Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

Nâng cao hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.75 KB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỒNG THÁP - 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

--------

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Thành

ĐỒNG THÁP - 2015


3

Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ tình cảm chân thành và lòng
biết ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Chính trị,
Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học Vinh, xin cảm ơn lãnh đạo Văn
phòng Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Văn phòng Huyện ủy Châu Thành,
cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các ban ngành hữu quan, các đồng chí, đồng
nghiệp.
Đặc biệt tôi luôn ghi nhớ và trân trọng công sức, sự chỉ dẫn tận tình, cùng
lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đinh Trung Thành, người đã trực tiếp hướng
dẫn và đã gíúp tôi hoàn thành luận văn.
Dù đã rất cố gắng và nỗ lực cao, nhưng luận văn chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong các nhà giáo, nhà khoa học giúp đỡ, góp ý để
luận văn hoàn thiện hơn.
Đồng Tháp, ngày 30/5/2015
Tác giả luận văn


4

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài...............................................................................................4

2. Mục đích của luận văn.......................................................................................8
3. Nhiệm vụ của luận văn......................................................................................8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................8
6. Ý nghĩa của luận văn.........................................................................................9
7. Kết cấu của luận văn..........................................................................................9
B. NỘI DUNG....................................................................................................10
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh...................................................................................... 10
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh...........................10
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện chức năng giám sát ......24
1.3. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh............33
1.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh..........40
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp.......................................................................47
2.1. Đặc điểm tỉnh Đồng Tháp tác động đến thực trạng hoạt động giám sát ...................47
2.2. Cơ cấu, chất lượng đại biểu và tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân tỉnh.....49
2.3. Hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp thời gian qua...51
2.4. Đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân Tỉnh thời gian qua......74
2.5. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................................80
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay ............................90
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh ...........90
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh ....93
C. KẾT LUẬN.................................................................................................133
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................134


5


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước là một trong những yêu cầu quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong bộ máy nhà
nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ
vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức thiết hiện nay.
Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu cầu cơ bản để
nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Qua giám sát, HĐND có thể kiểm
chứng tính đúng đắn, phù hợp của các quy định pháp luật đang được áp dụng và
những chủ trương, biện pháp đã được HĐND quyết định; kịp thời phát hiện
những vướng mắc để đề xuất các giải pháp tháo gỡ; góp phần thực hiện tốt hơn
công tác điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đáp ứng nhu
cầu bức xúc của nhân dân. Thực hiện giám sát một cách toàn diện và nghiêm túc
cũng là những căn cứ thực tiễn giúp HĐND ban hành nghị quyết về phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh bảo đảm được tính khả thi và phát huy
hiệu quả trong đời sống xã hội.
Trong những năm qua, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Đồng Tháp có
nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, HĐND tỉnh đã xây dựng chương trình kế
hoạch giám sát; tổ chức các đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám sát
có những hình thức phối hợp với các cấp, các ngành... Do đó, đã đưa lại nhiều
kết quả khả quan, bước đầu góp phần khắc phục tính hình thức trong hoạt động
của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Tuy nhiên trong thực
tiễn, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như việc
xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thật sự khoa học; các


6


kết luận sau khi giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy; kỹ năng
giám sát của các đại biểu HĐND còn nhiều bất cập... Chính vì vậy, hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn thấp. Để khắc phục tình trạng trên,
yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh.
Trong các cấp HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi
bật. Ở cấp này, hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy
đủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương. Do đó, nghiên cứu
hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu
hoạt động giám sát của HĐND cấp khác. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ,
tác giả lựa chọn nghiên cứu hoạt động giám sát của HĐND ở một địa phương cụ
thể. Việc nghiên cứu đó vừa góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát
của HĐND ở đây, vừa có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cho việc tăng
cường hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói chung. Xuất phát từ những
yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài "Nâng cao
hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện
nay" làm luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Chính trị học.
Vấn đề giám sát và nâng cao hiệu lực giám sát của cơ quan dân cử nói
chung được đề cập nhiều trên sách báo, tạp chí, diễn đàn, hội thảo khoa học.
Riêng về công tác giám sát của HĐND, trong thời gian qua cũng đã có một số
công trình khoa học đề cập tới ở những góc độ khác nhau. Tiêu biểu cho những
công trình đó có thể kể đến:
- Vũ Mạnh Thông (1998), Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.


7


- Nguyễn Khắc Bộ (2001), Công tác giám sát tại kỳ họp Hội đồng nhân
dân – Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội
đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
- Trần Đình Huề (2001), Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân và bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát, Kỷ yếu nâng
cao năng lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
- Vũ Hùng (2001), Hoạt động giám sát của Ban Văn hóa xã hội, Hội đồng
nhân dân Thành phố Đà Nẵng và một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Kỷ yếu nâng cao năng
lực và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.
- Vũ Thư (2003), Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân, Trong sách : “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền
lực Nhà nước ở nước ta”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Bùi Huyền Mai (2004), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật, 2004.
- TS. Lê Thanh Vân (2010), Cơ sở pháp lý về quyền giám sát của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh đối với hoạt động tư pháp - Thực trạng và giải pháp, Tài liệu
Hội thảo Nâng cao năng lực thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Tư pháp
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với hoạt động của các cơ quan
tư pháp từ ngày 16 - 17/8/2010 tại thành phố Đà Nẵng.
- Trần Văn Tân (2011), Năng lực quyết định và hiệu quả hoạt động giám
sát của Hội đồng nhân dân tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp xã trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài khoa học cấp tỉnh.


8


- TS.Trần Đình Đàn (2012), “Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân tỉnh đối với lĩnh vực đất đai”, Đề tài khoa học cấp bộ.
- TS. Phạm Ngọc Kỳ (2014), Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ
năng giám sát cơ bản”, Nhà xuất bản Tư pháp.
Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính
sách tập trung nhấn mạnh trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước, trong đó đặc biệt quan tâm tới tổ chức và hoạt động của HĐND, với
mục đích làm cho HĐND thực hiện được đúng và đầy đủ những chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng của HĐND được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 và được Luật Tổ chức HĐND và Ủy ban nhân
dân (UBND) năm 2003 quy định tại Chương III “Hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân
dân và đại biểu Hội đồng nhân dân”.
Trong những năm gần đây, đặc biệt từ khi Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 đã có hiệu lực pháp luật, thì hoạt động giám sát của HĐND ngày càng
được quan tâm hơn và có hiệu quả hơn.
Những công trình khoa học trên đã cung cấp cơ sở phương pháp luận hết
sức quan trọng trong việc tiếp cận vấn đề nâng cao hiệu quả giám sát của
HĐND. Tuy nhiên, mỗi tác giả trên chủ yếu khai thác đề tài từ góc độ khoa học
pháp lý cho nên chưa bao quát, toàn diện các khía cạnh, nội dung liên quan đến
công tác giám sát của HĐND cấp tỉnh. Hơn nữa, thời điểm nghiên cứu cũng diễn
ra khá lâu, trong khi giai đoạn hiện nay có nhiều đòi hỏi mới cần tiếp tục nghiên
cứu để tổng kết thực tiễn. Cho đến nay cũng chưa có công trình nào đề cập một


9


cách toàn diện về vấn đề nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Đồng Tháp
dưới góc độ khoa học chính trị. Công trình khoa học của tác giả không trùng lắp
với các công trình khoa học đã được công bố.
2. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát, đánh giá hoạt động giám sát, đề xuất
một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hơn nữa cơ chế giám sát của
HĐND tỉnh Đồng Tháp, bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện
cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương trong việc thực hiện quyền
làm chủ của mình.
3. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giám sát và hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Đồng Tháp.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Đồng Tháp trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động giám sát tại các Kỳ họp của
HĐND tỉnh, hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp theo nghị quyết hàng năm, hoạt
động giám sát của Thường trực, các Ban của HĐND tỉnh và của đại biểu HĐND
tỉnh Đồng Tháp trong những năm qua và các giải pháp nâng cao hiệu quả giám
sát của HĐND tỉnh Đồng Tháp thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về Nhà


10

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò

và hoạt động của chính quyền địa phương.
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài luận văn, trong quá trình thực
hiện luận văn, tác giả sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu: phương
pháp phân tích tổng hợp, hệ thống hoá, so sánh; phương pháp quan sát, phương
pháp chuyên gia, phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chức năng
giám sát và hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh. Đặc biệt làm rõ đặc điểm
của công tác giám sát ở HĐND tỉnh Đồng Tháp.
- Trên cơ sở đánh giá toàn diện thực trạng về chất lượng hoạt động giám sát
của HĐND tỉnh Đồng Tháp, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh trong giai đoạn mới.
- Luận văn có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu tham khảo cho công tác
nâng cao năng lực, kỹ năng hoạt động HĐND của đại biểu dân cử và cho cơ
quan thường trực của HĐND các cấp trong tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của
HĐND cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát và hiệu quả giám sát của HĐND
tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Yêu cầu khách quan, quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu
quả giám sát của HĐND tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.


11

B. NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VÀ HIỆU QUẢ
GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Vị trí, vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp (Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980, Hiến pháp 1992), Hiến pháp nước ta đều quy định đầy đủ vị trí, tính chất,
chức năng, được cụ thể hóa bằng nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Thực tiễn
hoạt động của HĐND từ khi ra đời đến nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm
quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân. Trãi qua bao giai đoạn, cùng với sự thăng trầm của đất nước, hệ
thống các cơ quan dân cử ở địa phương đã khẳng định được vị trí của mình.
Điều 2, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân..." [15, tr.8]. Với
khẳng định trên, nguồn gốc, bản chất quyền lực Nhà nước ta là quyền lực nhân
dân.
Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng và Nhà nước ta, với
nhận thức sâu sắc vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền
nhà nước, đã quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND. Nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời là chính quyền dân chủ đầu tiên của nước ta.
Đúng với mục tiêu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước của dân, do dân, vì dân, Đảng ta luôn coi trọng quyền làm chủ của
nhân dân thông qua phổ thông đầu phiếu để bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà


12

nước. Vì thế, HĐND đã được xây dựng như là một hệ thống cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương do nhân dân trực tiếp bầu ra, thể hiện được vai trò là cơ

quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để nhân dân xây dựng, củng
cố chính quyền ngày càng lớn mạnh.
Nói đến vị trí là nói đến chỗ đứng của HĐND trong hệ thống chính trị và
bộ máy nhà nước. Điều 1 Luật Bầu cử HĐND nêu rõ HĐND là cơ quan do nhân
dân bầu ra, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Con đường hình thành này là một yếu tố quan trọng tạo nên
vị trí của HĐND.
Vị trí, vai trò quan trọng của HĐND trong bộ máy nhà nước ta được
khẳng định dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Hội đồng nhân dân các cấp đã khẳng định được vị trí, vai trò và trách
nhiệm của mình trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. HĐND có khả năng
đoàn kết, tập hợp, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên
được mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phương góp phần vào
thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.
- Sự hiện diện của HĐND trong hệ thống chính trị có vai trò to lớn trong
việc hình thành Nhà nước kiểu mới ở nước ta, thể hiện được tính giai cấp sâu
sắc, tính nhân dân thực sự của Nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân
về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
- Hội đồng nhân dân các cấp đã trở thành nơi thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. Những người có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và
thông qua họ, HĐND trở thành diễn đàn để người dân lao động thực hiện quyền
làm chủ nhà nước và xã hội của mình.
- Hội đồng nhân dân là cầu nối giữa chính quyền trung ương với chính
quyền địa phương, vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ


13

máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa bảo đảm phát huy được nội lực từng
địa phương, cơ sở. Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ

trực tiếp của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả
nước và trước hết là làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở mình.
Điều 113 Hiến pháp 2013 và điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 xác định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên" [15], [36]. Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng
rãi cho HĐND, bảo đảm thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm và toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại ở địa phương
trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều 6, Hiến pháp 2013
ghi: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân
chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước" [15, tr.10].
Như vậy, trong bộ máy nhà nước, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương đó. HĐND có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo Hiến pháp 2013
là: “Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân,”[15, tr.50].
Từ những quy định của Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức HĐND và UBND
năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND trên hai góc độ sau đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.


14

Tính quyền lực nhà nước ở địa phương của HĐND biểu hiện ở một số mặt
như sau:
+ Có quyền căn cứ vào pháp luật tham gia thành lập bộ máy các cơ quan

nhà nước khác ở địa phương như bầu, miễn nhiệm, bãi miễn các chức danh của
UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh do HĐND bầu ra.
+ Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị quyết để triển khai
các mặt công tác ở địa phương trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng,
an ninh, văn hóa, giáo dục...
+ Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Do vị trí pháp lý như trên, quyền lực của HĐND được giới hạn trong
phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ, tuy là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, HĐND không có quyền lập pháp mà là cơ quan có chức năng quản lý
địa phương, thực hiện nhiều hoạt động mang tính chấp hành và điều hành. Tính
chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng xét về
mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp ghi
nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước cả về phạm vi, cấp độ cũng như
thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. Ở nước ta, Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND cũng là cơ quan
quyền lực nhà nước nhưng chỉ có quyền ban hành nghị quyết - là loại văn bản
pháp quy dưới luật, phải bảo đảm những quy định và quyết định của các cơ quan
nhà nước cấp trên ở trung ương và địa phương được thực hiện. HĐND phải chịu
trách nhiệm trước các cơ quan chính quyền cấp trên, chịu sự hướng dẫn hoạt
động của Chính phủ và chịu sự lãnh đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.


15

Thứ hai, HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân địa phương.
Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc
bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình

đẳng, bỏ phiếu kín. Hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND là kỳ họp toàn thể.
Mọi quyết định của HĐND được thông qua bằng việc biểu quyết theo nguyên
tắc đa số. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét
nhất ở vấn đề cơ cấu đại biểu trong HĐND. HĐND là đại diện tiêu biểu cho
tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong xã hội, được cấu thành từ các đại biểu
ưu tú của mọi tầng lớp nhân dân, từ các dân tộc, tôn giáo, công nhân, nông dân,
trí thức…Trong đó có một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ giới,
người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang
nhân dân và các cơ quan nhà nước khác đóng tại địa phương. Điều này có nghĩa,
HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể
nhân dân; thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống
trên địa phương, đại diện cho trí tuệ, tinh thần và sức mạnh tập thể của nhân dân
địa phương.
Tính chất đại diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 69, Hiến pháp 2013);
đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn
vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước (Điều 79, Hiến pháp 2013). Còn
HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên.
Tính đại diện của HĐND còn thể hiện ở chỗ HĐND có quyền chủ động
giải quyết các vấn đề trong phạm vi địa phương, không đối lập với lợi ích chung
của quốc gia và chính sách, pháp luật của nhà nước. Vị trí đại diện của HĐND
có thể hình dung HĐND như chiếc cầu nối giữa nhân dân và nhà nước, tạo điều


16

kiện cho nhân dân làm chủ. Như vậy, HĐND là tổ chức chính quyền gần gũi
nhân dân nhất, hiều rõ tâm tư nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, chịu sự
kiểm tra giám sát của nhân dân địa phương. Các đại biểu không còn được nhân

dân tín nhiệm sẽ bị bãi nhiệm.
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn chúng ta chưa quan tâm đúng
mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt
động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động của
HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của bộ máy nhà nước.
Do vậy có ý kiến cho rằng: cần bỏ HĐND, hay nói cách khác sự tồn tại của
HĐND không cần thiết vì hoạt động của nó rất hình thức, làm cho bộ máy nhà
nước thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm trái với bản chất của Nhà nước
ta – Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, theo đó, phải có cơ quan
đại diện của nhân dân ở trung ương cũng như ở khắp các địa phương, cơ sở để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Hiến pháp quy định mở để tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với
đặc điểm đơn vị hành chính, không phải mở để tước đoạt quyền làm chủ của
nhân dân. Hiến pháp năm 2013 đã quy định mỗi cấp chính quyền gồm HĐND
và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm của khu vực nông thôn, thành thị,
hải đảo và khu vực hành chính – kinh tế đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Diễn giải quy định này của Hiến pháp, cơ quan soạn thảo dự Luật Tổ chức chính
quyền địa phương cho rằng, như vậy sẽ có những nơi không tổ chức HĐND.
Dự án Luật Chính quyền địa phương về cơ bản vẫn là Luật Tổ chức
HĐND và UBND, có bổ sung một số nội dung quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến
pháp năm 2013. Cơ quan soạn thảo dự án Luật trình Quốc hội hai phương án về
mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Theo đó có một phương án sẽ tổ chức
HĐND đầy đủ ở các cấp chính quyền; một phương án sẽ bỏ HĐND quận,
phường. Việc đưa ra cả hai phương án như vậy chứng tỏ cơ quan soạn thảo cũng


17

lúng túng trong vấn đề này. Phải có quan điểm chắc chắn trên cơ sở lý luận và
thực tiễn vững vàng chứ không thể tư duy về tổ chức bộ máy chính quyền địa

phương theo kiểu thích thì giữ, không thích thì bỏ. Luật Tổ chức chính quyền
địa phương – luật về cấp chính quyền gần dân nhất tuyệt đối không được cảm
tính.
Hiến pháp 2013 quy định mở là để tìm ra mô hình thích hợp như ở hải đảo
không có cấp xã, từ huyện xuống thẳng các khu dân cư, và tại những khu dân cư
này có đại diện hành chính để giải quyết một số nhu cầu của người dân. Nhưng
không thể có chuyện một cấp chính quyền chỉ có UBND mà không có HĐND,
bởi Hiến pháp đã quy định rõ: UBND là cơ quan do HĐND bầu ra và là cơ quan
chấp hành của HĐND. Không phải do HĐND bầu ra thì không được gọi là
UBND. Nếu không do HĐND bầu ra thì quá trình bầu ra thành viên UBND
không phải từ ý nguyện của nhân dân. Cơ quan đó có đại diện cho những người
lao động, cử tri ở khu vực đó hay là đại diện cho chính quyền cấp trên cũng
không rõ. Chúng ta cũng không thể gọi cơ quan đó là Ủy ban hành chính, vì
không có chế định này trong Hiến pháp 2013, mà chỉ có UBND.
Kiên trì quan điểm bỏ HĐND quận, phường, một số ý kiến cho rằng,
không có HĐND quận, phường người dân vẫn có thể thực hiện quyền dân chủ
gián tiếp thông qua đại biểu HĐND thành phố hoặc đại biểu Quốc hội. Đúng là
có thể, vì đại biểu HĐND tỉnh, thành phố hay đại biểu Quốc hội cũng là những
người đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương đó. Nhưng một
năm hai lần đi tiếp xúc cử tri thì dân khó có thể phán ánh, mong chờ gì. Phải lấy
những người trực tiếp, gần với cuộc sống của dân làm đại diện cho dân, không
thể thay đổi bằng một thiết chế khác. Đại biểu phường ở ngay khu phố, khu dân
cư nên người dân có thể chạy qua nhà để phản ánh một sự vụ, sự kiện. Thực tiễn
chứng minh phải có HĐND ở các cấp chính quyền địa phương để đại diện cho


18

dân quyết định, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước và bảo đảm quyền
làm chủ cho người dân ở địa phương.

“Qua quá trình thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện,
phường thì thấy đúng là có bớt đi được biên chế, bớt đi được bộ máy. Nhưng
thực tế là, những người giữ chức vụ thường trực Hội đồng nhân dân, chuyên
viên Văn phòng vẫn còn nguyên trong biên chế, chỉ chuyển sang hoạt động
trong lĩnh vực khác. Tức là không hề giảm số lượng người trong bộ máy quản lý
nhà nước. Quá trình thí điểm này chỉ cho thấy, bớt đi được đầu tên cơ quan là
Thường trực Hội đồng nhân dân, chứ ngay cả khi sáp nhập các cơ quan quản lý
nhà nước hay địa phương thì số lượng cán bộ, công chức, viên chức trong bộ
máy cũng không giảm đi” [42].
Trong thực tế, hoạt động quyết định, giám sát của HĐND đều có hạn chế.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ cấu đại biểu, hình
thức hoạt động... mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn hiệu quả hoạt động
trong thực tế mới là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại diện của HĐND.
Vị trí, vai trò HĐND là hoàn toàn có cơ sở, được ghi nhận trong Hiến
pháp và các văn bản pháp luật khác. HĐND có thể đứng đúng vị trí, thể hiện
đúng vai trò của nó khi vị trí, vai trò được ghi nhận đó được triển khai có hiệu
quả trên thực tế. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực hiện được
quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới
và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và HĐND các cấp nói riêng.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của
HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND. Điều 1, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, HĐND các cấp đều có hai chức năng cơ bản: chức
năng quyết định và chức năng giám sát.


19

- Chức năng quyết định.
Điều 1, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận: "Hội đồng

nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng
cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước".
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cũng xác định cụ thể nội dung những
vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11).
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể
dục, thể thao (Điều 12).
+ Quyết định về phát triển khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường
(Điều 13).
+ Quyết định về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 15).
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16).
+ Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17).
Nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao gồm tất
cả các mặt của đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học, quốc phòng, an ninh.
Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của
HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ
pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương khai thác hết
mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho nhân dân địa phương, khẳng định vai trò, vị trí của mình.


20

Trong chức năng quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự
phát triển toàn diện của địa phương. Vì vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải
bảo đảm tính dân chủ và tính khả thi trên thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề

được quyết định trước, đến kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ giơ tay biểu quyết,
không có sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết dân chủ là
điều kiện bảo đảm chất lượng đối với các quyết định của HĐND. Đồng thời,
HĐND phải bảo đảm được sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, nghĩa là bảo
đảm cho quy định và quyết định của cấp trên được thi hành triệt để ở địa
phương, đồng thời phát huy quyền chủ động, sáng tạo của địa phương, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng bộ máy nhà nước.
- Chức năng giám sát.
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc
tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương" [36].
Hoạt động giám sát của HĐND mang tính quyền lực nhà nước và quyền
lực HĐND trong lĩnh vực giám sát là quyền lực của nhân dân địa phương trao
cho đại biểu của mình, thay mặt nhân dân địa phương thực hiện quyền dân chủ
theo pháp luật quy định. HĐND thay mặt cho nhân dân địa phương, cho cử tri
đã bầu ra mình để quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và giám
sát việc thi hành những quyết định đó. Chức năng giám sát của HĐND gắn liền
với chức năng quyết định những vấn đề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND.
Thực hiện tốt chức năng này giúp HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động của các
cơ quan nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của
HĐND và phát hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của các Nghị quyết


21

do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để
HĐND thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch,

Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên của UBND,
Trưởng Ban và các thành viên Ban của HĐND) hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi
bỏ những quyết định sai trái của UBND cùng cấp, những nghị quyết sai trái của
HĐND cấp dưới trực tiếp.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và chức năng của
HĐND rất quan trọng. Trong đó chức năng giám sát có vai trò đặc biệt lớn. Do
yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề giám sát của HĐND cần được nghiên cứu
sâu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó chúng ta có những căn cứ để đề
xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Đồng Tháp nói riêng trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Khái niệm hoạt động giám sát và hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Khái niệm giám sát:
Theo từ điển Tiếng Việt, giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định hay không.
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội ban hành năm 2003, tại
khoản 1 Điều 2 giải thích: “Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại biểu Quốc hội và đại
biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội” [35, tr. 8].
Trong Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, tuy không định nghĩa
cụm từ giám sát nhưng các nội dung trong chương III của luật này quy định cụ


22

thể nội dung mà HĐND tiến hành giám sát bao gồm: giám sát tổ chức hoạt động
của các cơ quan do HĐND bầu ra và giám sát việc thi hành pháp luật và nghị

quyết của các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND thông qua các hình
thức: xem xét báo cáo công tác của những đối tượng theo quy định pháp luật;
xem xét trả lời chất vấn của những đối tượng này; tổ chức các đoàn giám sát; bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu, thông qua việc tiếp dân
và theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND…
Trong các công trình nghiên cứu một số tài liệu, thuật ngữ "giám sát"
được hiểu theo nhiều cách, từ nhiều góc độ khác nhau nhưng các quan niệm trên
đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra
một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đúng
những điều đã quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với việc
làm sai, nhằm đạt được những mục đích hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm
cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ. Thuật ngữ "giám sát" nếu hiểu
theo nghĩa chung thì phạm vi áp dụng của nó rất rộng, muốn có một khái niệm
cụ thể thì hoạt động giám sát bao giờ cũng gắn với một chủ thể xác định, chẳng
hạn như giám sát của Quốc hội, giám sát của HĐND, giám sát của nhân dân.
Như vậy, giám sát là một trong hai chức năng quan trọng của HĐND,
thông qua hoạt động giám sát chúng ta có thể kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự
phù hợp về các quy định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống
và những chủ trương, biện pháp mà HĐND đã quyết nghị; giúp chúng ta phát
hiện ra những khó khăn, vướng mắc và kịp thời có những giải pháp tháo gỡ để
thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động. Hoạt động giám sát còn là cơ sở để thực
hiện công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một cách chính xác, bảo đảm
các nghị quyết ban hành có chiều sâu, sát thực tiễn, phù hợp với tâm tư, nguyện
vọng của cử tri.


23

Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những
quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn

bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như sau:
Giám sát của HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường
trực HĐND, các Ban của HĐND và các đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem
xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đưa ra các kết
luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy
mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội, bảo đảm quốc
phòng – an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Điểm đặc biệt HĐND vừa là chủ thể thực hiện hoạt động giám sát nhưng
đồng thời cũng là đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
- Khái niệm hiệu quả giám sát:
Xác định hiệu quả giám sát là một nhiệm vụ phức tạp và đầy khó khăn cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm hiệu quả
được hiểu là kết quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định.
Trong khi đó các nhà quản lý hành chính lại cho rằng: hiệu quả là sự so sánh
giữa các chi phí đầu tư với các giá trị của đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối
thiểu chi phí, là mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra, đầu vào.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu về hiệu quả giám sát của HĐND, cần
phải đặt hiệu quả trong mối quan hệ với hiệu lực giám sát của HĐND. Hiệu quả
cao hay thấp phụ thuộc vào việc HĐND thực hiện chức năng giám sát của mình
theo quy định của pháp luật đến đâu cũng như những kết luận kiến nghị từ hoạt
động giám sát có được các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh
hay không. Để bảo đảm hiệu lực, hoạt động giám sát có chất lượng, nghĩa là


24

phải đưa ra những kết luận đề xuất đúng đắn. Trong mối quan hệ giữa chất

lượng và hiệu lực giám sát thì chất lượng giám sát là tiền đề bảo đảm thực hiện
hiệu lực nhưng để bảo đảm hiệu lực giám sát cần có sự tự giác chấp hành
nghiêm chỉnh của các chủ thể bị giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn
rút ra từ hoạt động giám sát. Đồng thời cần có các biện pháp xử lý đối với các
chủ thể không chấp hành nghiêm các kết luận đề xuất đó. Một khi chất lượng và
hiệu lực giám sát được bảo đảm thì đương nhiên hiệu quả giám sát sẽ tốt hơn.
Như vậy giữa hiệu lực và hiệu quả giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tuy nhiên, vì tính hiệu quả của hoạt động giám sát, bên cạnh việc bảo đảm về
mặt hiệu lực phải tính toán những chi phí đầu tư cần phải ở mức tối ưu.
Trong đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh thì yếu
tố kết quả thu về sau khi tiến hành các hoạt động giám sát cũng có tính lưỡng
tính. Có thể vừa xác định được kết quả một cách định lượng vừa xác định được
kết quả một cách định tính (nhưng chủ yếu bằng định tính). Có những hoạt động
giám sát có thể lượng hoá được kết quả thu về. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp
kết quả thu về không chỉ đơn giản tính bằng những yếu tố định lượng mà còn
dựa vào cả yếu tố định tính. Hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh không những
thể hiện ở chỗ các chủ thể bị giám sát đã chấn chỉnh uốn nắn hoạt động của
mình theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND mà
thông qua giám sát nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân có chức
trách, củng cố niềm tin của cử tri đối với cơ quan dân cử. Làm tốt công tác giám
sát sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến các vấn đề kinh tế - xã hội, góp phần
bảo đảm tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trong thực tế, lâu nay việc đánh giá hiệu quả giám sát mới chủ yếu dừng
lại qua các con số: Số lượng các đoàn giám sát, các vấn đề được chất vấn qua
các kỳ họp... còn từ kết quả của các hoạt động đó mang lại hiệu quả như thế nào
trong thực tế rất khó xác định.


25


Như vậy, nói một cách khái quát, hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh phải
bao hàm cả những yếu tố định tính "chính là những ảnh hưởng (hiệu ứng tích
cực) mà hoạt động giám sát mang lại, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
của bộ máy Nhà nước và toàn xã hội" [4, tr.98-99]. Đồng thời thông qua hoạt
động giám sát sẽ tăng cường mối quan hệ giữa HĐND với các cơ quan nhà nước
khác, góp phần xây dựng chính quyền địa phương ngày càng vững mạnh.
Từ những phân tích trên, hiệu quả giám sát của HĐND được hiểu là hiệu
lực thi hành các kiến nghị của hoạt động giám sát, đem lại kết quả phù hợp với
mục đích giám sát, với những chi phí hợp lý về thời gian, trí lực, vật lực….cho
hoạt động giám sát.
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện chức năng
giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1. Chủ thể, đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
1.2.1.1. Chủ thể giám sát
Theo Điều 57 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường trực
HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND bao gồm:
- HĐND: Tập thể các đại biểu HĐND tại phiên họp hội đồng.
- Thường trực HĐND.
- Các Ban của HĐND.
- Đại biểu HĐND.
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 (sửa đổi), thường trực
HĐND chưa phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mới chỉ là người đôn đốc,
kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng như vấn đề giải quyết khiếu


×