Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nghiên cứu thực trạng áp dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” trong giáo dục nghề nghiệp tại một số trường đào tạo nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.62 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN SƯ PHẠM KỸ THUẬT

TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: NGHIÊN CỨU XÃ HỘI VÀ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Khang

Họ và tên học viên: Trần Thị Hương
Số hiệu học viên: CA -110222
Lớp : 11A-LL&PPDH- Nam Định

Tháng 2 - 2012


“Giáo dục không nhằm mục tiêu nhồi nhét kiến thức mà là thắp sáng niềm tin”
(Education is not the filling of a pail, but the lighting of a fire)
- W. B. Yeats -

Tên đề tài:
Nghiên cứu thực trạng áp dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung
tâm” trong giáo dục nghề nghiệp tại một số trường đào tạo nghề.

Trân trọng cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Nguyễn
Khang đã giảng dạy hướng dẫn để hoàn thành tiểu
luận. Kính mong nhận được ý kiến chỉ bảo của Thầy
để lĩnh hội nhiều kiến thức hơn nữa về xã hội và
khoa học giáo dục, nhất là trong lĩnh vực đào tạo
nghề.


MỞ ĐẦU


Nhìn từ góc độ sư phạm, việc giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm là tích cực
và đáp ứng được nhu cầu phát triển của một nền giáo dục hiện đại. Sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật đã góp phần làm thay đổi kiểu tư duy và tiếp thu kiến thức của
lớp trẻ hiện nay. Kiểu dạy nhồi nhét, học thuộc lòng mọi thứ và thụ động bắt
chước làm theo không còn phù hợp và cũng không được đại đa số học sinh hoan
nghênh nữa. Thay vào đó, người thầy phải dùng các phương pháp tiến bộ hơn,
kích thích tư duy và năng lực sáng tạo của học sinh. Trên cơ sở đó, nhận thấy mặt
tích cực của phưng pháp giảng dạy này, nhiều trường, nhiều thầy cô đã áp dụng
phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm, lấy đó là một tư tưởng, một
quan điểm dạy học chi phối mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
và đánh giá hiệu quả của quá trình dạy học. Tuy nhiên thực trạng việc áp dụng
phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” như thế nào để đạt được
hiệu quả giáo dục và đào tạo, nhất là trong quá trình đào tạo nghề lại là một vấn
đề cần quan tâm đến. Nhìn trên các giáo án của giáo viên dạy nghề, hầu như tiêu
chí “lấy học sinh làm trung tâm”đều có trong phần phương pháp trọng tâm của
quá trình giảng dạy.
Với các kiến thức hết sức bổ ích được trao giảng từ môn học “Nghiên cứu xã
hội và khoa học giáo dục” do PGS.TS Nguyễn Khang giảng dạy, xin được bày tỏ
quan điểm về phương pháp dạy học tích cực “lấy học sinh làm trung tâm”. Qua đó
nghiên cứu thực trạng việc áp dụng phương pháp giảng dạy này trong quá trình
đào tạo nghề - một xu hướng đào tạo thiết thực đối với Việt Nam trong giai đoạn
hội nhập Quốc tế. Từ đó đề ra các giải pháp để phổ biến, phát triển phương pháp
dạy học này trong các trường đào tạo nghề.
Quá trình viết tiểu luận không thể tránh khỏi có những mặt hạn chế và khiếm
khuyết, kính mong được sự quan tâm chỉ bảo của PGS.TS Nguyễn Khang cùng
các Thầy cô giáo Viện Sư phạm Kỹ thuật- trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và
bạn bè đồng nghiệp để nhận thức vấn đề được tốt hơn.
Nam Định, ngày 20 tháng 2 năm 2012
Học viên
Trần Thị Hương



NỘI DUNG TIỂU LUẬN
1. Quan điểm giảng dạy ‘lấy học sinh làm trung tâm’ trong giáo dục nghề
nghiệp giai đoạn đổi mới tại nước ta
1.1. Định hướng đào tạo nghề
1.2. Vai trò của giáo dục người lớn trong xã hội hoá nghề nghiệp
1.3. Các quan điểm tiếp cận dạy học ‘lấy học sinh làm trung tâm’
2. Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp
2.1. Thực trạng áp dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm”
trong giáo dục nghề nghiệp tại một số trường đào tạo nghề
2.2. Giải pháp và kiến nghị
Tài liệu tham khảo


1. Quan điểm giảng dạy ‘lấy học sinh làm trung tâm’ trong giáo dục nghề
nghiệp giai đoạn đổi mới tại nước ta
1.1. Định hướng đào tạo nghề trong giáo dục Việt Nam giai đoạn đổi mới
Trong thời đại hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhằm
đáp ứng nhu cầu của xã hội, hệ thống đào tạo nghề ở Việt Nam đang có nhiều đổi
mới. Việc phát triển nguồn nhân lực cao đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
là một chiến lược quốc gia trong toàn bộ chiến lược phát triển giáo dục và đào
tạo. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát
triển nguồn nhân lực mà trọng tâm là việc nâng cao chất lượng và hiệu quả nguồn
nhân lực.
Giáo dục Việt Nam trong giai đoạn đổi mới gắn với nền kinh tế tri thức đòi
hỏi phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao, thích ứng với nhiều loại hình
nghề nghiệp. Vì vậy giáo dục nghề nghiệp phải chú trọng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhân lực phải đa năng…Người lao động phải biết di chuyển kĩ
năng, di chuyển cảm xúc…khi chuyển đổi công việc. Đây là vấn đề khó khăn đặt

ra cho giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam.
“ Trong thời đại được đặc trưng bởi những thách thức lớn như thay đổi công
nghệ, toàn cầu hoá, bất ổn định về kinh tế và suy giảm các nguồn lực, vấn đề cấp
bách đặt ra là các bên liên quan cùng nhau xây dựng khuôn khổ pháp lý và các
chính sách, thiết lập các cấu trúc mang tính thể chế và tái thiết kế các chương
trình đào tạo nhằm đảm bảo Giáo dục nghề nghiệp (TVE – Technical &
Vocational Education) đáp ứng đầy đủ các nhu cầu khác nhau của mọi thành viên
trong xã hội trong việc hoà nhập hay tái hoà nhập vào thế giới việc làm.
Với tiêu chí trên, việc hình thành các kỹ năng lập nghiệp được coi là sự chuẩn
bị hết sức cần thiết cho tất cả những người lao động bất kể họ sẽ tự tạo việc làm
hay người làm công ăn lương. Đào tạo về lập nghiệp được coi là một công cụ hữu
ích để thúc đẩy động cơ, tính sáng tạo và sự đổi mới. Bên cạnh đó, các kỹ năng
lập nghiệp cũng được cho là sẽ giúp trang bị cho người học khả năng tạo ra các cơ
hội việc làm thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới”.
(Theo văn kiện Hội nghị thế giới về Giáo dục nghề nghiệp-UNESCO-1999).
Việt Nam đang bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng Xã
hội chủ nghĩa. Năm 2006, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO).
Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những thách
thức không nhỏ cho giáo dục nghề nghiệp ở Việt nam . Quá trình tăng cường hợp


tác khu vực ASEAN và các nước trên thế giới đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới không chỉ về kinh tế mà cả về giáo dục đặc biệt là về đào tạo nguồn nhân lực
theo các chuẩn mực đào tạo khu vực và quốc tế.
Các nghiên cứu gần đây về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực ở các nước
cho thấy Việt Nam chỉ đạt 3,79 /10 (so với Trung quốc là 5,73/10 và Thái lan là
4,04/10). Nước ta không chỉ thiếu lực lượng lao động kỹ thuật mà còn thiếu trầm
trọng cả đội ngũ cán bộ hành chính, cán bộ quản lý chất lượng cao. Nhân lực

được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp dù đã có những chuyển đổi để
thích nghi với nền kinh tế thị trường song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường lao động, chưa gắn với việc làm. So với các nước, sản phẩm đào tạo nguồn nhân lực - ở Việt Nam chất lượng còn hạn chế, thiếu tính cạnh tranh do
năng lực hoạt động, năng lực chia sẻ và năng lực hòa nhập kém dù người Việt
Nam không thiếu sự thông minh và cần cù.
Thực trạng về lao động và việc làm, về chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta
đã đặt ra những yêu cầu mới về đào tạo nghề và hướng nghiệp. Nhà nước ta đã
đặt ra mục tiêu: ưu tiên nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng
nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ
thuật lành nghề, trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
1.2. Vai trò của giáo dục người lớn trong xã hội hoá nghề nghiệp
Giáo dục là con đẻ của hệ thống xã hội, do vậy, giữa giáo dục trong nhà trường
có mối liên hệ chặt chẽ với giáo dục của gia đình và xã hội. Trong mối liên hệ
này, giáo dục nhà trường có thể tương thích hoặc không tương thích với hệ thống
xã hội. Yêu cầu của xã hội là đơn đặt hàng đối với nhà trường trong việc xác định
mục tiêu, xây dựng nội dung chương trình giáo dục cũng như lựa chọn và áp dụng
các phương pháp giáo dục. Ngược lại, giáo dục của nhà trường là một trong
những môi trường có tác động chủ đạo đến tiến trình xã hội hóa cá nhân.
Trường học được hình thành trên cơ sở hệ thống các yếu tố cấu thành có mối liên
hệ chặt chẽ, tương tác lẫn nhau tạo ra sự vận động và phát triển của nhà trường
theo chức năng và vai trò xã hội nhất định của nó.
Vì vậy trong chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 -2020 khi
đề cập đến giáo dục nghề nghiệp đã chỉ rõ mục tiêu đào tạo: “Sau khi hoàn thành
các chương trình giáo dục nghề nghiệp, học sinh có năng lực và có đạo đức nghề
nghiệp, kỷ luật lao động và tác phong lao động hiện đại, có khả năng sử dụng
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trong học tập và làm việc tương đương với học sinh
ở các nước phát triển trong khu vực, có khả năng tham gia vào thị trường lao động


quốc tế. Đến 2020 có trên 95% số học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp và

cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc”.
Đào tạo nghề cho người lớn là đào tạo khả năng chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp cho người đã trưởng thành(từ 18 tuổi trở lên). Quá trình đào tạo nghề cho
người lớn là quá trình liên tục, có tổ chức và độc lập trong hệ thống giáo dục đào
tạo Quốc dân với nhiều hình thức đào tạo: trực diện, từ xa, trên máy tính, mạng,
tự học và kết hợp các yếu tố trên.
1.3. Các quan điểm tiếp cận dạy học ‘lấy học sinh làm trung tâm’
Lý luận và cách tiếp cận giảng dạy và học tập lấy người học làm trung tâm
bắt nguồn từ các lý thuyết của trường phái Xây dựng mô hình (contructivism) của
John Dewey và một số lý thuyết khác. John Dewey (1859- 1952) được xem là cha
đẻ của nền giáo dục tiến bộ Hoa Kì. Với cách tiếp cận dạy học lấy người học làm
trung tâm, bài giảng của giảng viên chỉ đóng góp một vai trò hỗ trợ thay vì là
trọng tâm của tri thức. Mục tiêu trung tâm là người học tự mình định hướng và
động viên thông qua các môi trường xung quanh, người học phát triển kiến thức
và xây dựng ý nghĩa cá nhân và sự thông hiểu thế giới xung quanh họ, người học
sử dụng mọi kinh nghiệm này để hình thành các mối quan hệ và thực hiện chuyển
giao tri thức.

Hình 1.1. Mô hình người học là trung tâm
Tư tưởng nhấn mạnh vai tích cực chủ động của người học, xem người học là
chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu, ở thế kỉ XVII, A.Kômenski đã viết:


“Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân
cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều
hơn”.
Do vậy trong giáo dục đã xuất hiện các thuật ngữ “sự tự giáo dục”, “người tự
giáo dục”. Ở nước ta, vấn đề phát huy tích cực chủ động của học sinh nhằm đào
tạo những người lao động sáng tạo đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ những
năm 1960. Khẩu hiệu “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” cũng đã

đi vào các trường sư phạm từ thời điểm đó. Tuy nhiên, thuật ngữ “dạy học lấy
người học làm trung tâm” (dạy học tập trung vào người học) chỉ mới xuất hiện và
được sử dụng phổ biến trong những năm gần đây. Theo K.Barry và King (1993),
đặt cơ sở cho quan điểm người học là trung tâm là những công trình của John
Dewey (Experience and education, 1938) và Carl Rogers (Freedom to learn,
1986). Các tác giả này đề cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc để cho
người học lựa chọn nội dung học tập, được tự lực tìm tòi nghiên cứu. Theo hướng
đó, bên cạnh xu hướng truyền thống thiết kế chương trình giảng dạy lấy logic nội
dung môn học làm trung tâm đã xuất hiện xu hướng thiết kế chương trình học tập
lấy nhu cầu, lợi ích của người học làm trung tâm.
Từ lĩnh vực dạy học, tư tưởng học sinh trung tâm (HSTT) được mở rộng sang
lĩnh vực giáo dục nói chung. Trong “thuật ngữ giáo dục người lớn” do Unesco
xuất bản năm 1979 bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha đã dùng thuật ngữ
“giáo dục căn cứ vào người học”, “giáo dục tập trung vào người học” với định
nghĩa là “sự giáo dục mà nội dung quá trình học tập và giảng dạy được xác định
bởi nhu cầu, mong muốn của người học và người học tham gia tích cực vào việc
hình thành và kiểm soát, sự giáo dục này huy động những nguồn lực và kinh
nghiệm của người học”.
Trên sách báo có người quan niệm HSTT như một tư tưởng, một quan điểm,
một cách tiếp cận quá trình dạy học. R.R.Singh (1991) cho rằng tư tưởng này đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của người học, hoạt động học. Người học được đặt ở vị trí
trung tâm của hệ giáo dục, vừa là mục đích lại vừa là chủ thể của quá trình học
tập. Vì nhấn mạnh điều này, tác giả đề nghị thay thuật ngữ “quá trình dạy học lấy
người học làm trung tâm”, “quá trình học tập do người học điều khiển”. Tác giả
đã viết: “Làm thế nào để cá thể hóa quá trình học tập để cho tiềm năng của mỗi cá
nhân được phát triển đầy đủ đang là một thách thức chủ yếu đối với giáo dục”.
Hiện nay, trong ngành giáo dục nước ta vấn đề phát huy tích cực chủ động sáng
tạo của người học được mọi người nhất trí nhưng vấn đề HSTT chưa phải là đã
được mọi người chấp nhận và được quan niệm một cách thống nhất. Có người



phản đối vì cho rằng cách dịch thuật ngữ này sang tiếng Việt không thành công,
có thể gây ra sự hiểu lầm. Có người không chấp nhận vị trí trung tâm của người
học trong hoạt động dạy học vì e rằng sẽ hạ thấp vai trò của GV, tạo ra sự “đổi
ngôi” trong nhà trường. Cũng có người cho rằng HSTT là một lí thuyết giáo dục
đã lỗi thời, thậm chí đã bị bác bỏ tại chính nơi sản sinh ra nó…
Trên thực tế, trong giai đoạn phát triển ban đầu, tư tưởng HSTT cũng đã từng có
những lệch lạc bị phê phán như quá đề cao hứng thú cá nhân HS, coi đó là động
lực quan trọng nhất của quá trình học tập, hoặc quan niệm quá khích rằng nhà
trường phải dạy những gì HS cần chứ không phải dạy những gì nhà trường có.
Không nên vì những lệch lạc đó mà từ chối chấp nhận tư tưởng HSTT. Bản thân
thuật ngữ “giáo dục học” (Pedagogics có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp paidos có
nghĩa là trẻ em). Từ đầu, giáo dục học (sư phạm học) đã được hiểu là nghệ thuật
giáo dục trẻ em. Vậy thì trẻ em là đối tượng, là trung tâm của hoạt động dạy học –
giáo dục có gì là trái với chức năng cơ bản của giáo dục ? Phong trào thi đua “học
tốt, dạy tốt” trong ngành giáo dục nước ta đã sản sinh ra một khẩu hiệu nổi tiếng:
“Tất cả vì HS thân yêu!”. Phải chăng khẩu hiệu này cũng đã xem HS là trung tâm
của mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường ? Chẳng lẽ khẩu hiệu đó đã từng gây
ra nhận thức sai lầm về vị trí, vai trò của giáo viên vì đã quá đề cao học sinh?
Thực hiện HSTT không những không hạ thấp vai trò của GV mà trái lại đòi hỏi
GV phải có trình độ cao hơn nhiều về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp.
S.Rassekh (1987) viết: “Với sự tham gia tích cực của người học vào quá trình học
tập tự lực, với sự đề cao trí sáng tạo của mỗi người học thì sẽ khó mà duy trì mối
quan hệ đơn phương và độc đoán giữa thày và trò. Quyền lực của GV không còn
dựa trên sự thụ động và dốt nát của HS mà dựa trên năng lực của GV góp phần
vào sự phát triển tột đỉnh của các em… Một GV sáng tạo là một GV biết giúp đỡ
HS tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học. GV phải là người hướng dẫn,
người cố vấn hơn là chỉ đóng vai trò công cụ truyền đạt tri thức”.
Trong quá trình học tập lấy học sinh làm trung tâm, người dạy đóng vai trò rất
quan trọng. Muốn thực hiện dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người thầy vừa

phải chú ý đến người học, vừa phải chú ý đến điều phải học. Giáo viên là người
hướng dẫn, vì vậy phải không ngừng vươn lên học tập suốt đời để làm gương tốt
cho học sinh. Người thầy phải là người có khả năng tổ chức, điều khiển mọi hoạt
động của học sinh, giúp học sinh học tập tốt. R.R.Singh đã viết: “Trong dạy học
lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên không chỉ là người truyền thụ những kiến
thức riêng rẽ. Giáo viên giúp cho học sinh thường xuyên tiếp xúc với những lĩnh
vực học tập ngày càng rộng lớn hơn. Giáo viên đồng thời là người hướng dẫn,


người cố vấn, người mẫu mực cho học sinh. Giáo viên không phải là chuyên gia
ngành hẹp, mà là một cán bộ tri thức, là người học hỏi suốt đời. Trong việc thực
hiện quá trình dạy học, người dạy và người học cùng nhau tìm tòi khám phá. Theo
S.Raxếch thì với sự tham gia tích cực của người học vào quá trình học tập tự lực,
với sự đề cao trí sáng tạo ở người học thì sẽ khó duy trì mối quan hệ đơn phương
và độc đoán giữa thầy và trò. Quyền lực của giáo viên không còn dựa trên sự thụ
động và dốt nát của học sinh, mà là dựa trên năng lực của giáo viên góp phần vào
sự phát triển của học sinh thông qua sự tham gia tích cực của các em … Một giáo
viên sáng tạo là người biết giúp đỡ học sinh tiến bộ nhanh chóng trên con đường
tự học. Giáo viên phải là người hướng dẫn, người cố vấn hơn là chỉ đóng vai trò
công cụ truyền đạt tri thức.”
Tóm lại, trong quá trình chuyển từ kiểu dạy học truyền thống sang kiểu dạy học
mới có sự thay đổi về tỉ trọng và nội dung vai trò của người dạy và người học.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm phát huy được vai trò chủ động, tích cực và
sáng tạo của học sinh, đồng thời đề cao hơn vai trò của người thầy. Ở đây, giáo
viên phải có trình độ chuyên môn sâu, có trình độ sư phạm lành nghề, có đầu óc
sáng tạo và nhạy cảm mới có thể đóng vai trò là người gợi mở, xúc tác, trợ giúp,
hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động độc lập của học sinh,
đánh thức năng lực tiềm tàng trong mỗi em, chuẩn bị cho học sinh tham gia tích
cực vào phát triển cộng đồng.
Đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, xem cá nhân người học

– với những phẩm chất và năng lực riêng của mỗi người – vừa là chủ thể, vừa là
mục đích của quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập với sự
trợ giúp của các phương tiện, thiết bị hiện đại để cho tiềm năng của mỗi học sinh
được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào xây dựng cuộc sống có chất
lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Đó chính là cốt lõi tinh thần nhân văn
trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Đây là một công việc khó khăn và lâu
dài, đòi hỏi sự hoạt động mạnh mẽ, có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp,
ban, ngành và đội ngũ giáo viên. Giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy học sinh làm
trung tâm sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình
học tập của học sinh dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng được nhu cầu
cần thiết của xã hội.
2. Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp
2.1. Thực trạng áp dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm”
trong giáo dục nghề nghiệp tại một số trường đào tạo nghề.


* Việc áp dụng phương pháp dạy- học tích cực là một cuộc cách mạng trong
nhận thức và hành động, bởi vậy, đây không phải là công việc dễ dàng. Thực
trạng việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong giáo dục nghề nghiệp tại
một số trường đào tạo nghề có những rào cản sau:
Thứ nhất, sự hạn chế về nhận thức trong quan niệm về dạy- học. Đã từ lâu
với quan niệm cũ, người ta cho rằng, dạy học chủ yếu là nội dung; mục đích của
dạy- học chủ yếu là rèn trí nhớ chứ không phải rèn trí thông minh. Với quan niệm
như vậy, người ta đã quên điều Mác đã dạy: phương thức sản xuất này khác
phương thức sản xuất kia không phải là ở chỗ sản xuất ra cái gì mà là sản xuất
bằng cách nào.
Thứ hai, sức ỳ truyền thống- sự ngại thay đổi thói quen, nhất là ở đội ngũ
cán bộ cao tuổi. Đội ngũ cán bộ đã học tập, nhận thức và truyền đạt , bấy lâu nay,
ổn định trong môi trường, phương pháp truyền thống, ngại thay đổi, ngại học tập,
ứng dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại.

Thứ ba, có cơ, chế chính sách chưa khuyến khích, chưa tạo nên động lực
cho việc áp dụng phương pháp dạy- học tích cực. Hiện tượng phổ biến hiện nay là
phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học, song vẫnâch có cơ chế,
chính sách đãi ngộ, khuyến khích người áp dụng phương pháp dạy- học tích cực
Thứ tư, cơ sở vật chất, kỹ thuật hạn chế. Hầu hết các trường đại học và cao
đẳng hiện nay còn thiếu nhiều các phòng thí nghiệm, các thiết bị phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy và học tập. Giảng đường hầu như chỉ có bảng đen, phấn trắng, các
thiết bị như máy chiếu hắt- Overhaet, máy chiếu đa năng- Projector, bảng điện
tử...hầu như không có hoặc nhiều lắm cũng chỉ có một vài phòng; ngoài ra hệ
thống bàn ghế cũng không được trang bị mới phục vụ việc dạy- học tích cực, bởi
vậy, đã hạn chế không nhỏ đến việc áp dụng phương pháp dạy- học tích cực. Cơ
sở vật chất thiếu cũng phải kể đến là hệ thống giáo trình, tư liệu không đáp ứng
được nhu cầu đổi mới phương pháp dạy- học theo hướng tích cực hoá. Giáo trình
thường được viết theo hướng chốt chặt, đóng kín, khuyến khích người học thuộc
bài chứ không khuyến khích tư duy sáng tạo. Theo GS Hồ Ngọc Đaị, hệ thống
giáo trình hao hao như kinh thánh, thày dạy hao hao như linh mục còn trò học hao
hao như tín đồ. Đổi mới phương pháp phải trên nền chương trình, giáo trình,
phương pháp đánh giá kiểm tra đổi mới...
Thứ năm, thời gian để đầu tư cho dạy- học mới bị hạn chế. Khác với thời
bao cấp, thời gian dư thừa bởi không có việc làm, trong cơ chế thị trường hiện
nay, hầu hết các nguồn lực, quĩ thời gian được huy động vào các hoạt động khác
nhau. Đội ngũ giáo viên cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó. Họ huy động


tối đa thời gian vào làm thêm, dạy thêm, thời gian đầu tư cho nghiên cứu khoa
học cũng bị hạn chế, nên ít đầu tư thời gian cho việc biên soạn lại giáo trình, soạn
lại giáo án, nhất là giáo án sử dụng chương trình Powerpoint phục vụ phương
pháp day- học tích cực.
* Để đánh giá thực trạng việc triển khai giảng dạy theo phương pháp lấy học
sinh làm trung tâm xin được sử dụng phiếu điều tra tại trường Cao đẳng nghề

Kinh tế- Kỹ thuật Vinatex cho giáo viên (Phụ lục 01) và học sinh (Phụ lục 02).
Đánh giá theo các tiêu chí khảo sát:
- Đối với giáo viên:
+ Tiêu chí [2.2] đánh giá về quá trình soạn giáo án và chuẩn bị xem giáo viên có
xác định tiêu chí cho gìơ giảng là “lấy học sinh làm trung tâm”không. Trong 30
phiếu điều tra có 26 phiếu (87%) giáo viên xác định tiêu chí cho giờ giảng là
“lấy học sinh làm trung tâm”, 3 phiếu (10%) không sử dụng, 1 phiếu (3%) sử
dụng tiêu chí khác. Điều này chứng tỏ dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” đã
và đang được áp dụng tại các trường nghề:

Hình . Sơ đồ đánh giá tiêu chí 2.2- phụ lục 01
+ Tiêu chí [2.3] đánh giá về quan điểm nhìn nhận về phương pháp giảng dạy
“lấy học sinh làm trung tâm” trên 30 phiếu cho thấy có 17 phiếu (57% ) cho rằng
“lấy học sinh làm trung tâm” là một phương pháp giảng dạy, 10 phiếu (33%) là
mục tiêu giảng dạy, 3 phiếu (10%) là nội dung giảng dạy. Điều này chứng tỏ bản
chất và cách thức triển khai phương pháp học tập này chưa thật rõ ràng trong giáo
viên. Cần phải tuyên truyền, tập huấn và về cách thức đào tạo này sâu rộng hơn
nữa trong đội ngũ giáo viên tại trường:

Hình

. Sơ đồ đánh giá tiêu chí 2.3- phụ lục 01


+ Tiêu chí [2.4] đánh giá về sự phân biệt giữa quan điểm “giáo viên làm trung
tâm” và quan điểm”lấy học sinh làm trung tâm” trong đội ngũ giáo viên. Đánh gía
về tiêu chí này có thể biết được giáo viên đã thực sự thay đổi trong tư duy giảng
dạy theo hướng tích cực phù hợp với quan điểm mới này hay chưa. Qua đánh gía
cho thấy không nên xem dạy học học sinh trung tâm như một phương pháp dạy
học, đặt ngang tầm với các phương pháp dạy học đã có, mà nên quan niệm nó như

là một tư tưởng, một quan điểm dạy học chi phối cả mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức và đánh giá hiệu quả dạy học:

Hình

. Sơ đồ đánh giá tiêu chí 2.4 - phụ lục 01

+ Tiêu chí [2.5] đánh giá về việc áp dụng các phương pháp sư phạm vào quá
trình giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” cho thấy đa số giáo viên đã lựa chọn
phương pháp học nhóm (22/30 phiếu - chiếm 73%). Đây mới chỉ là một trong
những phương pháp sư phạm trong dạy học tích cực. Để thực sự “lấy học sinh
làm trung tâm” cần phải triển khai đa dạng nhiều phương pháp dạy học tích cực

Hình

. Sơ đồ đánh giá tiêu chí 2.5- phụ lục 01

1. Học nhóm
2. Tình huống có vấn đề
3. Thảo luận trực tiếp
4. Nghiên cứu tài liệu
5. Hỗ trợ đa phương tiện (multimedia)


+ Tiêu chí [2.6] xem xét điều tra những trở ngại đang ảnh hưởng đến việc áp
dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” trong giáo dục nghề
nghiệp. Điều tra trên 30 phiếu cho thấy 17/30 phiếu (chiếm 57%) cho biết do
thiếu thiết bị giảng dạy, 10 phiếu (33%) cho biết do khó khăn khi ứng dụng các
phần mềm đa phương tiện, 3 phiếu (chiếm 3% ) do trình độ sư phạm của giáo
viên còn nhiều hạn chế:


Hình

. Sơ đồ đánh giá tiêu chí 2.6- phụ lục 01

- Đối với học sinh, sinh viên: Tiến hành khảo sát trên 03 lớp học sinh với tổng số
60 học sinh sinh viên khoa Dệt, May tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế - Kỹ thuật
Vinatex.
+ Tiêu chí [2.2] đánh giá về việc áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực
của giáo viên trong quá trình giảng dạy hầu hết sinh viên đều nhận biết được
thầy dạy tốt, dạy hay và cảm nhận được sự khác biệt này giữa các thầy.
+ Tiêu chí đánh giá [2.3] cho thấy sinh viên khẳng định mỗi thầy cô lên lớp có
một phương pháp giảng dạy khác nhau giúp học sinh tìm được sự khác biệt giữa
các thầy cô;
+ Tiêu chí [2.4] cho biết hầu như sinh viên vẫn nhận thấy trong giờ giảng điều
mà giáo viên quan tâm nhất vẫn là nội dung và thời giảng dạy. Vấn đề nêu cao
tính tích cực học tập của học sinh vẫn còn bị xem nhẹ, việc triển khai giảng dạy
“lấy học sinh làm trung tâm” chưa rộng khắp.
+ Tiêu chí [2.5] tìm hiểu xem trong một giờ giảng, học sinh sinh viên có tham
gia bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình về các nội dung bài học không. Điều
này thể hiện học sinh có là trung tâm để giáo viên triển khai và đánh giá các kiến
thức học tập không. Với câu hỏi này kết quả khảo sát là 50% học sinh có tham
gia, 50% học sinh không tham gia.
+ Tiêu chí [2.6] thăm dò học sinh về một phương pháp học được coi là hiệu quả
trong quá trình đào tạo nghề Bạn có thích tham gia học nhóm theo sự phân
công của các thầy cô hay không
□ Có
□ Không
2.7. Trong quá trình học tập, bạn thường được thầy cô quan tâm hỏi về vấn đề
nào sau đây:

□ Sở thích cá nhân
□ Hoàn cảnh cá nhân
□ Các vấn đề về nội dung bài giảng


□ Ứng dụng của bài giảng
2.7. Bạn có những đề nghị gì đối với giáo viên trong quá trình học tập tại
trường:

2.2. Giải pháp và kiến nghị
Để áp dụng tốt phương pháp giảng dạy tích cực cần hội tụ được các yếu tố sau:
- Chuẩn bị nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có;
- Chuẩn bị cho người học động cơ học tập khi bắt đầu môn học
- Thể hiện bản chất và mức độ kiến thức cần huy động
- Thể hiện vai trò của người học và người dạy, các mối tương tác trong quá
trình học
- Thể hiện được kết quả mong đợi của người học
- Phải đổi mới tư duy. Giáo dục cho toàn thể thày trò về tầm quan trọng của
yêu cầu đổi mới và thực chất của phương pháp dạy- học tích cực. Từ đó tạo nên
sự thống nhất, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động. Đã đến lúc không
thể chậm trễ việc đổi mới phương pháp dạy- học.
- Bồi dưỡng cho toàn bộ đội ngũ giảng viên tri thức (kiến thức, kỹ năng và
tình cảm) về PPDH tích cực đồng thời chuẩn bị cho người học tâm thế và khả
năng thích ứng với việc áp dụng phương pháp dạy- học tích cực.
- Đổi mới trang thiết bị phục vụ day- học và bồi dưỡng cho thày – trò về kỹ
năng sử dụng các thiết bị kỹ thuật hiện đại; đổi mới cơ sở vật chất đào tạo từng
bước đáp ứng yêu cầu của một nhà trường hiện đại, nơi người học sẵn sàng học và
có đủ điều kiện học tập, nghiên cứu.
- Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo động lực cho việc áp dụng
phương pháp dạy- học tích cực

- Tổ chức, duy trì việc áp dụng phương pháp day- học tích cực và thao
giảng việc áp dụng PPDH tích cực


- Thường xuyên sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để không ngừng cải tiến
phương pháp dạy- học theo hướng tích cực hoá sự dạy và học
Tài liệu tham khảo


Phụ lục 01: Phiếu điều tra
Thực trạng áp dụng phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” trong
giáo dục nghề nghiệp tại trường Cao đẳng nghề Kinh tế- Kỹ thuật VINATEX
I. Thông tin chung về Đơn vị
1. Tên Đơn vị : .........................................................................................................
2. Địa chỉ :…………………………………………………………………………
3. Điện thoại: .....................................................................................................
Fax: ..................................................................................................................
4. Địa chỉ Website: ............................................................................................
Email: ................................................................................................................
5. Chuyên ngành đào tạo chính: ........................................................................
6. Số lượng cán bộ công nhân viên của đơn vị :.......................................................
II. Xin Anh(chị) cho ý kiến về một số vấn đề sau:
2.1. Chuyên ngành (nghề) mà Anh (chị) đang được đảm nhiệm chính tại trường:
□ Công nghệ sợi, dệt, nhuộm
□ Kế toán
□ Điện - điện tử
□ Công nghệ thông tin
□ Công nghệ May
□ Công nghệ Hàn
□ Thiết kế thời trang

2.2. Quá trình soạn giáo án và chuẩn bị lên lớp anh (chị )có xác định tiêu chí cho
gìơ giảng là “lấy học sinh làm trung tâm”không?
□ Có
□ Không
□ Tiêu chí khác
2.3. Theo Anh(chị) tiêu chí “lấy học sinh làm trung tâm” trong quá trình giảng
dạy là:
□ Một phương pháp giảng dạy
□ Một mục tiêu giảng dạy
□ Một nội dung giảng dạy
2.4. Theo Anh (chị ) trong giảng dạy quan điểm “giáo viên làm trung tâm” khác
với quan điểm”lấy học sinh làm trung tâm” ở:
□ Nội dung giảng dạy
□ Mục tiêu giảng dạy
□ Phương pháp giảng dạy
2.5. Để sử dụng quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm” trong quá trình giảng
dạy theo anh (chị) cần có những phương pháp dạy học tích cực nào:
□ Tình huống có vấn đề
□ Học nhóm
□ Thảo luận trực tiếp
□ Nghiên cứu tài liệu
□ Hỗ trợ đa phương tiện (multimedia)


2.6 Theo Anh (chị) những trở ngại nào đang ảnh hưởng đến việc áp
phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” trong giáo dục
nghiệp
□ Chưa thật hiểu về quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”
□ Trình độ tin học còn hạn chế
□ Trình độ sư phạm hạn chế

□ Thiết bị giảng dạy thiếu và không đồng bộ
□ Khác (ghi rõ):
...............................................................................................
2.7. Anh (chị) đã và đang có những sáng kiến gì để đẩy mạnh việc áp
phương pháp giảng dạy “lấy học sinh làm trung tâm” trong giáo dục
nghiệp tại khoa, trường mình:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

dụng
nghề

dụng
nghề

Xin vui lòng cho biết
Họ tên người khai: ...................................................................................................
Vị trí công tác:..........................................................................................................
Điện thoại: .......................................................................................................…....
Email:...............................................................................................................……..
Ngày…. tháng…. năm 2012
Người được khảo sát
(Ký và ghi rõ họ tên)


Phụ lục 02: Phiếu điều tra
Đối tượng: Sinh viên, học sinh khoa Dệt - Sợi – Nhuộm, Công nghệ MayTrường Cao đẳng nghề Kinh tế Kỹ thuật Vinatex

I. Thông tin chung học viên
1. Họ và tên : .........................................................................................................
2. Lớp :…………………………………………………………………………
3. Điện thoại: .....................................................................................................
Email: ................................................................................................................
4. Chuyên ngành được đào tạo: ........................................................................
5. Số lượng học sinh, sinh viên trong lớp :.......................................................
II. Để góp phần nâng cao và cải tiến chất lượng học tập của học sinh
chuyên ngành Dệt May trong nhà trường, xin bạn vui lòng cho ý kiến về một
số vấn đề sau:
2.1. Chuyên ngành (nghề) mà bạn đang được đào tạo tại trường có phù hợp với
sở trường của bạn không :
□ Có
□ Không
2.2. Quá trình học tập bạn có nhận thấy sự khác biệt về phương pháp giảng dạy
của các Thầy cô không?
□ Có
□ Không
2.3. Theo bạn sự khác biệt là do:
□ Mỗi thầy có một phương pháp giảng dạy khác nhau
□ Mỗi môn học có nội dung khác nhau
□ Mỗi thầy có lòng nhiệt tình khác nhau
2.4. Trong một giờ giảng theo bạn điều mà giáo viên quan tâm nhất là gì:
□ Nội dung giảng dạy
□ Thời gian giảng dạy
□ Sự hiểu biết của học sinh qua giờ giảng
2.5. Trong một giờ giảng thường bạn có tham gia bày tỏ chính kiến, quan điểm
của mình không:
□ Có
□ Không

2.6. Bạn có thích tham gia học nhóm theo sự phân công của các thầy cô hay
không
□ Có
□ Không
2.7. Trong quá trình học tập, bạn thường được thầy cô quan tâm hỏi về vấn đề
nào sau đây:
□ Sở thích cá nhân
□ Hoàn cảnh cá nhân
□ Các vấn đề về nội dung bài giảng
□ Ứng dụng của bài giảng


2.8. Bạn có những đề nghị gì đối với giáo viên trong quá trình học tập tại
trường:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
Ngày…. tháng…. năm 2012
Người được khảo sát
(Ký và ghi rõ họ tên)



×