Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Vận dụng kiểmtoán hoạt động vào kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện do kiểm toán nhà nước thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.07 KB, 102 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển một cách
mạnh mẽ, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ bản ngày càng tăng trên nhiều lĩnh vực như:
an ninh, quốc phòng, văn hoá, y tế, giao thông, thuỷ lợi , thuỷ điện, phúc lợi xã
hội… Đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần lớn trong việc xây dựng cơ sở vật chất
xã hội, tạo nên sự chuyển biến quan trọng về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong lĩnh đầu tư xây dựng, còn xuất
hiện ngày càng nhiều những tồn tại, hạn chế như: cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, sử
dụng các nguồn vốn kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, tình trạng thất thoát lãng phí
xuất hiện ở hầu hết các công trình, dự án.
Cùng với các cơ quan kiểm tra, kiểm soát khác, cơ quan Kiểm toán Nhà nước
Việt Nam với chức năng kiểm toán báo cáo tài chính; kiểm toán tuân thủ và kiểm toán
hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước
đã góp phần làm lành mạnh nền tài chính ở các đơn vị trong đó có các dự án đầu tư xây
dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện.
Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện cần một sự kiểm soát
chặt chẽ không chỉ về khía cạnh đầy đủ, trung thực về mặt số liệu; tuân thủ pháp
luật trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư mà còn phải đánh giá được tính kinh tế,
tính hiệu lực và tính hiệu quả của các dự án đầu tư ; để đưa ra những đánh giá đó
chỉ có thể thực hiện thông qua tiến hành kiểm toán hoạt động. Muốn vậy, cần vận
dụng được quy trình, phương pháp kiểm toán hoạt động đối với các dự án đầu tư
xây dựng cơ bản nói chung và đối với các dự án xây dựng nhà máy thuỷ điện nói
riêng.
Xuất phát từ những thực tế như vậy, tác giả đã chọn đề tài “ Vận dụng kiểm
toán hoạt động vào kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện do
kiểm toán nhà nước thực hiện” với mong muốn có thể tìm hiểu rõ hơn về kiểm
toán hoạt động đối với các dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện trên cả phương
diện lý luận và thực tế.

1




2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu một cách có hệ thống về quy trình, phương pháp kiểm toán hoạt
động; những đặc trưng của dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện và quy
trình, phương pháp kiểm toán hoạt động đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
nói chung và đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện nói riêng; nghiên cứu một số quy
trình, phương pháp kiểm toán hoạt động của các nước tiêu biểu trên thế giới, từ đó
đúc rút kinh nghiệm và đưa ra định hướng áp dụng đối với Kiểm toán Nhà nước
Việt Nam.
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy trình và phương pháp kiểm toán dự án
đầu tư xây dựng cơ bản đang được thực hiện của Kiểm toán Nhà nước, những kết
quả đạt được và hạn chế; Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số các giải pháp nhằm
xây dựng quy trình, phương pháp kiểm toán hoạt động dự án đầu tư xây dựng cơ
bản nhà máy thuỷ điện do kiểm toán Nhà nước thực hiện.
3. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài dự kiến bao gồm 3 nội dung:
- Về lý luận: Phân tích và hệ thống các vấn đề lý luận về kiểm toán hoạt
động của Kiểm toán Nhà nước.
- Về thực tiễn: Phân tích thực trạng và yêu cầu phát triển kiểm toán hoạt
động của Kiểm toán nhà nước trong kiểm toán đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện.
Về kiến nghị và giải pháp: Đưa ra kiến nghị và giải pháp vận dụng kiểm toán
hoạt động vào kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản các dự án nhà máy thuỷ điện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích trên, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu nhằm đánh giá được tính
kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ
điện Hàm Thuận- Đa Mi do kiểm toán Nhà nước thực hiện, trong đó tập trung vào
những vấn đề cụ thể sau:
-


Đánh giá việc thực hiện mục tiêu của dự án;

-

Đánh giá sự tương thích các chi phí về tài chính, nhân lực, vật tư để thực
hiện mục tiêu đó;

2


-

Đánh giá năng lực của các quá trình và năng lực tổ chức, quản lý, điều
hành của chủ thể quản lý nhằm sử dụng các nguồn lực đầu tư vào đạt hiệu
quả nhất.

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quy trình, phương pháp kiểm toán hoạt động
đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư xây dựng nhà máy
thuỷ điện nói riêng do Kiểm toán nhà nước thực hiện.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn trên cơ sở vận dụng
phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của lý luận triết học Mác – Lênin, kết
hợp các phương pháp khoa học cụ thể như: tổng hợp, phân tích, điều tra thực tế…
6. Tên và nội dung của đề tài:
Tên Luận văn: “Vận dụng kiểm toán hoạt động vào kiểm toán đầu tư xây
dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện do Kiểm toán nhà nước thực hiện”
Kết cấu Luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục đề tài gồm 3
chương:
Chương 1.Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán hoạt dộng trong
kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ điện

Chương 2.Thực trạng kiểm toán hoạt dộng dự án đầu tư xây dựng nhà
máy thuỷ điện Hàm Thuận – Đa Mi do kiểm toán Nhà nước thực hiện
Chương 3. Các giải pháp cần thiết để tiến hành kiểm toán hoạt động dự
án đầu tư xây dựng cơ bản và kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản nhà máy thuỷ
do Kiểm toán Nhà nước thực hiện

3


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM
TOÁN HOẠT ĐỘNG TRONG KIỂM TOÁN DỰ ÁN ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG CƠ BẢN NHÀ MÁY THUỶ ĐIỆN
1.1. Khái quát về kiểm toán hoạt động
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là một loại hình kiểm toán mới mẻ, là một lĩnh vực
phản ánh sự tiến bộ, cách tân về phương thức kiểm toán, hệ quả của quá trình phát
triển kiểm toán thời hiện đại. Hiện có nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán hoạt
động.
Trong tuyên bố Lima năm 1997 về kiểm tra tài chính của Tổ chức quốc tế
các Cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) đã đề cập đến kiểm toán hoạt động như
sau: “Còn có một loại hình kiểm toán khác nhằm vào sự hoạt động, tính hiệu quả
và tính kinh tế của việc quản lý hành chính công. Loại hình kiểm toán này không
chỉ bao gồm các khía cạnh của sự quản lý mà còn bao gồm tất cả hoạt động quản
lý kể cả hệ thống tổ chức và hành chính”.
Sổ tay hướng dẫn về Kiểm toán chính phủ của Liên hợp Quốc đã định nghĩa:
“Kiểm toán hoạt động là một cuộc kiểm tra khách quan nhằm vào các mục tiêu tài
chính và hoạt động của một tổ chức, một chương trình, một hoạt động, một chức
năng và hướng vào xác định các cơ hội nhằm thu được tính kinh tế, tính hiệu quả
và tính hiệu lực cao hơn”.
Tại Khoản 3, Điều 4, Tiêu chí kiểm toán, Quy chế Kiểm toán Cộng hoà Liên

bang Đức đã viết: “Kiểm toán tính hiệu quả là kiểm tra xem giữa chi phí và mục
đích theo đuổi có hướng tới và có đạt được mối tương quan hợp lý nhất hay không.
Nó bao gồm tính hiệu lực và hợp mục đích của hoạt động quản lý, kể cả mục đích
đạt được (kiểm tra kết quả) và việc kiểm tra xem chi phí sử dụng có giới hạn trong
phạm vi cần thiết để thực thi nhiệm vụ không (nguyên tắc tiết kiệm)”.
Khái niệm kiểm toán hoạt động không chỉ có trong lĩnh vực công mà còn áp
dụng cho hoạt động của tổ chức, cơ quan.

4


Theo Alvin A.Arens và Loebbecke trong cuốn Kiểm toán (Tài liệu dịch,
NXB Thống kê 1995) thì: “Kiểm toán hoạt động là sự xem xét lại tất cả các thủ tục
và phương pháp kiểm toán của một tổ chức nhằm mục đích đánh giá tính hiệu quả
và hiệu lực. Tại giai đoạn hoàn thành một cuộc kiểm toán hoạt động, kiểm toán
viên thường có những kiến nghị để cải tiến hoạt động của tổ chức”.
Như vậy, tuy có cách hiểu và định nghĩa cụ thể khác nhau, nhưng các quan
điểm trên đều thống nhất những vấn đề cơ bản là:
+ Kiểm toán hoạt động là việc kiểm tra để đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực
và tính hiệu quả trong hoạt động của một tổ chức, một đơn vị;
+ Nội hàm của kiểm toán hoạt động dù nhằm vào các mục tiêu tài chính hay
các hoạt động khác của một tổ chức, đơn vị nhưng đều và chỉ liên quan đến các tiêu
chí tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả. Vì vậy, loại hình kiểm toán này được
gọi là kiểm toán hoạt động (Operational Audit hoặc Perfomance Audit).
+ Mục tiêu của kiểm toán hoạt động không chỉ là việc đánh giá mà quan trọng
hơn, thông qua việc kiểm tra, đánh giá để đưa ra, đề xuất các giải pháp để cải tiến
hoạt động nhằm làm cho hoạt động có tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả cao hơn.
Vì vậy, kiểm toán hoạt động có chức năng tư vấn rất rõ.
Qua phân tích và nghiên cứu như trên, có thể rút ra khái niệm về kiểm toán
hoạt động như sau:

Kiểm toán hoạt động là việc kiểm toán để xem xét, đánh giá tính kinh tế, tính
hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một tổ chức, một đơn vị nhằm đề xuất
cải tiến các hoạt động của tổ chức, đơn vị đó.
Trong đó:
+ Tính hiệu quả: Hiệu quả là mối tương quan hợp lý giữa mục đích cần đạt
được của một hoạt động và lượng chi phí cho mục đích đó. Như vậy, cần phân biệt
giữa nguyên tắc tối đa (phấn đấu đạt kết quả cao nhất với một lượng chi phí nhất
định) và nguyên tắc tối thiểu (còn gọi là nguyên tắc tiết kiệm - đạt một kết quả nhất
định với lượng chi phí tối thiểu).

5


Giữa tính “tuân thủ” và tính “hiệu quả” có quan hệ mật thiết với nhau. Thông
thường, nếu các đơn vị, các tổ chức tuân thủ nghiêm các quy trình, quy tắc, tiêu
chuẩn, luật lệ ... thì sẽ đảm bảo cho các hoạt động có hiệu quả. Ngược lại, nếu các
yêu cầu mang tính pháp lý bị vi phạm thì các hoạt động sẽ dẫn đến không hiệu quả.
Đồng thời, kể cả những vi phạm tính hiệu quả cũng đồng thời là vi phạm tính tuân
thủ, vì bản thân Luật ngân sách nhà nước yêu cầu hoạt động quản lý phải hiệu quả.
Tuy tiêu chí tuân thủ đã có từ lâu và có trước nhưng triết lý kiểm toán hiện đại
thường đưa tiêu chí tính hiệu quả lên vị trí số 1. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn
giữa hai tiêu chí thì có thể phải đặt tiêu chí hiệu quả lên hàng đầu. Trên thực tế,
Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành đồng thời, hoặc kết hợp kiểm toán hoạt động
và kiểm toán tuân thủ trong cùng một cuộc kiểm toán, tuy báo cáo kiểm toán có thể
được lập cho từng mục đích khác nhau.
+ Tính hiệu lực: “Hiệu lực” là kết quả thực hiện các mục tiêu, các nhiệm vụ
cụ thể trong hoạt động của một tổ chức, một đơn vị. Vì vậy, kiểm toán tính hiệu lực
còn được gọi là kiểm toán kết quả. Đánh giá tính hiệu lực là việc xem xét kết quả
đạt được mục tiêu, nhiệm vụ trong tương quan so sánh với mục tiêu dự kiến. Kiểm
toán hoạt động được tiến hành ở các loại hình đơn vị, tổ chức khác nhau. Tuy nhiên,

kiểm toán tính hiệu lực thường được thực hiện ở các đơn vị, tổ chức thuộc lĩnh vực
công nên còn được gọi là kiểm toán tính hiệu năng, nhằm nâng cao năng lực quản lý
và hiệu lực hoạt động của các đơn vị được kiểm toán.
Nhiệm vụ của các kiểm toán viên (KTV) không chỉ là việc đánh giá tính hiệu
lực của các hoạt động mà thông thường còn bao gồm cả việc đánh giá tính hiệu lực
hệ thống kiểm soát nội bộ của các cơ quan, đơn vị có đầy đủ không, có đúng trình
tự không và phương thức tiến hành có chính xác không. Như vậy, bản thân kiểm
toán hoạt động cũng có thực hiện đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, tổ
chức được kiểm toán.
+ Tính kinh tế: “Kinh tế” còn gọi là “Sự tiết kiệm”. Vì vậy, tính kinh tế được
hiểu là việc tiết kiệm và giảm tối đa các nguồn lực được sử dụng cho một hoạt động

6


nhất định. Đây cũng là khía cạnh của tính hiệu quả nhưng có ý nghĩa riêng biệt khi
xem xét, đánh giá các hoạt động, đặc biệt là trong lĩnh vực công vụ.

1.1.2. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi của kiểm toán hoạt động
* Mục tiêu của kiểm toán hoạt động rất rộng, gồm:
- Kiểm tra tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả của các hoạt động;
- Kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong quản lý, sử dụng các
nguồn lực của đơn vị;
- Kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ pháp luật và các quy định trong quá trình
quản lý và sử dụng các nguồn lực của đơn vị;
- Kiểm tra hiệu năng của bộ máy quản lý, bộ máy điều hành các hoạt động
của đơn vị;
- Đề xuất các ý kiến giúp đơn vị được kiểm toán cải tiến, nâng cao hiệu quả
các hoạt động;
- Cung cấp thông tin cho các đối tượng liên quan (cơ quan cấp trên, cơ quan

quản lý chức năng của Nhà nước...) về tình hình và kết quả thực hiện các chương
trình mục tiêu đã được phê duyệt của đơn vị để các đối tượng này thấy được tính
kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả thực tế của các quyết định (đặc biệt là các
quyết định và chủ trương đầu tư), các hoạt động nhằm rút kinh nghiệm cho kỳ tới
hoặc ra quyết định điều chỉnh;
- Cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng, các cơ quan bảo vệ pháp
luật; thông tin và các khuyến nghị xác thực để ra quyết định phù hợp, trong đó có
việc nghiên cứu, hoàn thiện, sửa đổi chính sách hoặc điều tra, xử lý các vi phạm về
tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của đơn vị, tổ chức được
kiểm toán.
* Đối tượng của kiểm toán hoạt động
Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất phong phú, đa dạng nên khó có thể
đưa ra khuôn mẫu chung cho loại hình kiểm toán này. Qua bản chất, chức năng và

7


mục tiêu của kiểm toán hoạt động có thể thấy kiểm toán hoạt động hướng vào các
đối tượng chủ yếu sau:
- Các chương trình, dự án, các hoạt động của đơn vị (mà những mục tiêu này
phải hết sức rõ ràng để có thể xác định được kết quả đầu ra mong muốn).
- Các chi tiêu (tiêu hao) nguồn lực (tài chính, nhân lực, vật lực) cần có và đã
thực hiện cho các mục tiêu định trước.
- Các quá trình hoặc bản thân các hoạt động mà chủ thể quản lý đã tiến hành
để thực thi dự án, tức là sự chuyển hoá “đầu vào” thành “đầu ra”.
- Các hàng hoá, dịch vụ, lao vụ hoặc sản phẩm quản lý và các kết quả khác
đã được tạo ra là minh chứng cho hiệu lực và hiệu quả của các chương trình, dự án
hoặc các hoạt động.
- Các hiệu quả mang tính hiệu ứng (tích cực hoặc tiêu cực) của các dự án,
các hoạt động có mục tiêu đưa lại, thể hiện trong đời sống kinh tế, xã hội hoặc tại

các đơn vị thực hiện, chủ trì dự án, hoạt động đó.
Vậy có thể khái quát về đối tượng của kiểm toán hoạt động là: Những
chương trình, dự án, những hoạt động cụ thể được các cấp có thẩm quyền phê
duyệt, có mục tiêu, có nội dung, yêu cầu cụ thể, có dự toán chi phí về nguồn lực
cùng quá trình thực hiện và kết quả của chúng thông qua tính kinh tế, tính hiệu lực
và tính hiệu quả cũng như tính hiệu năng của bộ máy quản lý chương trình, dự án,
hoạt động đó.
* Phạm vi của kiểm toán hoạt động
Do đối tượng kiểm toán rất đa dạng nên phạm vi kiểm toán rất rộng và mức
độ có thể khác nhau tuỳ từng cuộc kiểm toán cụ thể. Tuy nhiên, có thể xác định
phạm vi kiểm toán hoạt động là từng nội dung hoặc bất cứ sự kết hợp nào các nội
dung cơ bản sau:
- Cơ cấu tổ chức và hoạt động của đơn vị được kiểm toán;
- Các chương trình, dự án, các chương trình phụ hoặc các thành phần chương
trình, dự án của đơn vị được kiểm toán;

8


- Các hệ thống quản lý của đơn vị được kiểm toán và hoạt động của chúng có
liên quan đến chương trình, dự án;
- Các dịch vụ hoặc các dây chuyền sản xuất của đơn vị được kiểm toán và
hoạt động thực tiễn của chúng;
- Toàn bộ các chi phí trực tiếp, gián tiếp cho sự vận hành của các chương
trình, dự án;
- Khối lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ cung cấp là kết quả của các
chương trình, dự án, hoạt động của đơn vị mang lại;
- Các khía cạnh cụ thể khác của chương trình, dự án, hoạt động của đơn vị
tác động đến đời sống kinh tế, xã hội.


1.1.3. Nội dung của kiểm toán hoạt động
Tuỳ thuộc vào mục đích kiểm toán mà nội dung cụ thể của mỗi cuộc kiểm
toán hoạt động có thể khác nhau nhưng trên góc độ chung nhất, nội dung của cuộc
kiểm toán bao gồm:
a) Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện mục tiêu hoạt động của tổ chức, đơn vị;
b) Kiểm tra, đánh giá việc đảm bảo, quản lý và sử dụng các nguồn lực của
đơn vị;
c) Kiểm tra, đánh giá hệ thống kiểm soát, quản lý của đơn vị, của tổ chức;
d) Kiểm tra, đánh giá các chương trình, dự án và các hoạt động của toàn đơn
vị cũng như từng bộ phận cấu thành;
đ) Đánh giá ảnh hưởng, tác động của môi trường bên ngoài.

1.1.4. Tiêu chí đánh giá trong kiểm toán hoạt động
* Vai trò của tiêu chí đánh giá trong kiểm toán hoạt động
Tiêu chí kiểm toán hoạt động là một trong những vấn đề trọng tâm của một
cuộc kiểm toán, nếu không có tiêu chí kiểm toán sẽ không có cơ sở để đối chiếu, so
sánh và do đó sẽ không có căn cứ đưa ra các phát hiện kiểm toán cũng như các kết
luận và kiến nghị kiểm toán. Không những thế, tiêu chí kiểm toán hoạt động còn có
vai trò quan trong trọng toàn bộ cuộc kiểm toán, thể hiện qua các mặt sau:

9


Tạo nên sự thống nhất giữa các thành viên trong Đoàn kiểm toán trên cơ sở
cùng hướng tới mục tiêu chung với các tiêu thức đánh giá chung.
Là cầu nối giữa mục tiêu kiểm toán với phương pháp kỹ thuật kiểm toán từ
đó hình thành nên chương trình kiểm toán.

* Theo tài liệu hướng dẫn của INTOSAI: “Tiêu chí kiểm toán là những tiêu
chuẩn thực hiện mang tính hợp lý và có thể đạt được xét về tính kinh tế, hiệu lực,

hiệu quả. Chúng phản ánh mô hình kiểm soát chuẩn tắc (mong đợi) về vấn đề đang
được đánh giá. Chúng đại diện cho thông lệ hay nói cách khác là kỳ vọng hơp lý và
những thông tin về những gì cần phải như nó vốn có”.
Như vậy, có thể hiểu tiêu chí đánh giá KTHĐ gồm những tiêu thức và chuẩn
mực trong quản lý, sử dụng các nguồn lực kinh tế cho hoạt động của đơn vị mà
KTV lựa chọn hoặc làm cơ sở để đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả trong
hoạt động thuộc đối tượng kiểm toán. Tiêu chí đánh giá KTHĐ phải được xây dựng,
lựa chọn phù hợp với từng lĩnh vực, từng ngành và từng đơn vị được kiểm toán.
* Tiêu chí KTHĐ cần đảm bảo các yêu cầu về: tính khách quan; tính hoàn
chỉnh, tính hữu ích và tin cậy; cụ thể và định lượng; có thể so sánh; được thừa nhận,
phù hợp và tính dễ hiểu.
* Để xây dựng tiêu chí KTHĐ cần căn cứ vào:
- Hoạt động ở các kỳ trước của đơn vị được kiểm toán: Với nguồn thông tin
này, tiêu chí được lựa chọn cho phép đánh giá xu hướng về chất lượng hoạt động
của đơn vị (tốt hơn hoặc kém hơn); mặt khác, tiêu chí này dễ tính toán, dễ lựa chọn
và dễ được đơn vị chấp nhận.
- Các hoạt động tương tự: Do hầu hết các đơn vị được kiểm toán không phải
là duy nhất; trong trường hợp này, số liệu thực hiện của các đơn vị là có thể so sánh
được, đây là nguồn thông tin quan trọng để xác định, lựa chọn tiêu chí. Tuy nhiên,
việc lựa chọn đơn vị so sánh cần chú ý đến sự tương đồng về quy mô, công nghệ,
tính chất, đặc điểm hoạt động và đặc biệt là chất lượng hoạt động của đơn vị (phải
tiên tiến).

10


- Các định mức kinh tế kỹ thuật: Đây là thông tin có tính pháp lý và khách
quan, là cơ sở tốt cho việc xây dựng các tiêu chí KTHĐ, tuy nhiên, cần lưu ý vì có
thể gặp phải trường hợp định mức kinh tế – kỹ thuật lạc hậu và không thật phù hợp
với đặc điểm cụ thể của đơn vị.

- Kế hoạch trong kỳ của đơn vị: Đây là thông tin có tính thực tiễn cao, là cơ
sở xác định các tiêu chí mà đơn vị dễ chấp nhận. Tuy nhiên, kế hoạch của đơn vị
mang tính chủ quan, đồng thời thường cũng chỉ cung cấp những thông tin làm cơ sở
xây dựng tiêu chí tổng quát, KTV cần lấy cơ sở đó để tính toán những tiêu chí cụ
thể.
- Trao đổi thảo luận: Trong nhiều trường hợp, những nguồn thông tin trên
chưa đảm bảo cho việc lựa chọn tiêu chí phù hợp với đơn vị được kiểm toán, khi đó
KTV cần phải trao đổi thảo luận với đơn vị hoặc các chuyên gia để xây dựng các
tiêu chí đánh giá thích hợp.
* Các loại tiêu chí của KTHĐ:
Do mục tiêu của KTHĐ là đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực
nên tiêu chí KTHĐ cũng được xây dựng và định hướng theo 3 nhóm tương ứng sau:
- Tiêu chí đánh giá tính kinh tế gồm:
+ Tiêu chí về sử dụng các nguồn lực cho hoạt động của đơn vị như: lao động,
TSCĐ, nguyên vật liệu, tiền tệ, thông tin…
+ Tiêu chí tổng hợp (dưới hình thức tiền tệ) cho từng hoạt động
- Tiêu chí đánh giá tính hiệu quả gồm:
+ Tiêu chuẩn hiệu quả theo từng yếu tố đầu vào cho từng loại sản phẩm đầu
ra: Chi phí yếu tố đầu vào/1đơn vị – loại sản phẩm đầu ra.
+ Tiêu chuẩn hiệu quả tổng hợp (dưới hình thức tiền tệ) cho từng loại sản
phẩm đầu ra: Tổng chi phí các yếu tố đầu vào/1 đơn vị – loại sản phẩm đầu ra.
-

Tiêu chí đánh giá tính hiệu lực gồm:

+ Các nguồn lực hiện tại có đảm bảo đạt được mục tiêu đặt ra hay không?

11



+ các kết quả đạt được có phù hợp với các mực tiêu chính sách hay không?
(Bao gồm cả kết quả trong hiện tại và các tác động trong tương lai)
Vì kết quả hoạt động của đơn vị thường được thể hiện dưới nhiều loại sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ; do vậy, việc xác định tiêu chí cho từng loại sản phẩm phụ
thuộc trực tiếp vào đặc điểm hoạt động của đơn vị.

1.1.5. Quy trình kiểm toán hoạt động
Về tổng quan, quy trình thực hiện kiểm toán hoạt động đối với chủ thể kiểm
toán là Kiểm toán Nhà nước được chia ra làm 4 giai đoạn: Chuẩn bị kiểm toán;
Thực hiện kiểm toán; Lập báo cáo kiểm toán; Kiểm tra (hoặc theo dõi) đơn vị thực
hiện kiến nghị sau kiểm toán;

1.1.5.1 Chuẩn bị kiểm toán
Giai đoạn này gồm các công việc sau:
Khảo sát kiểm toán: Do mục tiêu chung của cuộc KTHĐ thường mang tính
định hướng cao; gắn liền với hoạt động quản lý nên liên quan đến quy trình quản lý
của nhiều bộ phận, nhiều khâu hoạt động của tổ chức; việc khảo sát cần được tiến
hành với phạm vi rộng hơn mới tạo được cơ sở cho việc xác định các mục tiêu cụ
thể của cuộc kiểm toán.
Xác định những mục tiêu và đối tượng cụ thể của kiểm toán: Trong một cuộc
KTHĐ, một mục tiêu chung thường liên quan đến rất nhiều vấn đề quản lý của tổ
chức, do vậy nó có tính đa dạng. Việc lựa chọn mục tiêu và đối tượng cụ thể của
cuộc KTHĐ thường toàn diện và liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình
quản lý.
Bố trí KTV: Đối với cuộc KTHĐ phụ thuộc rất nhiều vào tính chất, hoạt
động của tổ chức, mục tiêu của cuộc kiểm toán; do vậy, việc bố trí KTV cho cuộc
KTHĐ phải được xem xét với một cơ cấu chuyên môn đa dạng hơn cuộc kiểm toán
BCTC.
Xác định tiêu chuẩn đánh giá trong cuộc KTHĐ: Đây là một trong những đặc
thù của KTHĐ khác với kiểm toán BCTC. Trong cuộc kiểm toán BCTC các tiêu


12


chuẩn đánh giá đã được quy định rõ ràng trong chuẩn mực kế toán, chế độ tài chính
còn các tiêu chuẩn đánh giá KTHĐ không thống nhất giữa các ngành, các tổ chức
và ngay trong từng loại hình tổ chức. Việc lựa chọn và thoả thuận với đơn vị được
kiểm toán về tiêu chuẩn của mục tiêu, tiêu chuẩn đánh giá tính hiệu quả là một quy
trình quan trọng và phức tạp.

1.1.5.2. Thực hiện kiểm toán
Giai đoạn này gồm các công việc sau:
* Nghiên cứu đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ
Cũng như giai đoạn thực hiện kiểm toán ở các loại hình kiểm toán khác,
trước hết, KTV phải đánh giá hệ thống KSNB làm cơ sở cho các cuộc khảo sát chi
tiết để đi đến những đánh giá kiểm toán.
Hơn nữa, khảo sát hệ thống KSNB còn là một trong những mục tiêu của
KTHĐ. KTV khi thực hiện KTHĐ phải xem xét đánh giá hiệu quả, hiệu lực của mọi
quy trình kiểm soát và xử lý các phát hiện;
* Tiến hành các thủ tục kiểm toán: KTHĐ dù với những đối tượng kiểm toán
là một chức năng, một nhiệm vụ, một chương trình của một tổ chức hay kiểm toán
toàn diện hoạt động của một tổ chức thì hoạt động kiểm toán cũng có đặc thù là
thực hiện các thủ tục để đánh giá cả một quá trình, bao gồm:
- Kiểm tra, đánh giá quy trình thực hiện mục tiêu của hoạt động gồm: Mua
các yếu tố đầu vào; quy trình quản lý và sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ; số lượng và
chất lượng các yếu tố đầu ra; mức độ tác động của kết quả đầu ra vào thực tiễn (mục
tiêu);
- Kiểm tra, đánh giá quá trình quản lý gồm: lập kế hoạch; tổ chức; điều hành;
kiểm tra, kiểm soát.
* Kiểm tra, đánh giá việc sử dụng các nguồn lực của đơn vị gồm: nguồn lực

tài chính và nguồn lực phi tài chính chủ yếu dựa trên phương pháp phân tích.

13


1.1.5.3. Lập báo cáo kiểm toán
Báo cáo KTHĐ lấy việc trình bày logic tự đánh giá thực trạng, xác định
nguyên nhân đến kiến nghị làm trọng tâm; cấu trúc nội dung của báo cáo KTHĐ
thường đa dạng. Báo cáo KTHĐ cần truyền đạt được kết quả cuả mỗi cuộc kiểm
toán; bao gồm việc chỉ ra căn cứ kiểm toán, nội dung kiểm toán, mục tiêu, phạm vi,
phương pháp thực hiện kiểm toán, giới hạn kiểm toán và các kết quả kiểm toán như:
những phát hiện, kết luận và kiến nghị thích hợp của KTV; những dẫn chứng về
việc đã tham chiếu và tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như tuân thủ những
chuẩn mực kiểm toán.

1.1.5.4. Kiểm tra đơn vị thực hiện kiến nghị kiểm toán
Việc kiểm tra đơn vị thực hiện kiến nghị kiểm toán trong cuộc KTHĐ được
thể hiện chủ yếu dưới hình thức theo dõi, đôn đốc đơn vị; đặc biệt là đánh giá
những biện pháp để thực hiện kiến nghị và sự tác động, hiệu quả của nó đối với
quản lý.
Về hình thức, việc tổ chức kiểm tra đơn vị chủ yếu dưới hình thức trao đổi,
thảo luận về các biện pháp thực hiện kiến nghị.

1.1.6. Các phương pháp kiểm toán hoạt động
Do KTHĐ là loại hình kiểm toán ra đời sau nên việc áp dụng các phương
pháp kiểm toán cũng rất đa dạng, thuộc nhiều chuyên môn nghiệp vụ và lĩnh vực
khác nhau như: Nhóm các phương pháp kiểm toán chứng từ (thực chất đây là
phương pháp nghiệp vụ kiểm tra kế toán áp dụng trong kiểm toán); kiểm toán ngoài
chứng từ; kiểm toán theo số liệu; nhóm các phương pháp kiểm toán tuân thủ; thu
thập dữ liệu kiểm toán hay phân tích dữ liệu kiểm toán.

Tuy nhiên có hai nhóm phương pháp kiểm toán được áp dụng chủ yếu trong
KTHĐ là nhóm phương pháp thu thập dữ liệu và hoạt động phân tích dữ liệu kiểm
toán; với các phương pháp kiểm toán chính như sau:

14


1.1.6.1. Phương pháp (kỹ thuật) kiểm tra:
Kỹ thuật kiểm tra được sử dụng trong KTHĐ nhằm mục đích xem xét tính
hiệu quả của các quy chế, quy trình kiểm soát quản lý hoặc ảnh hưởng của chúng
đến tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị và được
KTV thực hiện đối với các kế hoạch, dự toán, các luận chứng kinh tế - kỹ thuật; các
chỉ số thống kê, các báo cáo kết quả hoạt động và các tài liệu khác có liên quan. Kết
quả thu được của phương pháp này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự hiểu biết của KTV
về lĩnh vực và hoạt động được kiểm toán.

1.6.1.2. Quan sát thực tế:
Kỹ thuật quan sát là việc KTV trực tiếp chứng kiến các công việc, các quá
trình, các tài sản... trong hoạt động cũng như kết quả hoạt động của đơn vị. Khi thực
hiện, KTV phải chuẩn bị chu đáo các giấy tờ làm việc trong đó phải liệt kê cụ thể
các yêu cầu, trình tự thao tác và công việc cụ thể mà người của đơn vị cần phải tiến
hành khi thực hiện nhiệm vụ, đồng thời không được suy diễn kết quả quan sát để
bảo đảm tính khách quan.

1.1.6.3. Phỏng vấn:
Là việc KTV trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn các tổ chức, cá nhân có liên
quan trong và ngoài đơn vị được kiểm toán. Bằng chứng thu được thông qua phương
pháp phỏng vấn giá trị cao, không đủ căn cứ và sức thuyết phục, tuy nhiên lại cần thiết
cho việc đưa ra định hướng và bổ sung cho các bằng chứng khác của KTV.


1.1.6.4. Tham khảo ý kiến chuyên gia và tư vấn:
Đây là hoạt động nhằm thu thập những thông tin, quan điểm của những cá
nhân có trình độ chuyên môn cao liên quan đến lĩnh vực của cuộc kiểm toán.
Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến và hết sức quan trọng trong KTHĐ
song cũng đòi hỏi KTV phải cũng có những am hiểu nhất định về lĩnh vực cần sử
dụng chuyên gia hoặc tư vấn.

15


1.1.6.5. Phân tích:
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong kiểm toán nói chung và có
vai trò rất quan trọng trong KTHĐ. Các kỹ thuật phân tích được sử dụng trong kiểm
toán hoạt động thường bao gồm:
+ Phân tích so sánh theo chiều ngang.
+ Phân tích so sánh theo chiều dọc.
+ Phân tích chuỗi thời gian.

1.1.6.6. Chi phí - Lợi ích:
Là phương pháp của toán kinh tế dựa trên việc xác định mô hình nghiên cứu
về mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí, trong đó cả chi phí và lợi ích đều được xác
định bằng tiền.

1.1.6.7. Tái lập các mô hình
Là kỹ thuật tái lập các mô hình về tổ chức bộ máy quản lý sản xuất kinh
doanh, các hệ thống kiểm soát, các quy trình,… để giúp KTV có được hiểu biết một
cách đầy đủ toàn diện và có hệ thống về tổ chức bộ máy quản lý, sản xuất, phương
thức hoạt động, quy chế kiểm toán của đơn vị. Qua đó, KTV đánh giá được hiệu
quả của các hoạt động này và xác định được mức độ ảnh hưởng của các hoạt động
đến việc huy động khai thác, phân phối và sử dụng các nguồn lực trong đơn vị.

Cũng từ đó kiểm toán viên xác định được sự ảnh hưởng làm cơ sở và và nền tảng
cho những kết luận và kiến nghị của kiểm toán viên về hoạt động được kiểm toán.

1.2. Tổng quan về dự án đầu tư xây dựng cơ bản - đầu tư xây dựng
nhà máy thuỷ điện
1.2.1. Khái niệm về dự án đầu tư xây dựng cơ bản
Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để
tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự
tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm
hoặc dịch vụ trong một khoảng thời gian xác định.

16


Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con
người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với
đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và
phần trên mặt nước và được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm
công trình xây dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi,
năng lượng và các công trình khác.
Công trình xây dựng có thể bao gồm một hạng mục hoặc nhiều hạng mục
công trình nằm trong dây chuyền công nghệ đồng bộ, hoàn chỉnh để sản xuất ra sản
phẩm nêu trong dự án.
Hoạt động đầu tư nói chung là quá trình bỏ vốn (tiền, nguồn lực, công
nghệ…) để đạt một mục tiêu hoặc một số mục tiêu nhất định.
Hoạt động đầu tư XDCB thực hiện bằng cách tiến hành nâng cấp, xây dựng
mới các TSCĐ được coi là đầu tư XDCB. XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động
đầu tư XCDB, là các hoạt động cụ thể để tạo TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, thi
công, xây lắp, lắp đặt thiết bị…). Kết quả của hoạt động XDCB là TSCĐ, có năng
lực sản xuất và nhiệm vụ nhất định. Như vậy, XDCB là quá trình đổi mới và tái sản

xuất mở rộng có kế hoạch các TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản
xuất, vận chuyển, cũng như không sản xuất vận chuyển. Nó là quá trình xây dựng
cơ sở vật chất phục vụ cho đầu tư phát triển của một quốc gia.

1.2.2. Phân loại dự án đầu tư xây dựng cơ bản
- Nếu theo tính chất của công trình và quy mô đầu tư, công trình dự án được
chia thành ba loại:
+ Công trình là sản phẩm của dự án nhóm A: Đây là nhóm các công trình, dự
án có vốn đầu tư rất lớn hoặc có tính chất quan trọng của quốc gia không kể mức
vốn đầu tư.
+ Công trình là sản phẩm của dự án nhóm B: Đây là nhóm các công trình, dự
án có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm A được quy định cụ thể thông qua mức vốn đầu tư.

17


+ Công trình là sản phẩm của dự án nhóm C: Là sản phẩm của những dự án
có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm B được quy định một cách cụ thể thông qua mức vốn
đầu tư.
- Nếu phân loại công trình theo nguồn vốn đầu tư, gồm:
+ Công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
+ Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh.
+ Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước.
+ Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của đơn vị.
- Nếu phân loại công trình theo đặc điểm kỹ thuật, chia ra:
+ Công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng.
+ Công trình cầu, đường, sân bay, hầm lò.
+ Công trình bến cảng, đê điều, kè, nhà máy thuỷ điện, các dàn khoan dầu
khí, công trình nạo vét luồng lạch...

+ Công trình cấp thoát nước, cải tạo môi trường, trồng cây gây rừng.
+ Công trình cơ khí, chế tạo máy, điều khiển tự động.
- Nếu phân loại công trình theo tính chất kinh tế, chia ra:
+ Công trình sản xuất, kinh doanh
+ Công trình phi sản xuất, kinh doanh.
- Nếu phân loại công trình theo yêu cầu phạm vi quản lý, chia ra:
+ Công trình do trung ương quản lý.
+ Công trình do địa phương quản lý.
Trên thế giới, việc phân chia công trình có phần tổng hợp và khái quát hơn.
Căn cứ vào quy mô, nguồn vốn, mức độ ảnh hưởng của công trình, dự án đến tình
hình kinh tế, kỹ thuật của công trình, người ta phân chia thành 4 loại công trình phổ
biến: Công trình nhà ở; công trình kiến trúc thượng tầng; công trình thuộc hạ tầng
cơ sở; công trình công nghiệp.

18


1.2.3. Trình tự thực hiện dự án đầu tư xây dựng Nhà máy Thủy điện
Trình tự Đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện đòi hỏi phải trải qua một quá
trình theo một trình tự chặt chẽ và nghiêm ngặt, trình tự đó được thực hiện theo
đúng quy chế quản lý đầu tư XDCB hiện hành của nước ta.Trình tự đó được thực
hiện qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầu tư
Giai đoạn này bao gồm các công việc chủ yếu sau: lập, thẩm định và phê
duyệt dự án đầu tư; với các nội dung cụ thể:
- Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư;
- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường để xác định nhu cầu tiêu thụ, tìm
nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho nhà sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn
đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư;
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng;

- Lập dự án đầu tư;
- Gửi hồ sơ dự án đầu tư và văn bản trình đến người có thẩm quyền quyết định
đầu tư, tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan thẩm định dự án đầu tư.
Giai đoạn 2: Thực hiện đầu tư
Giai đoạn thực hiện đầu tư để tạo ra công trình Nhà máy Thủy điện thường
gồm các công việc cụ thể như:
- Xin giao đất
- Xin giấy phép xây dựng ; Thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng, thực hiện
kế hoạch tái định cư và phục hồi ; chuẩn bị mặt bằng xây dựng ;
- Mua sắm thiết bị và công nghệ;
- Thực hiện việc khảo sát, thiết kế xây dựng;
- Thẩm định phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình;
- Tiến hành thi công xây lắp;
- Kiểm tra và thực hiện các hợp đồng;

19


- Quản lý kỹ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng;
- Vận hành thử, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện
bảo hành công trình.
Việc lựa chọn các nhà thầu để thực hiện các nội dung nói trên đối với công
trình Thuỷ điện phải tuân theo các quy định trong Quy chế quản lý đầu tư xây dựng
và quy chế đấu thầu hiện hành.
Giai đoạn 3: Kết thúc xây dựng, đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Các
nội dung công việc phải thực hiện ở giai đoạn này gồm:Nghiệm thu, bàn giao công
trình Thuỷ điện; Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình Thuỷ điện;Vận hành
công trình và hướng dẫn sử dụng công trình; Bảo hành công trình; Quyết toán vốn
đầu tư ; Phê duyệt quyết toán;


1.3. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện ảnh
hưởng đến kiểm toán hoạt động và quy trình, phương pháp kiểm toán
hoạt động dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện
1.3.1. Đặc điểm của dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện ảnh
hưởng đến kiểm toán hoạt động.
Dự án nhà máy thuỷ điện mang những đặc điểm điển hình của dự án
đầu tư xây dựng cơ bản.
Một là: Dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện là lĩnh vực đặc biệt phức
tạp, sản phẩm đầu tư XD là công trình, hạng mục công trình đơn chiếc có thiết kế
và dự toán riêng, phương pháp thi công riêng và đặc điểm thi công cũng riêng.
Dự án đầu tư có thiết kế kỹ thuật và bản vẽ thi công riêng. Các công trình
Thuỷ điện luôn gắn với một địa điểm và khu vực nhất định. Vì vậy, đơn giá áp dụng
các cho công trình cũng khác nhau, chính từ đó, các dự án công trình điện thuỷ luôn
có dự toán riêng.
Đặc điểm này đòi hỏi việc thẩm định tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của
dự án tuy có thể sử dụng các phương pháp tương tự nhau nhưng lại phải tính toán
cho từng công trình cá biệt. Quá trình kiểm toán luôn được tiến hành riêng biệt, độc

20


lập cho từng công trình, hạng mục công trình (HMCT) với những quy định đặc thù
riêng có về thiết kế, dự toán, địa điểm, đơn giá cũng như tác động khác về môi
trường, sinh thái v.v... Việc nghiên cứu, đánh giá các trường hợp điển hình chỉ có
thể áp dụng đối với những HMCT. Màcông việc kiểm toán luôn đi từ thiết kế, dự
toán đến hiện trường và sản phẩm cuối cùng của dự án. Do lĩnh vực đầu tư - dự án
rất phức tạp, loại hình công trình, dự án đa dạng nên trên thực tế cần xác lập chuẩn
mực và tiêu chuẩn cụ thể đánh giá một dự án có kinh tế hay không.
Hai là: Đầu tư xây dựng công trình nói chung và đầu tư xây dựng nhà máy
thuỷ điện nói riêng rất dễ thất thoát, lãng phí và tham nhũng.

Tham nhũng (theo tiếng Latinh có nghĩa là: làm huỷ hoại, làm hư đốn, tiêu
diệt, làm tàn lụi) là một khái niệm đặc trưng để miêu tả các hiện tượng từ việc ăn
hối lộ của công chức, cán bộ; lạm dụng quyền lực cho đến sự suy đồi về đạo đức,
lối sống. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, tham nhũng được hiểu là một hành động
vượt ra ngoài các quy định, gian lận và làm thiệt hại cho Nhà nước.
Vốn dùng vào đầu tư XD công trình là phải tuân thủ nghiêm ngặt về trình tự
đầu tư, xét duyệt, thẩm định, cấp phát, thanh toán... và có liên quan đến rất nhiều
bên, nhiều cơ quan quản lý. Đồng thời, quá trình này càng thêm phức tạp và khó
kiểm soát vì các vấn đề tiêu cực, tham nhũng xét đến cùng luôn đem lại lợi ích cho
những cá nhân, tổ chức tham gia quản lý dự án nhưng lại có hại cho Nhà nước, cho
người dân. Tiêu chí tính tuân thủ và tiêu chí tính hiệu quả có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, đặc biệt đối với kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực dự án đầu tư. Việc vi
phạm các quy định trong quy chế quản lý đầu tư XDCB, trong quy chế đấu thầu là
những nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu vi phạm tính hiệu quả của các dự án đầu tư
và xem xét việc tuân thủ các quy định này cũng là một trong các nội dung trọng
điểm của kiểm toán hoạt động đầu tư dự án. Trong quá trình kiểm toán, KTV không
chỉ đơn thuần kiểm tra, xem xét các báo cáo, tài liệu của các bên có liên quan mà
còn phải thẩm định độ tin cậy và tính tuân thủ của các tài liệu này. Đồng thời, các
vấn đề còn phải được chứng minh bằng thực tế trên công trường và chất lượng của
nhà máy được xây dựng. Để làm được điều này, các KTV không chỉ đòi hỏi phải có

21


trình độ chuyên môn cao về tài chính, kế toán mà còn phải có kiến thức, kinh
nghiệm về XDCB, am hiểu sâu sắc lĩnh vực đầu tư, dự án và nắm chắc các quy định
có liên quan đến các bên tham gia quản lý và thực hiện đầu tư cũng như phải hiểu
rõ, nhận dạng đúng các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng phổ biến thường xảy ra
trong lĩnh vực đặc biệt phức tạp này.
Ba là: Đặc thù của quá trình đầu tư nhà máy và quản lý đầu tư XD nhà máy

chi phối đến nội dung, phạm vi và trình tự kiểm toán hoạt động.
Từ những đặc điểm về quá trình đầu tư XD và quản lý đầu tư XD có thể thấy
những tác động đến kiểm toán hoạt động dự án đầu tư xây dựng nàh máy là:
- Về nội dung kiểm toán: Việc kiểm tra, xem xét, đánh giá tính kinh tế, hiệu
lực và hiệu quả của dự án đầu tư nhà máy có nội dung rất rộng, liên quan đến việc
quản lý kỹ thuật, chất lượng công trình, khối lượng và giá cả của công trình, HMCT
hoàn thành.
- Về phạm vi kiểm toán: Việc xác định phạm vi thu thập, đánh giá các bằng
chứng kiểm toán không chỉ liên quan trực tiếp đến chủ đầu tư mà còn có liên quan
đến các đơn vị tư vấn thiết kế, giám sát; các cơ quan quản lý, các nhà thầu xây
dựng...
- Về trình tự kiểm toán: Đặc thù về quản lý đầu tư và quy trình đầu tư có tác
động đến các giai đoạn của quá trình kiểm toán.
Trong khâu lập kế hoạch kiểm toán, các KTV phải có sự am hiểu về từng
kiểu quản lý và đặc trưng của từng kiểu quản lý đối với dự án cụ thể nhằm nghiên
cứu và đánh giá các vấn đề rủi ro và trọng yếu trong từng cuộc kiểm toán. Đồng
thời, KTV cũng phải biết trình tự tiến hành và các thủ tục cần thiết cho từng giai
đoạn đầu tư, từng công việc ở mỗi kiểu quản lý, làm cơ sở để dự kiến về nhân sự,
chi phí và thời gian kiểm toán cần thiết, yêu cầu phải lựa chọn các KTV có đủ trình
độ và kinh nghiệm, am hiểu từng kiểu quản lý đầu tư đối với từng dự án.
Trong khâu thực hành kiểm toán: KTV phải nắm vững các quy định có liên
quan đến từng kiểu quản lý đầu tư, việc phê duyệt, trình tự thực hiện và những tồn
tại, yếu kém thường xảy ra đối với mỗi kiểu quản lý để áp dụng phù hợp các

22


phương pháp và kỹ thuật kiểm toán nhằm thu thập và đánh giá các bằng chứng thích
hợp cho mỗi mục tiêu kiểm toán cá biệt cũng như mục đích chung của cuộc kiểm
toán hoạt động.

Các kết luận, kiến nghị kiểm toán cũng phải phù hợp với quy trình đầu tư và
kiểu quản lý đầu tư, đặc biệt là việc đánh giá sự phù hợp của việc lựa chọn kiểu
quản lý đầu tư của chủ đầu tư, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của từng dự án cụ
thể cũng như các kiến nghị cải tiến hệ thống kiểm soát nội bộ đối với chủ đầu tư,
ban quản lý dự án...

1.3.2. Quy trình kiểm toán hoạt động trong kiểm toán dự án đầu tư
xây dựng nhà máy thuỷ điện
Quy trình kiểm toán dự án đầu tư xây dụng nhà máy thuỷ điện cũng được
xây dựng dựa trên quy trình kiểm toán dự án đầu tư xây dựng cơ bản, và gồm 4
bước: Chuẩn bị kiểm toán; Thực hiện kiểm toán; Lập báo cáo kiểm toán, công bố,
lưu trữ hồ sơ kiểm toán; Tổ chức theo dõi, tiến hành kiểm tra đơn vị được kiểm toán
thực hiện các kết luận kiểm toán.
Giai đoạn 1. Chuẩn bị kiểm toán
Chuẩn bị kiểm toán là công việc đầu tiên của một quy trình kiểm toán nhằm
tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cơ bản khác có thể tiến hành
một cuộc kiểm toán. Tại giai đoạn này, kiểm toán hoạt động dự án đầu tư xây dựng
cơ bản tiến hành các bước công việc sau:
* Chuẩn bị đầy đủ cơ sở pháp lý để tiến hành kiểm toán
Cơ sở pháp lý để tiến hành Kiểm toán nhà máy thuỷ điện bao gồm: Kế hoạch
kiểm toán được Quốc hội phê duyệt, Quyết định kiểm toán của Tổng KTNN. Đây là
những văn bản pháp lý cơ sỏ cho việc tiến hành kiểm toán nhằm xác định đối
tượng, mục tiêu và nội dung cơ bản của cuộc kiểm toán. Nó cho phép cuộc kiểm
toán được tién hành theo đúng luật định và phạm vi cần thiết. Ngoài ra, là những
văn bản quy chế làm việc của đoàn kiểm toán và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ
của KTNN.

23



* Khảo sát, thu thập thông tin cơ bản về dự án đầu tư được kiểm toán: KTV
cần có sự am hiểu về dự án và đơn vị được kiểm toán cũng như thông tin cơ bản về
hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán, từ đó, đưa ra được những
đánh giá, nhận xét về những thông tin chung về dự án để xác định mục tiêu kiểm
toán và phương pháp kiểm toán thích hợp để đạt được mục tiêu đó.
Các thông tin giúp cho việc trên có thể gồm:
- Các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến dự án đầu tư;
- Báo cáo của các bộ, ngành chức năng và của Chính phủ về quản lý các dự
án đầu tư;
- Báo cáo, thẩm định, thanh tra, kiểm tra, điều tra, kiểm toán trước đó về dự
án;
- Kế hoạch chiến lược, kế hoạch chung, báo cáo công tác và báo cáo thường
niên;
- Hồ sơ chính sách, biên bản cuộc họp ban quản lý đầu tư dự án;
- Biên bản thẩm định dự án, kế hoạch và báo cáo kiểm toán nội bộ;
- Các buổi làm việc với ban lãnh đạo đơn vị được kiểm toán và những đối
tượng có liên quan chủ yếu;
- Hệ thống thông tin quản lý.
- Thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ;
- Kết quả các cuộc thẩm định trước đây
- Trao đổi với ban quản lý cấp cao của dự án nhằm tìm hiểu tổng thể dự án…
* Lập kế hoạch kiểm toán
Kế hoạch kiểm toán được lập phải gồm các công việc sau:
- Xác định mục tiêu của cuộc kiểm toán dự án
Mục tiêu kiểm toán liên quan đến lý do tiến hành cuộc kiểm toán đó cần
được xác định sớm trong quy trình kiểm toán nhằm hỗ trợ việc xác định những vấn
đề sẽ kiểm toán và báo cáo. Mục tiêu kiểm toán cần đề cập đến vấn đề trách nhiệm
giải trình và quản trị hiệu quả, cần tạo thuận lợi cho việc kiểm soát tài chính cũng

24



như nâng cao tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực quản lý dự án đó. Trong đó mục tiêu
đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của dự án đầu tư được coi là quan
trọng nhất, vì đây cũng chính là mục tiêu của cuộc kiểm toán hoạt động. Mục tiêu
kiểm toán có thể coi như là những câu hỏi về dự án đầu tư mà các kiểm toán viên
cần tìm câu trả lời, do vậy, mục tiêu kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên xác định
được đối tượng cần kiểm toán, các nội dung công việc của quá trình thực hiện kiểm
toán cũng như các yếu tố liên quan đến báo cáo và các phát hiện kiểm toán.
- Xác định phạm vi và nội dung kiểm toán
Kiểm toán hoạt động với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về tính kinh
tế, hiệu quả và hiệu lực của dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện sẽ có phạm vi
rộng . Do đó, việc xác định phạm vi và nội dung kiểm toán là rất cần thiết.
- Thiết lập tiêu chí cho kiểm toán hoạt động
Vì dự án đầu tư gồm nhiều giai đoạn đầu tư, cũng như nhiều các bước công
việc trong từng giai đoạn, nên để có thể xác định tiêu chí kiểm toán hoạt động dự án
đầu tư cần xác định tiêu chí cho từng giai đoạn của quá trình đầu tư hoặc tiêu chí
của từng bước công việc cụ thể tại từng giai đoạn thực hiện đầu tư dự án. Các tiêu
chí này phải đảm bảo đánh giá được tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của dự
án đầu tư nói chung cũng như từng nội dung công việc của quá trình đầu tư nói
riêng. Các tiêu chuẩn được chọn phải đảm bảo hợp lý và có thể áp dụng được, có
liên quan đến mục tiêu của cuộc kiểm toán. Từng chỉ số có thể chi tiết hoá dưới
dạng các câu hỏi. Câu hỏi phải mang tính thực tế và nhằm làm rõ hay đo đếm được
tình hình thực tế sẽ kiểm toán.
* Sắp xếp nhân sự và điều kiện vật chất cần thiết cho cuộc kiểm toán
Kiểm toán hoạt động dự án đầu tư xây dựng nhà máy thuỷ điện đòi hỏi các
kỹ năng chuyên môn và nhân sự phù hợp với lĩnh vực XD và thuỷ điện. KTV phải
có đủ trình độ và kinh nghiệm, am hiểu từng kiểu quản lý, từng bước công việc của
quá trình đầu tư xây dựng dự án thuỷ điện và ngay cả kỹ năng kiểm toán cũng như
kỹ năng kế toán cũng rất quan trọng. Với lĩnh vực dự án đầu tư xây dựng nhà máy

thuỷ điện, việc tham gia của các chuyên gia tư vấn có thể cũng cần cân nhắc đối với

25


×