Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Khắc phục một số quan điểm sai của học sinh trong dạy học cơ học lớp 8 THCS bằng bài tập nghịch lí và ngụy biện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI THỊ HỒNG HẢI

KHẮC PHỤC MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CƠ HỌC LỚP 8 THCS
BẰNG BÀI TẬP NGHỊCH LÝ VÀ NGỤY BIỆN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI THỊ HỒNG HẢI

KHẮC PHỤC MỘT SỐ QUAN NIỆM SAI
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CƠ HỌC LỚP 8 THCS
BẰNG BÀI TẬP NGHỊCH LÝ VÀ NGỤY BIỆN
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lý
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHẠM THỊ PHÚ
TS. VŨ THỊ MINH



Nghệ An, 2015


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học, Ban chủ
nhiệm cùng các thầy, cô giáo khoa Vật lý và Công nghệ, chuyên ngành lý luận và
phương pháp giảng dạy bộ môn Vật lý.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Thị Phú và TS.
Vũ Thị Minh những người đã định hướng và tận tình hướng dẫn để tôi hoàn
thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trường THCS
Lê Bình, nơi tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ,
động viên tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình học tập và hoàn thiện
luận văn này.

Nghệ An, tháng 8 năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Hồng Hải


MỤC LỤC

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ


ĐC

Đối chứng

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

SBT

Sách bài tập

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THCS

Trung học cơ sở

THPT


Trung học phổ thông

TN

Thực nghiệm

TNSP

Thực nghiệm sư phạm


5

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quyết định thành công của đổi mới
giáo dục; quan điểm đổi mới là dạy học tập trung vào người học, xuất phát từ
người học.
Quan niệm riêng của học sinh là sự hiểu biết của học sinh mang đến trước
giờ học [7]. Quan niệm riêng của học sinh đối với các sự vật, hiện tượng trong
đời sống là đa dạng, phong phú và ăn sâu vào tiềm thức của các em. Trong
những quan niệm riêng có nhiều quan niệm không phản ánh đúng bản chất vật
lý, bản chất khoa học vốn có của sự vật, hiện tượng, các khái niệm và quá trình
vật lý. Người ta gọi đó là những quan niệm sai của học sinh. Quan niệm sai của
học sinh thường không phù hợp với tri thức khoa học, nếu không được phát hiện
và sửa chữa kịp thời thì kiến thức mà học sinh lĩnh hội được sẽ trở nên méo mó,
thậm chí sai lệch về bản chất vật lý.
Dạy học theo định hướng xuất phát từ người học là phải quan tâm đến
quan niệm sai, khắc phục quan niệm sai của học sinh.

Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là những bài tập mà trong đó có
chứa đựng những yếu tố (hoặc ở phần dữ kiện hoặc ở phần kết luận) trái ngược
hoặc không phù hợp với các định luật, quy tắc, quy luật vật lý,... Tuy nhiên,
nếu chỉ nhìn nhận các yếu tố này một cách hình thức thì có thể nhầm tưởng
rằng chúng phù hợp với các định luật, quy tắc, quy luật vật lý và logic
thông thường. Song xem xét một cách cặn kẽ, có luận chứng khoa học, dựa
trên các định luật, quy tắc, quy luật vật lý,... thì mới nhận ra sự nghịch lý và
ngụy biện trong bài tập. Giải các bài tập này học sinh sẽ nắm vững được nội
dung, phạm vi ứng dụng của các định luật vật lý.


6
Vận dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào quá trình dạy học một
cách phù hợp sẽ phát hiện được các quan niệm sai của học sinh và khắc phục
được quan niệm sai ấy nhằm giúp các em nhận thức và lĩnh hội được tri thức
khoa học.
Thực tiễn hiện nay, việc tiếp thu kiến thức vật lý của học sinh ở trường
phổ thông còn nhiều hạn chế dễ dẫn đến các quan niệm sai. Do đó, việc khắc
phục quan niệm sai của học sinh trong quá trình dạy học là rất quan trọng.
Chương Cơ học lớp 8 là một chương có vị trí quan trọng trong chương
trình vật lý THCS [17], làm cơ sở để xây dựng kiến thức cơ học ở chương trình
vật lý THPT. Các ứng dụng của cơ học là rất lớn, chỉ khi nắm vững được các
kiến thức cơ học các em mới có thể lý giải được các hiện tượng, quá trình diễn
ra trong cuộc sống.
Với những lí do trên, tôi chọn “Khắc phục một số quan niệm sai của
học sinh trong dạy học Cơ học lớp 8 THCS bằng bài tập nghịch lý và ngụy
biện” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện để
phát hiện và khắc phục một số quan niệm sai của học sinh trong dạy học Cơ học

lớp 8 nhằm nâng cao chất lượng lĩnh hội kiến thức chương này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động dạy và học của giáo viên,
học sinh ở trường THCS trong phần Cơ học vật lý lớp 8.
Phạm vi nghiên cứu: Phần Cơ học vật lý lớp 8.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào dạy học phần Cơ
học lớp 8 để phát hiện và khắc phục được một số quan niệm sai thường gặp của
học sinh thì sẽ góp phần nâng cao được chất lượng lĩnh hội kiến thức.


7

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về quan niệm riêng của học sinh và
ảnh hưởng của nó đối với quá trình dạy học.
- Nghiên cứu mục tiêu, nội dung, chương trình phần Cơ học lớp 8 để từ đó
xây dựng được một số bài tập nghịch lý và ngụy biện.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm cụ thể nhằm khắc phục quan niệm sai
của học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề tài.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến các quan niệm sai của học sinh
khi dạy học phần Cơ học lớp 8;
- Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK, SGV, SBT và các tài liệu liên
quan đến phần Cơ học Vật lý 8;
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện với
quan niệm sai của học sinh.
6.2. Phương pháp điều tra quan sát

- Điều tra thực trạng sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào
dạy học vật lý ở THCS;
- Điều tra quan niệm của học sinh về các hiện tượng, quá trình vật lý phần
Cơ học lớp 8.
6.3. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm sư phạm


8
Tiến hành TNSP tại trường THCS Lê Bình – thành phố Hà Tĩnh – Hà
Tĩnh.

6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học, phương pháp so sánh và một số
phương pháp bổ trợ khác để trình bày kết quả TNSP, so sánh kết quả học tập của
2 nhóm thực nghiệm và đối chứng, từ đó rút ra nhận xét nhằm kiểm tra tính khả
thi của đề tài.
7. Đóng góp mới của đề tài
7.1. Về lí luận
- Đề xuất được quy trình xây dựng, sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và
ngụy biện trong dạy học phần Cơ học lớp 8 nhằm khắc phục quan niệm sai của
học sinh.
7.2. Về ứng dụng
- Xây dựng được hệ thống bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện phần Cơ
học lớp 8 gồm 20 bài, trong đó:
+ Bài tập vật lý nghịch lý: 14 bài
+ Bài tập vật lý ngụy biện: 6 bài.
- Phát hiện được một số quan niệm sai thường gặp của học sinh trong
nhận thức các kiến thức cơ bản của Cơ học 8;
- Thiết kế được 3 tiến trình dạy học sử dụng các bài tập vật lý nghịch lý
và ngụy biện đã xây dựng dùng để phát hiện và khắc phục quan niệm sai của học

sinh phần Cơ học 8.
8. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận.


9
Phần nội dung gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập vật lý nghịch lý và ngụy
biện phần Cơ học lớp 8 THCS
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Quan niệm riêng của học sinh

1.1.1. Khái niệm
Quan niệm là sự hiểu biết của con người về những sự vật, hiện tượng,
khái niệm, ... trong tự nhiên. Những khái niệm này được tiềm ẩn trong não và
được tái hiện lại khi có kích thích [7].
Quan niệm riêng là sự hiểu biết của mỗi cá nhân nên nó thể hiện tính cá
biệt cao. Cùng một sự vật, hiện tượng nhưng mỗi người hiểu theo một cách khác
nhau. Nếu để những quan niệm riêng này hình thành một cách tự phát và mang
yếu tố chủ quan của cá nhân thì thường thiếu khách quan và không khoa học.
Tóm lại, quan niệm riêng của HS khi học vật lý là sự hiểu biết về những

quan niệm, hiện tượng, quá trình vật lý mà HS đã có sẵn trước khi nghiên cứu
chúng trong giờ học.
Trong những quan niệm riêng, quan niệm không phản ánh đúng bản chất
vật lý, bản chất khoa học vốn có của sự vật, hiện tượng, các khái niệm và quá
trình vật lý, người ta gọi là những quan niệm sai.
1.1.2. Nguồn gốc
Một quan niệm không phải là sản phẩm mà trước hết là quá trình của một
hoạt động xây dựng về mặt tinh thần của hiện thực. Sự xây dựng này xuất phát
từ những thông tin mà người học nhận được thông qua các giác quan cũng như
qua những mối liên hệ mà người học thực hiện với những người khác, theo cá
nhân hoặc theo nhóm trong cuộc đời họ và những thông tin này đã “in” vào
trong trí nhớ của họ. Những thông tin này được mã hóa, được sắp xếp theo phạm
trù trong một hệ thống tổng thể.


11
Có thể thấy rằng, quan niệm riêng của người học được hình thành trong
quá trình người học lĩnh hội tri thức. Các nghiên cứu đã chỉ ra những nguồn gốc
chủ yếu dẫn đến sự hình thành quan niệm riêng của người học như sau:
a. Hình thành qua kinh nghiệm sống hàng ngày
Các quan niệm là những lý thuyết sơ đẳng, hợp thức bởi cuộc sống hàng
ngày. Các quan niệm thường xuất hiện có liên quan đến một hay nhiều ý niệm,
do vậy quan niệm gắn với tri thức sử dụng. Quan niệm bao gồm những kiến thức
sơ đẳng (đối với Vật lý) nhưng nó lại đứng vững trong cuộc sống hàng ngày và
do vậy nó được hợp thức hóa.
Khi bắt gặp các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày, HS tìm
cách giải thích chúng. Việc giải thích của các em thường bằng cách kết nối các
sự kiện quan sát được – trong đó có nhiều sự kiện ngẫu nhiên, bề ngoài không
phải là bản chất, nên có thể dẫn đến những quan niệm sai. Khi cách giải thích sai
lại được các em vận dụng “thành công” với nhiều sự vật, hiện tượng thì chúng

lại càng được củng cố. Ví dụ: Một vật chỉ chuyển động khi có lực tác dụng và
nếu tác dụng một lực lớn vào vật thì vật sẽ chuyển động với vận tốc lớn.
Việc vận dụng ngôn ngữ giao tiếp cũng có thể dẫn đến những sai lầm khi
lĩnh hội các khái niệm khoa học.
Từ đồng âm khác nghĩa cũng có thể gây cho HS sự nhầm lẫn. Ví dụ: từ
“công” trong đời sống hàng ngày dùng để chỉ công sinh học như: Công ơn, công
lao, công sức ... Nhưng trong vật lý, từ “công” dùng để chỉ công mà lực thực
hiện làm di chuyển một vật một quãng đường s và được đo bằng

.

Việc tiếp nhận các thông tin từ truyện cổ tích, sách báo, phim ảnh khoa
học viễn tưởng cũng góp phần hình thành những quan niệm riêng của HS.
b. Hình thành trong quá trình dạy học


12
HS khi vận dụng một cách áp đặt việc giải thích các hiện tượng tương tự
trong khi học cũng có thể dẫn đến quan niệm sai về Vật lý. Hai hiện tượng vật lý
có thể tương tự nhau về hình thức nhưng lại khác nhau hoàn toàn về bản chất,
nếu vận dụng một cách máy móc sẽ dẫn đến sai lệch bản chất của hiện tượng.
Việc dùng các thuật ngữ không thống nhất trong chương trình Vật lý cũng
là nguyên nhân gây ra nhiều quan niệm sai và gây ra khó khăn trong việc tiếp
thu kiến thức. Ví dụ: Electron – điện tử ...
Sự diễn tả không đầy đủ, rõ ràng từ phía GV cũng có thể gây những nhầm
lẫn ở HS.
Như vậy, những quan niệm riêng có thể được hình thành trong quá trình
dạy học hoặc qua kinh nghiệm sống hàng ngày.
1.1.3. Đặc điểm
Quan niệm riêng của HS thường rất bền vững và bảo thủ, rất nhiều quan

niệm sai. Về mặt bản chất chúng không phù hợp với tri thức khoa học. Do đó nó
thường gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình dạy học vật lý ở trường phổ
thông.
Trong nhiều trường hợp, quan niệm riêng của HS về cùng một vấn đề là
không nhất quán mà phụ thuộc vào từng bối cảnh, tình huống.
Nhiều quan niệm bám sâu và vẫn tiếp tục duy trì ngay cả khi HS đã được
học những khái niệm khoa học, việc khắc phục quan niệm là hết sức khó khăn.
Ví dụ: Lực là nguyên nhân gây ra chuyển động.
Quan niệm riêng có tính phổ biến. Quan niệm lực là nguyên nhân gây ra
chuyển động có ở HS, sinh viên, ... và không chỉ ở Việt Nam mà có phạm vi
rộng rãi.
1.1.4. Ảnh hưởng quan niệm riêng của học sinh trong dạy học vật lý


13
Ta không thể coi những hiểu biết ban đầu của HS (quan niệm riêng) là cơ
sở để nghiên cứu vật lý, bởi mỗi HS đều hiểu theo một cách riêng, hiểu sai xuất
phát từ những cơ sở khác nhau.
Trong những quan niệm riêng, quan niệm không phản ánh đúng bản chất
vật lý, bản chất khoa học vốn có của sự vật, hiện tượng, các khái niệm và quá
trình vật lý, người ta gọi là những quan niệm sai. Quan niệm sai của HS như vật
cản trên con đường nhận thức sự vật, hiện tượng.
Nếu người thầy không áp dụng những biện pháp nhằm vô hiệu hóa những
“vật cản”, khắc phục và sửa chữa những quan niệm sai thì kiến thức mà HS thu
nhận được sẽ trở nên méo mó thậm chí sai về bản chất vật lý.
1.2.

Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện

1.2.1. Khái niệm

Nghịch lý theo quan điểm triết học là mâu thuẫn thường xuất hiện trong lý
thuyết tập hợp khoa học và trong lôgic hình thức, song vẫn có lập luận hợp với
lôgic và đúng đắn. Nghịch lý xuất hiện khi có hai phán đoán loại trừ (mâu thuẫn)
lẫn nhau nhưng đều được chứng minh như nhau [3].
Nghịch lý có thể xuất hiện trong lý thuyết khoa học, cũng như trong lập luận
thông thường. Sự tồn tại của nghịch lý có nghĩa là có một tiên đề vô căn cứ đã được
sử dụng trong một phán đoán hoặc một lý thuyết nói chung, tính chất vô căn cứ đó
thường khó phát hiện, giải thích và nhất là khó loại trừ. Vì mâu thuẫn lôgic hình
thức phá hoại sự lập luận với tư cách là một phương tiện phát hiện và chứng minh
chân lí cho nên nảy ra nhiệm vụ phát hiện nguồn gốc nghịch lý và tìm ra phương
pháp loại bỏ chúng song đây là vấn đề phức tạp, khó khăn có liên quan đến nhiều
bộ môn, đang trong giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu [3].
Như vậy vấn đề nghịch lý, xét một mặt nào đó cũng có mặt tích cực của nó
thể hiện ở chỗ :


14
+ Nghịch lý ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của lôgic học, dẫn tới hai
tiến triển quan trọng, đó là việc thiết lập lí luận về loại hình (lôgic cao cấp) và việc
công thức hóa lý thuyết tập hợp [3].
+ Nghịch lý mâu thuẫn với những kết quả suy ra từ lôgic hiện tại và điều đó
thúc đẩy sự phát triển của khoa học. Ví dụ: Trước thời của Copecnic nếu ta nói Trái
Đất quay quanh Mặt Trời, ta sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Vì nó mâu thuẫn cực kì
với những kết luận được suy ra từ hệ quả lôgic thời đó (Nếu Trái Đất quay, tại sao
chúng ta đứng vững được? Lực nào tác dụng làm nó quay, và tìm đâu ra một lực
khổng lồ như thế? Làm sao một hòn đá rơi từ trên cao xuống theo phương thẳng
đứng được nếu Trái Đất quay? ...)
Trong khoa học nói riêng và trong đời sống nói chung, nghịch lý luôn xuất
hiện, và sự xuất hiện của nghịch lý mà khoa học hiện tại không đủ sức giải quyết
càng thúc đẩy khoa học phát triển, đi lên, sau đó lại phát sinh những nghịch lý mới.

Con đường của khoa học là như vậy.
Nghịch lý trong vật lý là những luận đề được đưa ra nhằm nêu lên sự thiếu
nhất quán bên trong của một lý thuyết vật lý. Trong nhiều trường hợp, ta có thể
chứng minh rằng nghịch lý là kết quả của một sự phân tích không đầy đủ hoặc sai
lầm các tiên đề dùng làm cơ sở cho một lập luận về một thí nghiệm tưởng tượng[6].
Ngụy biện theo quan điểm triết học là sự lập luận mà lôgic mang tính chủ
quan, giả dối nhằm làm cho người khác tin vào những kết luận, những quan điểm
sai trái hoặc không chắc chắn. Ngụy biện nêu ra nét giống bề ngoài của các hiện
tượng đem quy luật của một hiện tượng này, hoàn cảnh này áp dụng vào một loại
hiện tượng khác, hoàn cảnh khác,... nghĩa là tính lịch sử và cụ thể của chân lí không
được tôn trọng [3].
Như vậy với cách hiểu trên có thể rút ra nhận xét:
+ Phép ngụy biện không có tính khách quan và tính khoa học trong lập luận,
vì vậy phép ngụy biện dẫn đến sai lầm trong khoa học [3].


15
+ Trong nghiên cứu khoa học cần hết sức tránh những kết quả được rút ra từ
những lập luận mang tính ngụy biện.
+ Điểm khác biệt cơ bản giữa nghịch lý và ngụy biện ở chỗ: nghịch lý đưa ra
những điều trái với quy luật trong khi ngụy biện cố gắng đưa ra những lập luận
tưởng là đúng nhưng kết quả đạt được là không chính xác.
Ngụy biện trong vật lý có thể hiểu là cố ý dùng lí lẽ, cách bao biện có vẻ rất
hợp lí, đúng đắn, song thực tế lại phạm lỗi lôgic vật lý hoặc các kiến thức vật lý (đã
được chứng minh đúng đắn), để rút ra những kết luận sai lầm [3].
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là những bài tập mà trong đó có
chứa đựng những yếu tố (hoặc ở phần dữ kiện hoặc ở phần kết luận) trái ngược
hoặc không phù hợp với các định luật, quy tắc, quy luật vật lý,... Tuy nhiên,
nếu chỉ nhìn nhận các yếu tố này một cách hình thức thì có thể nhầm tưởng
rằng chúng phù hợp với các định luật, quy tắc, quy luật vật lý và lôgic

thông thường. Song xem xét một cách cặn kẽ, có luận chứng khoa học, dựa
trên các định luật, quy tắc, quy luật vật lý,... thì mới nhận ra sự nghịch lý và
ngụy biện trong bài tập. Giải các bài tập này học sinh sẽ nắm vững được nội
dung, phạm vi ứng dụng của các định luật vật lý.
Cần lưu ý phân biệt bài tập nghịch lý và bài tập ngụy biện:
Bài tập nghịch lý: Là những bài tập sử dụng biện pháp so sánh hoặc là một
vài lời giải toán, hoặc là một trong các lời giải với một thí nghiệm, hoặc là một
trong những lời giải với cái gọi là “lẽ thông thường” và trong tất cả mọi trường hợp
đều bộc lộ ra sự mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết.
Bài tập ngụy biện: Là một hệ thống các lí lẽ và sự bao biện có vẻ rất lôgic,
tưởng là chính xác nhằm đưa đến cho người học các thông tin (gồm những điều
kiện và yêu cầu) không đúng đắn (do vận dụng sự tương tự của các hiện tượng –
đem quy luật của hiện tượng này để giải thích cho hiện tượng khác) và trong quá
trình học đòi hỏi người học tìm kiếm trong các lập luận, lí lẽ đã phạm phải những
kiến thức vật lý nào để từ đó tìm cách giải quyết mâu thuẫn đã đặt ra [3], [19].


16
Những bài tập nghịch lý hay bài tập ngụy biện gọi chung là bài tập nghịch lý
và ngụy biện.
Bài tập nghịch lý và ngụy biện là những bài tập được soạn thảo dựa trên
những suy luận sai lầm của HS và những biểu hiện đa dạng của các sự kiện,
hiện tượng, quá trình vật lý,... Với loại bài tập này, HS thường phạm phải
những sai lầm có tính chất tinh vi, đôi khi khó nhận thấy được, có thể là do
không chú ý tới tất cả các dữ kiện của bài tập hay áp dụng một cách không đúng
các công thức, nội dung, phạm vi ứng dụng của định luật.
1.2.2. Đặc điểm
- Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện thường là những bài tập vật lý
được xây dựng từ những quan niệm sai của HS ở một số hiện tượng các em
được biết trong đời sống hằng ngày.

- Những hiện tượng diễn ra trong bài tập là quen thuộc trong đời sống. Ví
dụ: Hành khách đang ngồi trên xe khách thì chuyển động hay đứng yên, tại sao
giữ cán rìu gỗ bằng tay khô lại khó hơn giữ bằng tay ướt...
- Ngôn ngữ dễ hiểu, thú vị, tình huống cần thiết cho cuộc sống. Ví dụ: Khi
nói Mặt Trời mọc đằng Đông, lặn đằng Tây có phải là Mặt Trời chuyển động
còn Trái Đất đứng yên hay không; người ta làm giảm ma sát bằng cách bôi trơn
nhưng tại sao người ta không bôi dầu cho các thanh ray đường sắt...
Trong quá trình giải bài tập này, câu trả lời các em đưa ra thường phạm
phải những sai lầm có tính chất tinh vi, đôi khi khó nhận thấy được, có thể là do
không chú ý tới tất cả các dữ kiện của bài toán hay áp dụng một cách không
đúng các công thức hay định luật.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có thể dùng trong tất cả các khâu
của quá trình dạy học.
Ngay trong nội dung của bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện luôn chứa
đựng sẵn yếu tố mâu thuẫn gây bất ngờ cho HS. Kích thích tính tò mò, hứng thú


17
học tập cho HS, sau khi HS giải quết được các mâu thuẫn sẽ tạo cho HS niềm tin
và lòng đam mê môn vật lý.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện thường là dạng bài tập liên quan đến
các hiện tượng trong thực tế, các nghành khoa học kĩ thuật…Do vậy, Sau khi
giải được một bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện chắc chắn HS sẽ hiểu rõ bản
chất của các hiện tượng vật lý, nguyên lí hoạt động của các loại động cơ,…làm
cho lí thuyết và thực tiễn xích lại gần nhau hơn. Ưu thế quan trọng nhất của bài
tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là giúp HS hiểu rõ bản chất vật lý.
Để giải được bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện đòi hỏi quá trình hoạt
động tư duy của HS tốt, phải rèn luyện kỹ xảo trong các vấn đề các kiến thức
tổng hợp…Do vậy, dạng bài tập này có tính phân loại HS rất cao. Từ trước tới
nay dạng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện chỉ thường dùng trong các kì thi

học sinh giỏi, thi olympic.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện không chỉ lặp lại những điều đã biết,
mà phải nhìn các kiến thức dưới một góc độ mới, làm cho kiến thức sâu hơn,
rộng hơn, làm rõ những chỗ còn mơ hồ mà HS có thể phạm sai lầm khi vận
dụng. Sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào quá trình dạy học, GV
sẽ giúp HS tự phát hiện ra các quan niệm sai và khắc phục quan niệm sai của
mình.
1.2.3. Vai trò
Vì đây cũng là một dạng bài tập vật lý nên nó vừa có đầy đủ vai trò của
một bài tập vật lý nói chung vừa có những vai trò riêng.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện giúp HS luyện tập, củng cố, mở rộng
kiến thức.
Khi nghiên cứu các vấn đề lý thuyết, HS thường chiếm lĩnh kiến thức
dưới dạng “tĩnh” và theo từng yếu tố riêng biệt. Nó chỉ là dạng kiến thức trừu
tượng và mơ hồ làm cho HS không nhớ và khó hiểu. Qua việc giải bài tập vật lý


18
nghịch lý và ngụy biện, HS chiếm lĩnh kiến thức dưới dạng sinh động hơn, có sự
tác động tương hỗ của nhiều yếu tố. Các định luật, quy tắc, khái niệm... vật lý thì
rất đơn giản và tồn tại riêng biệt, trong khi đó các hiện tượng trong bài tập vật lý
nghịch lý và ngụy biện, các hiện tượng trong tự nhiên lại rất phức tạp. Một hiện
tượng có thể bị chi phối bởi nhiều định luật đan xen, chồng chéo lên nhau. Việc
vận dụng hệ thống kiến thức trong trạng thái vận động như vậy sẽ cho HS thấy
rõ bản chất và các mối quan hệ quy luật của các đơn vị kiến thức, thấy được cơ
chế vận động của các kiến thức trong những hệ thống nhất định... Giải bài tập
vật lý nghịch lý và ngụy biện sẽ cho HS làm quen với việc giải quyết các vấn đề
thực tiễn [15].
Thật vậy, khi giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện, HS phải phân tích
các dữ kiện ban đầu, tìm ra các mối liên hệ, rồi biến đổi chúng đi đến kết quả.

Muốn làm được điều đó, HS phải trải qua một quá trình quan sát, phân tích, tổng
hợp, phán đoán… Quá trình họat động trí tuệ đó phải dựa trên những kiến thức HS
đã học, những kỹ năng mà HS đã được rèn luyện. Từ đó các em phải hiểu, nhớ, vận
dụng, phân tích, tổng hợp tốt kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình.
Giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện cũng là một cách rất hữu hiệu
để HS hiểu được những vấn đề khó, những vấn đề mà HS còn mơ hồ. Đồng thời
sẽ làm cho việc tiếp thu kiến thức của HS được sâu sắc, bền vững hơn. Chính
quá trình đó mới biến kiến thức trở thành kiến thức của HS.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là một phương tiện giáo dục tốt.
Thế mạnh của các bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là ở chỗ rèn luyện
ý chí, niềm tin khoa học và phát huy năng lực tự lực giải quyết vấn đề của HS.
Những điều đó có được do trong quá trình độc lập vận dụng kiến thức, độc lập
tìm tòi lời giải HS giải quyết đúng đắn vấn đề đặt ra. Sau khi giải được một bài
tập vật lý nghịch lý và ngụy biện thành công, niềm tin vào khoa học và năng lực
của HS lại được củng cố và phát triển. Lúc này kiến thức đã trở thành của riêng
HS, HS thấy mình trưởng thành hơn trong việc giải quyết các vấn đề của tự nhiên


19
cũng như trong xã hội. Đó là một trong những cơ sở quan trọng giúp HS mạnh
dạn bước vào con đường sáng tạo [15].
Giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có tác dụng rèn luyện ý chí và
tính kiên trì, vượt khó. Ý chí có thể rèn luyện qua nhận thức lí luận, tuy nhiên ý
chí được rèn luyện tốt nhất qua hoạt động thực tiễn. Qua việc giải bài tập loại
này, HS liên tiếp gặp những khó khăn và chỉ có việc không ngại gian khổ, kiên
nhẫn suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu mới giải quyết thành công một vấn đề nào đó.
Như vậy, bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là phương tiện hữu hiệu giúp HS
rèn luyện ý chí và tính kiên trì, vượt khó, làm cho chúng trở thành tập quán
trong hoạt động hàng ngày của HS.
Khi HS tự lực giải được bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện, HS sẽ cảm

thấy vui, từ đó các em sẽ có động lực học tập có niềm tin vào khoa học. Các
em hiểu rằng, tất cả mọi vấn đề của thực tiễn đều có thể tự lực giải quyết được
dựa trên kiến thức khoa học và HS cũng dần xóa bỏ những suy nghĩ duy tâm.
Như vậy, thông qua việc giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có thể
rèn luyện cho HS những đức tính tốt như tinh thần tự lập, tính cẩn thận, tính
kiên trì, tinh thần vượt khó…
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện góp phần rèn luyện, phát triển tư duy
sáng tạo, tình cảm của HS .
Trong bất kì bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện nào cũng chứa đựng
những mâu thuẫn, những dữ kiện đã biết và những cái chưa biết, hay mâu thuẫn
ngay trong cái đã biết. Khi giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện, HS phải
thực hiện các thao tác tư duy rất đa dạng như vận dụng trí nhớ, so sánh, phân tích,
tổng hợp, suy luận, phán đoán, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa, biết cách
tự đề xuất các tình huống xảy ra của bài toán, biết cách lập kế hoạch giải quyết
vấn đề mà bài toán đặt ra … Mỗi thao tác như vậy cũng rất phong phú, phải kết
hợp những kiến thức khác nhau, cũng như những lĩnh vực khoa học khác nhau.


20
Sự đào bới trong đầu óc những hiểu biết của mình, vận dụng chúng vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn, không những giúp HS hiểu rõ hơn bản chất, nắm
vững vị trí của từng đơn vị kiến thức trong hệ thống tương ứng, mà dần dần làm
cho họ có khả năng vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn, sáng
tạo [15].
Như vậy, việc giải bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện không những có
ý nghĩa về mặt nhận thức mà còn làm cho HS phát triển tư duy sáng tạo. Ăng
ghen nói: “Sự phát triển trí tuệ của con người, không tách rời khỏi sự vận
động của bộ não”.
Việc đưa bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào dạy học môn vật lý
giúp HS nhận biết các vấn đề dường như là mâu thuẫn trong các hiện tượng vật

lý xảy ra khi giải bài tập, có cách nhìn tổng quát hơn, chủ động hơn khi xử lí các
tình huống khác... Điều này sẽ gây hứng thú cho HS.
Giữa kiến thức và năng lực trí tuệ con người có một mối liên hệ tương
hỗ. Sự tích luỹ kiến thức cụ thể có tác dụng mở rộng và phát triển năng lực trí
tuệ của con người. Không có kiến thức thì không có chất liệu cho hoạt động
trí tuệ, vì hoạt động trí tuệ phải dựa trên một nền kiến thức nhất định. Vốn
kiến thức giàu có sẽ làm cho tư duy phong phú hơn. Ngược lại sự phát triển
tư duy làm cho HS nắm được kiến thức một cách sâu sắc và nhanh chóng.
Như vậy, bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện chẳng những có khả năng rèn
luyện năng lực nhận thức mà còn có khả năng làm cho HS hiểu sâu, nhớ lâu
và vận dụng tốt kiến thức [15].
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện giúp HS rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện nào cũng xuất phát từ thực tiễn.
Giải bài tập thường xuyên sẽ giúp cho HS làm quen với sự phức tạp của thực
tiễn, rèn luyện cho các em biết cách vận dụng những kiến thức đã học để giải
quyết những vấn đề trong cuộc sống.


21
Trong thực tế dạy học, nhiều khi người học hiểu nội dung lí thuyết, song họ
gặp rất nhiều khó khăn khi áp dụng kiến thức vào thực tiễn, vào việc giải các bài
toán thực tế. Chẳng hạn, HS có thể nhắc lại bất cứ định luật, quy tắc, công thức nào
nhưng không biết phải vận dụng chúng như thế nào trong việc giải quyết một tình
huống thực tế. Vì vậy việc rèn luyện, hướng dẫn HS giải bài tập vật lý là đặc biệt
quan trọng, có thể nói là biện pháp rất có hiệu quả để phát triển khả năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn cho HS. Thực tế dạy học chứng tỏ rằng, ý nghĩa vật lý của
các định lí, quy tắc, các định luật trở nên thực sự dễ hiểu, dễ áp dụng hơn vào thực
tế sau khi HS đã sử dụng chúng nhiều lần để giải các bài tập.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có thể là trường hợp riêng của kiến

thức cũ, điểm khởi đầu để dẫn đến kiến thức mới.
Các kiến thức trong chương trình THCS thường có tính kế thừa nhau, việc
giải quyết các tốt các bài tập tạo tiền đề tốt cho việc tìm hiểu các kiến thức mới.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có thể tạo ra được một cầu lôgic để đi từ
những kiến thức cũ sang kiến thức mới, nêu lên được những mâu thuẫn giữa
những điều đã biết và điều chưa biết. Một khi đã nảy sinh mâu thuẫn đòi hỏi HS
phải suy nghĩ và phán đoán, làm được điều này người GV mới thực sự thành
công trong việc dạy học của mình.
Tuy nhiên, không phải bài học nào cũng có thể tiến hành dưới dạng bài tập
và để cho HS hoàn toàn tự giải được, vì để giải một bài tập nào đó đều phải dựa
vào kiến thức đã có. Cho nên trong nhiều trường hợp, phải vừa giải bài tập vừa kết
hợp với việc GV thông báo kiến thức [15].
Nếu có thể thay thế việc dạy bài mới bằng cách cho HS giải bài tập vật lý
nghịch lý và ngụy biện để đi đến kiến thức mới thì HS sẽ nắm kiến thức sâu sắc
hơn và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của HS. Trong chương trình hiện
nay có một số có thể tiến hành dưới dạng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện,
song để làm được như vậy cần có sự đầu tư lớn về mặt thời gian và tâm huyết
của GV.


22
Như vậy, việc sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào nghiên
cứu bài học mới có khả năng nâng cao hiệu quả dạy học. Nhiều bài tập được sử
dụng khéo léo có thể dẫn HS đến những suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc
xây dựng một khái niệm mới để giải thích hiện tượng mới do loại bài tập này
phát hiện ra. Đây là vai trò quan trọng nhất của bài tập vật lý nghịch lý và ngụy
biện.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp
cho HS.
Một số bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện thường được xây dựng có nội

dung gắn liền với thực tế, có nội dung thí nghiệm nên có tác dụng giúp cho HS
rèn luyện được kĩ năng thực hành, những hiểu biết cần thiết về giáo dục kĩ thuật
tổng hợp và hướng nghiệp.
Thực tiễn dạy học môn vật lý ở trường phổ thông hiện nay ngày càng chú ý
đến các bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vì chúng đóng một vai trò quan
trọng trong dạy học và giáo dục HS, đặc biệt là trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo
dục kĩ thuật tổng hợp cho HS. Giúp cho HS tiếp cận, làm quen với các thành tựu
khoa học kĩ thuật và các phương hướng phát triển kinh tế, khoa học của đất nước.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là một phương tiện để kiểm tra đánh
giá và phân loại kiến thức, kỹ năng của HS.
Ngoài ý nghĩa sư phạm, tâm lí, việc sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và
ngụy biện trong quá trình dạy học còn có ý nghĩa về mặt điều khiển, vì nó phản
ảnh khả năng tiếp thu kiến thức, kĩ năng đạt được của HS tạo ra những tín hiệu
phản hồi giúp GV điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học cho phù hợp với
tình hình thực tế. Vì vậy có thể nói bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện là
phương tiện hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá kiến thức và kỹ năng HS một cách
chính xác.
Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện đòi hỏi HS phải có một khả năng
phân tích, tổng hợp, so sánh tốt nên loại bài tập này phù hợp với đối tượng học


23
sinh khá trở lên. Vì thế bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện có tính cá biệt hóa
HS. GV có thể sử dụng loại bài tập này trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
Thông qua các bài kiểm tra, cách đặt câu hỏi khác nhau, GV có thể phân
loại các mức độ nắm vững kiến thức của HS, làm cho việc đánh giá chất lượng
kiến thức HS được chính xác [6], [15].
1.3. Bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện với quan niệm sai của học sinh
1.3.1. Phát hiện ra quan niệm sai của học sinh
Khi đưa ra một vấn đề nào đó của vật lý (có thể là các hiện tượng gần gũi

trong đời sống), HS có thể đưa ra ngay câu trả lời theo hiểu biết của các em
(quan niệm riêng).
Tuy nhiên, cũng hiện tượng và quá trình ấy ta đưa ra dưới dạng một bài
toán nghịch lý và ngụy biện thì lại khác. Trong bài tập nghịch lý và ngụy biện
thường đã có một số phương án trả lời, vấn đề là các em phải lựa chọn hoặc các
em phải giải thích, nhưng việc đó không dễ dàng gì. Bởi khi đó trong tư duy của
các em xuất hiện sự xung đột tâm lý giữa kiến thức cũ và mới, giữa những điều
đang nghĩ trái với thực tế đang diễn ra.
Chính từ đó kích thích, thôi thúc các em tìm lời giải đáp. Nếu người giáo
viên biết tổ chức quá trình dạy học, tạo ra không khí học tập tốt sẽ giải phóng
được sự lo sợ của HS, từ đó các em sẽ tự bộc lộ quan niệm riêng của mình.
1.3.2. Khắc phục quan niệm sai của học sinh
Sau khi tạo được trong tư duy của các em sự xung đột tâm lý hay đã đặt
HS vào tình huống có vấn đề sẽ thôi thúc HS trả lời. Hãy để cho HS bộc lộ hết
quan niệm riêng của mình, GV phải là người biết lắng nghe tất cả các quan niệm
riêng của các em, dù là quan niệm sai.
Dưới sự hướng dẫn của GV, bằng những câu hỏi nêu vấn đề sẽ gợi ý cho
các em có thể suy nghĩ và tìm ra câu trả lời đúng. Khi đó các em tự nhận thấy
tính đúng đắn của câu trả lời và tự bỏ đi quan niệm sai trước đây.


24

1.3.3. Củng cố và khắc sâu kiến thức đã học
Thông qua một giờ học bình thường, các em chỉ hiểu được kiến thức đã
học một cách chung nhất. Một giờ dạy có sử dụng các bài tập nghịch lý và ngụy
biện các em có thể “đào sâu” kiến thức về mọi khía cạnh trong đời sống, kỹ
thuật, các em nhận thấy được phạm vi ứng dụng của định luật vật lý, liên hệ ứng
dụng trong thực tế.
Mặt khác, thông qua hệ thống bài tập này HS kết nối kiến thức cũ và mới

thành một khối lôgic chặt chẽ.
Loại bài tập này dù là định tính hay định lượng đều có thể sử dụng vào
các mục đích: Tập dượt, củng cố, khắc sâu, ôn tập kiến thức hay kiểm tra kiến
thức HS một cách thuận tiện.
Khác với các loại bài tập khác, bài tập nghịch lý và ngụy biện có nhiều chi
tiết thú vị, hiện tượng, quá trình đưa ra rất gần gũi với đời sống của các em nên
các em sẽ cảm thấy rất hứng thú khi giải loại bài tập này.
Bài tập ngắn gọn, các em có thể làm trong khoảng thời gian ngắn, đồng
thời nó kích thích được ở các em tính tò mò, ham hiểu biết về tất cả các hiện
tượng quá trình hay các khái niệm mà các em đã được học ở trường hoặc đã
được biết trong đời sống.
Chính vì lẽ đó mà tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức, khả năng khắc
phục quan niệm sai của HS hơn hẳn những “chú ý suông” ở trong SGK.
1.4. Điều tra thực trạng sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện
vào dạy học vật lý ở trường phổ thông
1.4.1. Mục đích điều tra
Điều tra thực tế sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện vào dạy
học vật lý.


25

1.4.2. Đối tượng và phương pháp điều tra
Đối tượng điều tra: 20 GV vật lý ở các trường THCS trên địa bàn thành
phố Hà Tĩnh.
Phương pháp điều tra: Chúng tôi điều tra thông qua việc quan sát, dự
giờ, tham khảo giáo án, phát phiếu điều tra. Mẫu phiếu điều tra ở phụ lục 2.
1.4.3. Kết quả điều tra
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thực tế việc dạy và học ở các
trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Tĩnh, chúng tôi đưa ra một số nhận xét

sau:
- 100% GV cho rằng bài tập vật lý có vai trò quan trọng, tác dụng to lớn
trong dạy học vật lý. Ngoài việc cung cấp kiến thức cơ bản, luyện tập cho HS
kỹ năng vận dụng các công thức, bài tập vật lý còn là công cụ kiểm tra, đánh
giá kiến thức của HS.
- 30,2% GV chưa hiểu về bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện, chưa biết
soạn thảo bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện, thậm chí còn chưa hiểu mình có
sử dụng bài tập loại này vào dạy học hay chưa.
- 38,3% GV cho rằng không thể sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và
ngụy biện trong tiết học trên lớp được, vì 45 phút là quá ít.
- 32% GV chưa bao giờ sử dụng bài tập vật lý nghịch lý và ngụy biện
vào dạy học phần cơ học lớp 8.
- 55,1% GV yêu cầu HS đọc phần nêu vấn đề trong SGK rồi chỉ ra vấn
đề cần nghiên cứu; chỉ có 22,5% GV đưa ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt
HS vào bài học mới.


×