáo theo đúng qui định của pháp luật.
Thứ ba, hiện nay trước yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và yêu cầu xây
dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về quản lý các hoạt động tôn giáo đang đặt ra
rất cấp thiết.
Nhà nước Việt Nam từ khi xây dựng theo con đường dân chủ, cộng hòa và sau này là
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì hệ thống pháp luật chính là cơ sở cho quản lý nhà
nước đối với các hoạt động xã hội nói chung và đối với hoạt động tôn giáo nói riêng.
Ngày nay Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội đã được luật hóa một cách cụ thể. Trong đó
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được Đảng và Nhà nước ta xác định là những
chính sách xã hội quan trọng, có tính đặc thù, vì vậy cải cách hệ thống pháp luật quản lý các
hoạt tôn giáo là một yêu cầu khách quan.
Hệ thống luật pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một bộ phận của
hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiện nay hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động tôn giáo
ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, ngày càng hoàn thiện, cơ bản đáp ứng được
15
15
16
yêu cầu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Cụ thể từ khi có Nghị quyết
24-NQ/TW/1990 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới ra
đời, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo. Đặc biệt năm 2004, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo được ban hành, đây là văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất về quản lý và điều chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực
tôn giáo. Bên cạnh đó những qui định pháp lý liên quan đến hoạt động tôn giáo còn nằm
trong những qui định của văn bản pháp luật về dân sự, về đất đai, về bảo tồn, bảo tàng, về
xây dựng…Đây là những cơ sở pháp lý để Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo và là những minh chứng cụ thể đấu tranh với các thế lực
thù địch vu cáo ta vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm nhân quyền, góp phần ngăn chặn hành vi
lợi dụng tôn giáo.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, “Hệ thống pháp luật về tôn giáo đang trong quá trình
hoàn thiện nên chưa bao quát hết được một số nội dung những hoạt động tôn giáo” [7 tr.17].
Vì vậy trước yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, và
trước yêu cầu của công tác tôn giáo hiện nay, việc xây dựng hệ thống pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần tiếp tục được củng cố và hoàn thiện.
Thứ tư, xuất phát từ âm mưu và hoạt động triệt để lợi dụng các sơ hở thiếu sót của ta
trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo của các thế lực thù
địch.
Hiện nay các Nghị quyết của Đảng, Nghị định, Pháp lệnh của Nhà nước đã qui định cụ
thể từng lĩnh vực của hoạt động tôn giáo. Nhưng do nhận thức của một số cán bộ đảng viên
chưa thống nhất, nên các giải pháp chỉ đạo và thực hiện đã nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau.
Việc xem xét sinh hoạt của một số cơ sở đạo Tin lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc không
được đảng bộ và chính quyền sở tại chấp nhận, thậm chí không muốn thừa nhận việc theo
đạo của một số đồng bào; các cấp ủy còn chưa quan tâm lãnh đạo đúng mức việc xây dựng
lực lượng quần chúng cốt cán; một số nơi lực lượng nòng cốt chính trị mỏng, nên hoạt động
lúng túng và khả năng tập hợp quần chúng thấp; công tác tranh thủ chức sắc, nhà tu hành các
tôn giáo chưa được quan tâm, nên công tác này không thường xuyên và kém hiệu quả; bộ
máy làm công tác tôn giáo của các cấp chính quyền ở nhiều địa phương chưa được chú trọng,
16
16
17
vì vậy công tác quản lý các hoạt động tôn giáo còn nhiều bất cập, buông lỏng. Với những lý
do trên đã cho thấy công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của chúng ta vẫn
còn nhiều thiếu sót, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo quần chúng để phát triển đạo trái
pháp luật.
Hiện nay một số phần tử chống đối, cực đoan trong tôn giáo đang tổ chức lực lượng,
câu kết với nước ngoài, tích cực tìm hiểu và khai thác những sơ hở thiếu sót trong công tác
tôn giáo của ta. Chúng đưa ra những kết luận sai sự thật, cho rằng Việt Nam vi phạm tôn
giáo, vi phạm nhân quyền, với mục đích duy nhất là chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Việc tuyên truyền phát triển đạo Tin lành trái phép vào đồng bào dân tộc thiểu số ở
các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và một số nơi khác vẫn diễn biến phức tạp. Tuy các
địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để ngăn chặn, nhưng trên thực tế hiệu quả
đạt còn thấp.
Từ những thực tế như phân tích ở trên, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo, qua đó nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính
đáng của nhân dân, mặt khác, phải luôn cảnh giác chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo của
các thế lực thù địch.
1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
1.1.3.1. Mục tiêu quản lý
* Mục tiêu tổng quát:
Nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng có đạo, đồng thời
chống lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, làm cho
những hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, việc thực hiện đúng chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.
* Mục tiêu cụ thể:
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cần hướng tới và đạt được
những mục tiêu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo đảm được
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo được
17
17
18
diễn ra bình thường theo đúng qui định của pháp luật Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người đã
được Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp quốc nghi nhận.
Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, Đảng và
Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là một
trong những quyền cơ bản của công dân. Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc “Tuyên ngôn
độc lập” ở Quảng trường Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm
thời, Hồ Chủ Tịch đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do
Lương Giáo đoàn kết” [37, tr 53]. Ngày nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật…” [30, tr 128].
Cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải bảo đảm
cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động tôn giáo và hành đạo một
cách thuận lợi, nhằm đảm bảo quyền này, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã qui định:
“Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng,
cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập
giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [60, tr.3].
Đồng thời trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt
động tôn giáo thuần túy với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để đề ra những biện pháp
quản lý phù hợp, tránh những hành động can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo mà vẫn
quản lý được các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Bên
cạnh đó, trong hoạt động tôn giáo, cần yêu cầu các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành chấp hành tốt các qui định của pháp luật.
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những
mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của
xã hội.
18
18
19
Tính hai mặt của tôn giáo ở nước ta hiện nay là rất rõ, do đó quản lý nhà nước đối với
với hoạt động tôn giáo, phải phát huy và khơi dậy được những yếu tố tích cực của tôn giáo,
như tính hướng thiện, từ bi, bác ái “thương người như thể thương thân” của tôn giáo trong các
mối quan hệ của xã hội. Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng nhà nước
giải quyết những vấn đề của xã hội như: Hoạt động từ thiện, cứu trợ nhân đạo, xã hội hóa các
hoạt động giáo dục, y tế… Thông qua quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải
giúp cho quần chúng tăng cường tri thức khoa học và xã hội để từng bước xóa bỏ những nhận
thức lệch lạc về thế giới quan và nhân sinh quan, những điều khắt khe, phi khoa học trong tôn
giáo. Bên cạnh đó, chúng ta phải tăng cường cảnh giác đề phòng những âm mưu lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo, tạo ra
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo luôn là truyền thống quí báu
và bài học quan trọng, là tiền đề của mọi thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước
kia và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết - thành công, thành công đại thành công”.
Trong công tác tôn giáo, mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa những người có tín
ngưỡng, tôn giáo với những người không có tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề quan trọng khi
tôn giáo luôn là công cụ, phương tiện để các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng
nhằm thực hiện âm mưu thâm độc chia rẽ dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng với Nhà nước.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự tăng cường vai
trò của nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo.
Trong thực tế, tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà nước
thừa nhận, do vậy phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải tuân thủ
những qui định của nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến các tổ chức tôn giáo thành lực lượng
đối trọng với nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước đều là bất hợp pháp. Hoạt động
tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của nhà nước đều phải bị xử lý theo qui định của
19
19
20
pháp luật. Thực hiện tốt được những điều trên, một mặt vai trò quản lý của nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo được tăng cường, mặt khác đưa các hoạt động tôn giáo theo đúng qui định
của pháp luật, định hướng cho tín đồ, chức sắc tôn giáo đồng hành cùng nhân dân cả nước
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích bảo đảm cho hoạt
động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật vì lợi ích chung, trong đó
có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội.
Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau:
Một là, nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và
pháp luật
Đây là nguyên tắc của thể chế dân chủ, có tính phổ quát ở nhiều quốc gia. Nhà nước ta
là nhà nước dân chủ, đến nay Hiến pháp Việt Nam đã được bổ sung nhiều lần với những qui
định rõ ràng về các quyền con người được Hiến pháp bảo vệ trên tất cả các mặt dân sự, chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; các quyền riêng trong xã hội, đặc biệt là quyền trẻ em, phụ nữ,
các dân tộc thiểu số, quyền bình đẳng trước pháp luật của các tôn giáo.
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của nhà nước [60, tr.70].
Chỉ thị 37- CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ chính trị ngày
02/7/1998 cũng đã khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và người không theo đạo, cũng như
giữa các tôn giáo khác nhau” [9, tr.118].
Vì vậy, không phân biệt nghĩa vụ và quyền lợi của công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo, công dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được
hưởng mọi quyền lợi công dân, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Đây
20
20
21
là nguyên tắc đồng thời cũng là nội dung quan trọng của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay.
Hai là, nguyên tắc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong
lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự
tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng, thờ
cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác
tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Tuy nhiên mức độ của
niềm tin, sự tôn thờ ấy ở mỗi con người, mỗi cộng đồng người, mỗi giai đoạn lịch sử là khác
nhau. Niềm tin tôn giáo khó áp đặt cũng không dễ tước đoạt, nó tồn tại như nhu cầu khách
quan của đời sống hiện thực. Vì vậy tự do tín ngưỡng cũng có nghĩa là con người được tự
nguyện hướng tới một lực lượng siêu nhiên, đồng thời cũng có quyền khước từ hoặc loại bỏ
niềm tin đã có. Tự do tín ngưỡng cũng có nghĩa là không chấp nhận sự độc tôn hoặc tham
vọng thôn tính của tôn giáo này đối với tôn giáo khác, càng không thể áp đặt hoặc gạt bỏ
thông qua quyền lực chính trị.
Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là vô giới hạn, vì quyền của
người này, cộng đồng này khi vượt qua giới hạn nào đó có thể vi phạm vào quyền chính đáng
của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính của nó là tự do của người này, cộng
đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng khác. Điều 8 Pháp lệnh Tín
ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định:
Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập,
thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái pháp
luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối
trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người
khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác [60, tr.3].
Chính vì những lý do trên nhà nước có trách nhiệm quản lý và điều chỉnh các hoạt
động của cá nhân và tổ chức tôn giáo sao cho những hoạt động ấy diễn ra trong khuôn khổ
của pháp luật, không ảnh hưởng đến xã hội.
21
21
22
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hóa
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bao giờ cũng thể hiện qua sinh hoạt vật chất của con
người. Tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo được vật chất hóa trong đời sống xã hội thể hiện qua
kinh sách, luật lệ, lễ nghi… Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi thờ phụng của tín đồ
các tôn giáo, đồng thời cũng là nơi giữ gìn văn hóa vật thể và phi vật thể. Những công trình
kiến trúc, những tác phẩm hội họa, điêu khắc, những bản nhạc, bài ca, y phục đến trang trí,
bày biện… thực hiện các nghi thức tôn giáo đều thể hiện nét văn hóa đặc trưng của từng tôn
giáo cụ thể. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo cũng có nghĩa là sự bảo lưu văn hóa. Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể không quan tâm đến sinh hoạt tín ngưỡng dân
gian và tôn giáo truyền thống mà nhân dân ta lưu giữ qua nhiều đời nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa đích thực không thiếu những hiện tượng
phản văn hóa có trong tôn giáo, những hủ tục cũ trỗi dậy, mê tín dị đoan gia tăng, thương mại
hóa trong tôn giáo phát triển… những hiện tượng ấy trà trộn, thẩm thấu vào sinh hoạt tôn
giáo làm vẩn đục bầu không khí sinh hoạt tôn giáo lành mạnh. Nhà nước quản lý hoạt động
tôn giáo làm sao vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời loại bỏ dần những hiện
tượng phản văn hóa trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi
ích quốc gia, xã hội
Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo thường có
nhiều nhu cầu xuất hiện trong đời sống xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tâm linh
của họ được nhà nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ đáp ứng nhu cầu ấy. Nhưng ở vào
một thời điểm nào đó đứng trước nhiều nhu cầu thì ở đây đòi hỏi tín đồ phải giải quyết hài
hòa, thỏa đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã hội. Thực hiện
nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt các xung đột, mâu thuẫn xuất hiện giữa các chủ thể
nói trên.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ phải
được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân dân được
khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm
22
22
23
nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm phương hại đến nền văn hóa
lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm theo luật
định.
1.1.3.3. Nội dung quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
* Đặc điểm đối tượng quản lý:
Đối tượng quản lý về hoạt động tôn giáo gồm tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ
chức tôn giáo. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang những
đặc điểm chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc trưng riêng của
người có đạo.
- Đặc điểm của tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành:
+ Đặc điểm của tín đồ:
Tín đồ là những người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận. Việt
Nam là quốc gia đa tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo, chiếm khoảng 20% dân số cả
nước, từ đặc điểm này cho thấy tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Quản lý nhà nước phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực hiện nhu cầu đó.
Trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt công dân và
mặt tín đồ. Là công dân, tín đồ có mọi quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Là người
có tín ngưỡng tôn giáo họ có niềm tin ở Chúa, tình cảm đời sống tâm linh ở nhiều mức độ
khác nhau và họ có quyền lợi do giáo hội qui định, họ phải hành đạo theo giáo luật. Đây
chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần nắm vững.
Ở nước ta đại đa số tín đồ các tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Dù là tín đồ
của tôn giáo nào, bản chất của người nông dân vốn là những con người cần cù lao động, có
lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc ngoại xâm và bọn bóc lột. Trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tín đồ các tôn giáo đã đóng góp đáng kể cho sự nghiệp
cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng bào có đạo luôn gắn bó với cách mạng. Trong công cuộc
đổi mới hiện nay, họ có nguyện vọng tha thiết là sống “tốt đời, đẹp đạo”, cùng toàn dân đoàn
kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.
23
23
24
Đây là đặc điểm rất tích cực trong đồng bào tín đồ. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo, phải phát huy được những điểm tích cực, khơi dậy những
truyền thống quí báu trong đồng bào, phải coi đây là một yếu tố quan trọng góp phần phát
huy nội lực để xây dựng đất nước.
Bên cạnh đại đa số đồng bào có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc, một số
tín đồ do nhiều nguyên nhân khác nhau trong hoạt động tôn giáo còn chưa tuân thủ pháp luật,
bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ gây rối trật tự công
cộng.
Từ đặc điểm này, trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo cần quan tâm
những vấn đề sau:
Một là, ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta thì các tín đồ tôn giáo phải luôn đặt lợi
ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước không phân biệt, đối xử về nghĩa vụ và quyền
lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, giải quyết hài hòa giữa mặt công dân và mặt tín
đồ.
Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn
giáo để đảm bảo ổn định chính trị-xã hội. Đồng thời chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
cho đồng bào có đạo, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào tín đồ tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác chống
những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
+ Đặc điểm của nhà tu hành, chức sắc:
Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý,
giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Nhà tu hành, chức sắc trước hết là tín đồ thuộc một tổ chức tôn giáo nhất định bởi vậy
họ cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ. Song khác với tín đồ, đội ngũ chức sắc là
những người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, do đó năng lực, trình độ của họ
24
24
25
khá cao và được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm, bầu cử và suy cử. Họ đại diện ở
những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo, họ vừa chăn dắt tín đồ vừa quản lý hành
chính đạo theo thẩm quyền.
Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi với tín đồ, nắm bắt kịp thời
tâm tư, nguyện vọng của tín đồ, do đó họ có vị trí, vai trò ảnh hưởng rất sâu sắc trong tín đồ.
+ Đặc điểm của tổ chức tôn giáo:
Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật,
lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công nhận.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo. Có tôn giáo được tổ chức
thành một hệ thống từ Trung ương xuống đến cơ sở như Giáo hội Công giáo Việt Nam, Giáo
hội Phật giáo Việt Nam… nhưng có những tôn giáo trong quá trình phát triển do nhiều
nguyên nhân bị tách ra thành nhiều hệ phái khác nhau, mỗi hệ phái tạo thành một tổ chức
hoạt động độc lập như đạo Tin lành, đạo Cao đài.
Tổ chức tôn giáo có chức năng điều hành hoạt động của tôn giáo. Trong mỗi tôn giáo,
tổ chức bộ máy được sắp xếp khác nhau, hệ thống tổ chức của tôn giáo được qui định theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và được Nhà nước công nhận. Trong mối quan hệ
nội bộ của tổ chức tôn giáo, có tổ chức có mối quan hệ hành chính đạo rất chặt chẽ, cấp dưới
phục tùng cấp trên. Ngược lại, có tổ chức mối quan hệ hành chính đạo lại rất lỏng lẻo như
trong đạo Phật, mặc dù là một tổ chức Phật giáo thống nhất nhưng trong mỗi hệ phái có tính
chất độc lập tương đối, ít lệ thuộc vào Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trong mối quan hệ với nhà nước và xã hội, giáo hội là tổ chức đại diện cho tôn giáo để
giải quyết các công việc có liên quan đến tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo được nhà nước công
nhận đều thể hiện đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng với dân tộc, hoạt động tôn
giáo cơ bản tuân thủ các qui định của pháp luật.
* Những nội dung chủ yếu về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo:
- Những nội dung cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo:
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo gồm nhiều công việc như sau:
+ Xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm thuộc lĩnh vực tôn
giáo;
25
25