Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.66 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________________________

TRẦN THỊ HIÊN

CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN NAM ĐÀN,
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


2

Nghệ An, 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________________________

TRẦN THỊ HIÊN

CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN NAM ĐÀN,
TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS TRẦN VIẾT QUANG


4

Nghệ An, 2015


1
LỜI CẢM ƠN
Được sự quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện của Huyện ủy, HĐND,
UBND, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới và các ban, ngành, đoàn thể
huyện Nam Đàn, đặc biệt là PGS.TS. Trần Viết Quang - Phó Trưởng Khoa
Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh, học viên đã hoàn thành Luận văn
Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học với đề tài “Công tác dân vận trong xây
dựng nông thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay”. Mặc dù quá
trình tìm hiểu, phân tích, đánh giá và khái quát, học viên đã nỗ lực cố gắng
hết mình, say sưa và tâm huyết, song đây là đề tài mới nên Luận văn không
thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Học viên xin chân thành cảm ơn mọi sự quan tâm giúp đỡ, những ý
kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô, các đồng chí lãnh đạo huyện Nam
Đàn, những người làm công tác dân vận và bạn bè đồng nghiệp.
Vinh, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Trần Thị Hiên



2
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................1


3
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn được Đảng và Nhà
nước đặc biệt quan tâm. Ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 với mục tiêu: Xây dựng cộng
đồng xã hội văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hoàn
thiện; cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến; gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn phát
triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng xã hội nông
thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, trình độ dân trí được
nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh, an ninh trật tự được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Đây là một quyết tâm
chính trị hết sức to lớn với phạm vi thực hiện rộng, đòi hỏi sự vào cuộc
đồng bộ và tích cực của cả hệ thống chính trị.
Là một trong năm huyện được Trung ương chọn làm điểm chỉ đạo xây
dựng nông thôn mới, Nam Đàn xác định đây vừa là niềm vinh dự lớn, nhưng
cũng là thách thức không nhỏ, đòi hỏi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân
phải nỗ lực cố gắng. Để đạt được mục tiêu trở thành huyện nông thôn mới

trước năm 2020, ngoài các nguồn lực hỗ trợ của cấp trên và các địa phương
trong cả nước, một trong những yếu tố hết sức quan trọng có tính quyết định
là phát huy tối đa vai trò của công tác dân vận để khơi dậy mạnh mẽ các
nguồn lực trong nhân dân, đảm bảo nhân dân thực sự là chủ thể của Chương
trình. Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu đã khẳng định “Dễ mười lần


4
không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”, “Dân vận kém thì
việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Sau 4 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới, Nam Đàn đã gặt hái được một số thành quả đáng ghi nhận từ công
tác dân vận như: phong trào hiến đất làm đường, góp đất thực hiện chuyển đổi
ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn, góp tiền xây dựng cơ sở hạ tầng,
cùng nhau đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, chỉnh trang nhà cửa, vệ sinh
môi trường, giữ gìn an ninh trật tự,... Toàn huyện có 4/23 xã bao gồm: Kim
Liên, Nam Cát, Nam Giang và Nam Trung đã được công nhận xã đạt chuẩn
quốc gia về nông thôn mới; 6/23 xã bao gồm: Nam Anh, Nam Xuân, Xuân
Hòa, Nam Nghĩa, Nam Thượng và Vân Diên đang nỗ lực phấn đấu để có thể
đạt chuẩn xã nông thôn mới; các xã còn lại đạt từ 10 - 16 tiêu chí. Nhìn
chung, bộ mặt nông thôn có nhiều tiến bộ và khởi sắc. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế như: Một bộ phận nhân dân
chưa nhận thức đầy đủ về vai trò chủ thể của mình trong xây dựng nông thôn
mới; một số nơi vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, ngại khó nên việc huy động
nội lực trong nhân dân chưa tương xứng với tiềm năng; một số tiêu chí không
cần nhiều kinh phí nhưng chưa làm tốt công tác dân vận để người dân đồng
tình và tích cực hưởng ứng,... Để sớm trở thành một trong những huyện nông
thôn mới đầu tiên của cả nước, đòi hỏi cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ
sở phải hiểu đúng, hiểu rõ vai trò “chìa khóa vàng - chìa khóa vạn năng” của
công tác dân vận để tiếp tục huy động mạnh mẽ các nguồn lực vật chất và tinh

thần trong nhân dân, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng dân cư.
Về mặt lý luận, việc nghiên cứu về chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới, vai trò của công tác dân vận nói chung và công tác dân vận
trong xây dựng nông thôn mới nói riêng được nhiều nhà khoa học, nhiều cán bộ
lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, ban ngành, đoàn thể các cấp quan tâm nghiên cứu


5
và được đúc kết thành những công trình, những bài viết có giá trị. Một số nghiên
cứu liên quan đến đề tài đã được công bố như:
Nhóm công trình nghiên cứu vấn đề về công tác dân vận:
- Bài báo “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15.10.1949 của X.Y.Z
(Chủ tịch Hồ Chí Minh); Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi
đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của TS. Nguyễn Văn
Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng,
nghiệp vụ công tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận của hệ thống chính trị của
Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, của TS. Trịnh Xuân
Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- 65 năm thực hiện tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh của Hà Thị Khiết Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương, Tạp chí Dân vận,
số 10-2014.

- Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm "Dân vận"
của Hồ Chí Minh) của GS.TS Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lý luận chính trị,
8-2006,...


6
- Tư tưởng Hồ chí Minh về dân vận và vận dụng vào công tác dân vận
ở tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sỹ, Chuyên ngành Hồ chí Minh học của Lê
Vân Thuỷ, 2008.
- Công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sỹ Khoa học Chính trị của Hà Thị Ánh Nguyệt, Chuyên ngành
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011.
- Tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân
vận trong tình hình mới của Nguyễn Duy Việt, Nxb Lao động, Hà Nội - 2014.
Các công trình nghiên cứu đã đưa ra những luận cứ, luận chứng khoa
học sát với tình hình thực tiễn, làm nổi bật vai trò của công tác dân vận trong
sự nghiệp cách mạng ở nước ta nói chung và tư tưởng của Hồ Chí Minh về
công tác dân vận nói riêng; chỉ rõ nội dung và lực lượng làm công tác dân
vận, yêu cầu đối với người cán bộ làm công tác dân vận.
Nhóm công trình nghiên cứu vấn đề về xây dựng nông thôn mới:
- Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 6/42009 về ban hành Bộ tiêu
chí quốc gia về nông thôn mới.
- Quyết định số 800/2010/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 về phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
- Quyết định số 342/2013/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 về sửa đổi một số
tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Nghị quyết 03/NQ-TU ngày 6/6/2011 của Tỉnh uỷ Nghệ An về việc
đẩy mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới
tỉnh Nghệ An giai đoạn 2011 - 2020.
- Nghị quyết số 04-NQ/HU ngày 24/12/2010 của Huyện ủy Nam Đàn

về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới huyện
Nam Đàn giai đoạn 2010 - 2020.
- Xây dựng nông thôn mới phải là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của
Nguyễn Hoàng, Báo Điện tử Chính phủ ngày 16/05/2014.


7
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng ở cơ sở trong xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An của Nguyễn Hồ Cảnh, Trang Thông
tin điện tử, Trường Chính trị Nghệ An, ngày 23/11/2014.
Các công trình nghiên cứu đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên
quan đến quá trình phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Việt
Nam; làm rõ bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; đề xuất một số nhiệm vụ
và giải pháp để thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới.
Nhóm công trình nghiên cứu vấn đề về công tác dân vận trong xây
dựng nông thôn mới:
- Công tác dân vận “đi trước, đi cùng, về sau” trong xây dựng nông
thôn mới của Nguyễn Mạnh Khôi - Phó Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Nghệ
An, Tạp chí Dân vận, số 9-2014.
- Dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới ở Nam Định của Phạm
Văn Bằng - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Nam
Định, Tạp chí Dân vận, số 7-2014.
- Công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới ở Yên Khánh của
Nguyễn Trung Kiên - Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng, Tạp chí Dân vận,
số 5-2013.
- Kết quả bước đầu trong phong trào thi đua “Dân vận khéo” trong xây
dựng nông thôn mới của Nguyễn Duy Việt - Phó Trưởng Ban Dân vận Trung
ương, Tạp chí Dân vận, số 1+2-2013.
- Khối Dân vận xã với việc thực hiện xây dựng nông thôn mới của Võ

Đình Liên - Vụ trưởng Vụ Dân vận các Cơ quan Nhà nước Ban Dân vận
Trung ương, Tạp chí Dân vận, số 12-2012.
- Năm mới bàn về công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới của
Nguyễn Duy Việt - Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương, Tạp chí Dân vận,
số 1-2012.


8
- Nông dân tỉnh Thanh Hoá trong xây dựng nông thôn mới hiện nay,
Luận văn Thạc sỹ, Chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của Đinh Thị
Bình, 2013.
- Kinh nghiệm huy động sức dân ở Nam Cát, Nam Đàn của Lương
Mai, Báo Nghệ An, số ra ngày 4/11/2014.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ nhiều nội dung
về lý luận và thực tiễn liên quan đến vai trò của công tác dân vận và hiệu quả
của công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống vai trò của công tác dân vận trong
xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên và với cương vị công tác của mình, tác
giả chọn vấn đề “Công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới ở huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành
Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng và nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về công tác dân vận trong xây dựng nông thôn
mới.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác dân vận trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận
trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu vấn đề công tác dân vận nói chung và công tác dân
vận trong xây dựng nông thôn mới nói riêng.


9
- Tập trung khảo sát, nghiên cứu công tác dân vận trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận và chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp; thống kê
số liệu; phỏng vấn trực tiếp; điều tra bằng phiếu, trong đó phương pháp phân
tích và tổng hợp được xem là phương pháp chủ đạo.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác dân vận trong xây
dựng nông thôn mới.
- Phân tích thực trạng công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới
ở Nam Đàn, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay ở một huyện điểm xây dựng nông thôn mới.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ cấp ủy, chính quyền, các
ban, ngành, đoàn thể trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương.


10
NỘI DUNG
Chương 1
CÔNG TÁC DÂN VẬN VÀ VAI TRÒ CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Dân vận và công tác dân vận
1.1.1. Khái niệm dân, dân vận và công tác dân vận
1.1.1.1. Khái niệm dân
Dân hay còn gọi "Nhân dân" là những người sống trong một khu vực
địa lý hoặc hành chính, trong một nước, sống trong nước hay ngoài nước; là
đông đảo những người dân, thuộc mọi tầng lớp, mọi giai cấp (trong đó công
nhân, nông dân, trí thức là các tầng lớp, giai cấp cơ bản) có quan hệ với bộ
máy lãnh đạo, cầm quyền, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ cấu
giai cấp, các tầng lớp nhân dân cũng luôn luôn thay đổi theo các thời kỳ lịch
sử khác nhau và không ngừng phát triển theo sự phát triển của đất nước. Sự
biến động ấy bao gồm cả số lượng và chất lượng, về hoàn cảnh, điều kiện
sống, tâm tư tình cảm, nhận thức, hành động khác nhau.
Nhận thức đầy đủ về cơ cấu xã hội phong phú, đa dạng, tiềm năng to
lớn, sức mạnh trong nhân dân, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai cấp,
tầng lớp nhân dân để hiểu đầy đủ, sâu sắc công tác dân vận và yêu cầu đặt ra
cho công tác dân vận trong tình hình mới đòi hỏi phải không ngừng đổi mới
nội dung, phương thức vận động cho phù hợp, có hiệu quả, thiết thực với
nhiệm vụ cách mạng và nhu cầu lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng
lớp nhân dân, khắc phục được bệnh chủ quan, đơn điệu, thiếu toàn diện.
- Dân vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của công tác dân vận

Dân là gốc của nước, là cội nguồn, gốc rễ của sức sống, sức bật của dân
tộc. Quy luật của muôn đời cho thấy, có dân là có tất cả và mất dân là mất tất


11
cả. Dân vừa là đối tượng của công tác dân vận, của các hoạt động và phong
trào mà Đảng, Nhà nước, các đoàn thể tác động; vừa là chủ thể của công tác
dân vận, hoạt động dân vận, bởi nhân dân cũng làm dân vận. Các hộ dân sinh
sống gần gũi bên nhau khi có những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa mà biết
cùng nhau hòa giải để đi tới đồng thuận, để tăng cường đoàn kết, hợp tác, đây
là biểu hiện cụ thể nhất về nhân dân làm dân vận. Dân tham gia tuyên truyền
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động
viên nhau vượt qua khó khăn, thử thách, làm công tác tư tưởng cho nhau để
thống nhất nhận thức và niềm tin, khẳng định dư luận xã hội lành mạnh,
chống các tin đồn, những xuyên tạc giả dối, những kích động, mị dân... đó
cũng là những biểu hiện của công tác dân vận, với vai trò nổi bật của người
dân, của cộng đồng dân cư.
- Vai trò của nhân dân trong xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Nhân dân là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử, thể hiện ở
chỗ: Nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của toàn xã hội; là lực
lượng trực tiếp hay gian tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội và
kiểm chứng các giá trị tinh thần ấy. Nhân dân là cội nguồn phát sinh những
sáng tạo văn hóa, tinh thần của xã hội, là lực lượng và động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhân loại đã
chứng minh, không có một cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội tiến bộ
nào có thể thành công nếu như không xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích của
đông đảo nhân dân, không được nhân dân tham gia.
Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã nhiều lần đề cập

và chỉ rõ "...Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân. Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ


12
vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân" [30, tr.276]. "...Khi nhân dân
giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ
ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn" [28, tr.366].
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định: "Sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyên vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến
những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội
chủ nghĩa và của Đảng" [11, tr.65]. Bí quyết của mọi thành công trong lãnh
đạo và cầm quyền là tranh thủ được lòng dân: Đường lối, chính sách thuận
lòng dân, sự nghiệp của Đảng, của cách mạng trở thành sự nghiệp của nhân
dân. Có dân giúp đỡ, tin tưởng, ủng hộ và bảo vệ thì chế độ mới bền vững.
1.1.1.2. Khái niệm dân vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân vận là vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc
Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" [27, tr.698].
Dân vận được hình dung không chỉ ở con người và tổ chức mà được
hình dung là một hoạt động, bao gồm cả tuyên truyền, giảng giải, thuyết phục,
vừa là phong trào xã hội, từ thi đua yêu nước, vận động đoàn kết, vừa là công
tác thực tế hàng ngày. Đó là công tác để xây dựng xã hội, tổ chức cuộc sống
cho các cộng đồng dân cư, tham gia xây dựng chính thể, thực hành dân chủ,

chống quan liêu tham nhũng, chống tham ô lãng phí.
Mục đích của dân vận là làm cho nhân dân trưởng thành cả ý thức dân
chủ và năng lực làm chủ, nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền nhà
nước và xây dựng các tổ chức, đoàn thể của mình. Qua dân vận mà Đảng,


13
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể cũng trưởng thành, do khắc phục được
những yếu kém, lạc hậu, bất cập và phát huy được những ưu điểm, mặt mạnh,
đảm bảo cho các tổ chức thể hiện đúng tính chất dân chủ, thực sự là tiếng nói
và ý chí của dân, là thực hiện đúng sự trao truyền, ủy quyền của người dân,
thực hiện ý chí, quyền lực nhân dân, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Tùy
thuộc trạng thái, tinh chất và kết quả dân vận như thế nào... mà niềm tin và
hành động của nhân dân, dựa trên các nền tảng khoa học, đạo đức và nhân
văn sẽ như thế ấy.
Dân vận như một hàn thử biểu, một chất chỉ thị màu cho thấy Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tất cả hệ thống chính trị có ảnh
hưởng, tác động đến dân như thế nào và uy tín đối với nhân dân, dân tộc và xã
hội sẽ ra sao? Nói cách khác, qua thực trạng và kết quả dân vận mà đánh giá
được tác dụng và ảnh hưởng của Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong công
tác vận động nhân dân; vì lợi ích và quyền làm chủ của nhân dân.
Dân vận là thước đo của một xã hội phát triển, một nhà nước pháp
quyền, một nền dân chủ và hệ thống chính trị đổi mới, phát triển.
Tầm quan trọng đặc biệt của "Dân vận" đòi hỏi hệ thống chính trị, với
Nhà nước là giường cột phải thực sự là hệ thống chính trị của dân, do dân, vì
dân. Hệ thống chính trị hiện nay đang ra sức đổi mới để khắc phục những yếu
kém và phát huy dân chủ làm cho hệ thống chính trị thực sự là của dân để
phục vụ dân. Đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực của đời sống, các thiết
chế và thể chế, trong đó có hệ thống chính trị để đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa và pháp chế

xã hội.
Trong khái niệm dân vận, rõ ràng có chủ thể và đối tượng, có hoạt động
để thực hiện những quan hệ tương tác và chuyển hóa, có nhiệm vụ và mục
đích, có nội dung và phương pháp thực hiện, có điều kiện để đảm bảo đạt
được kết quả và hiệu quả. Dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, khách thể của


14
dân vận. Với tư cách chủ thể, dân vừa là người chủ, làm chủ, dân cũng vừa
làm dân vận, chứ không chỉ có Đảng hay các cán bộ chuyên trách dân vận
mới làm.
1.1.1.3. Khái niệm công tác dân vận
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh: Công tác dân vận là vận động nhân
dân làm cách mạng. Toàn Đảng phải làm công tác dân vận, phụ trách công tác
dân vận và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công tác này bởi Đảng có trọng
trách lãnh đạo và cầm quyền. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, công tác dân vận
không phải là nhiệm vụ của riêng của một cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ
chức nào. Nghĩa là, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang đều phải có trách nhiệm,
thường xuyên làm công tác dân vận.
Công tác dân vận của Đảng được thực hiện trong điều kiện "nước ta là
nước dân chủ" và do vậy người dân được biết, được bàn, được làm, được
kiểm tra các công việc của Đảng và Chính phủ, trong đó có "công tác dân
vận". Như vậy có thể hiểu rằng, trong công tác dân vận của Đảng không thể
không tính đến dự luận xã hội từ phía người dân. Điều này thể hiện đặc biệt rõ
trong bối cảnh mô hình dân vận ở nước ta đang biến đổi từ mô hình cũ đặc
trưng cho thời kỳ cách mạng, thời kỳ kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thời kỳ đổi mới kinh tế theo cơ chế thị
trường. Nếu dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng để thực hiện mục
tiêu giải phóng và phát triển, vì độc lập tự do của Tổ quốc và dân tộc, vì hạnh

phúc cuộc sống của con người, vì dân chủ và quyền làm chủ thực chất của
nhân dân thì công tác dân vận là công tác cách mạng do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo thực hiện để đạt tới mục tiêu vĩ đại nêu trên. Cũng có thể hình dung
công tác dân vận là một nhiệm vụ cách mạng ở bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, ở
thời kỳ nào của cách mạng cũng có tầm chiến lược quan trọng. Đó cũng là


15
thực hiện một phương thức, một điều kiện căn bản đảm bảo cho cách mạng
thành công.
Công tác dân vận còn cần phải hình dung như một hoạt động diễn ra
trong đời sống xã hội, trước hết trong đời sống chính trị của Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hoạt động đó phải tập hợp, thu
hút, lôi cuốn và thúc đẩy đông đảo toàn dân tham gia. Quần chúng nhân dân
tham gia vào hoạt động ấy, không phải ở tư thế thụ động, bị động, càng không
phải do áp lực, buộc phải tham gia như thực hiện một quyết định hành chính
nào. Hoàn toàn không phải như vậy, mà trái lại, chính quần chúng nhân dân
tham gia một cách chủ động, tự giác, tích cực vào hoạt động ấy với tư tư cách
chủ thể, tư cách người chủ, trên cơ sở dân giác ngộ, dân hiểu biết và dân tin
tưởng vào đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Trong việc xác định
vị thế và vai trò của dân tham gia vào công tác dân vận, cần phải quán triệt
quan điểm của Đảng từ vấn đề con người mà tập hợp đông đảo những con
người trong xã hội, đó là nhân dân.
Công tác dân vận của Đảng rất quan trọng. Trong điều kiện và bối cảnh
hiện nay, nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của dân, trình độ của dân đã khác xa so
với trước. Nhiều vấn đề mới, phức tạp luôn nảy sinh chưa hề có trong các giai
đoạn lịch sử trước đây. Giải quyết mối quan hệ giữa Đảng với dân lúc này đòi
hỏi nhận thức mới, năng lực trí tuệ mới, phương pháp và phong cách mới mà
nổi bật là khoa học - dân chủ - nhân văn. Đảng không chỉ lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới mà toàn Đảng phải coi đổi mới là trường học thực tiễn vĩ đại, toàn

Đảng phải học tập trong trường học ấy với người thầy vĩ đại của mình là cuộc
sống, là dân tộc và nhân dân.
Công tác dân vận do Đảng trực tiếp lãnh đạo là nhiệm vụ, trách nhiệm
tổ chức thực hiện của Nhà nước, chính quyền các cấp; Mặt trận Tổ quốc, đoàn
thể các cấp làm nòng cốt, tham mưu. Công tác dân vận phải thu hút và lôi
cuốn sự tham gia, cộng đồng trách nhiệm, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác các


16
nguồn lực, phối hợp các nguồn lực và sáng kiến hoạt động của tất cả mọi
thành viên của hệ thống chính trị, của cộng đồng xã hội, dân tộc và tôn giáo,
kể cả sự tham gia của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Nhìn từ phía
phương diện công tác xã hội và hoạt động xã hội, công tác dân vận thông qua
các thiết chế tổ chức đại diện của quần chúng hoàn toàn có khả năng thu hút
sự hợp tác quốc tế bằng việc thiết lập các mối quan hệ với các đối tác tương
ứng (các hội và hiệp hội, các tổ chức đoàn kết, hữu nghị với các nước, quốc
tế, khu vực và thế giới, các tổ chức nhân đạo vì hòa bình...).
Để phát triển sự hợp tác, đoàn kết và hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước, còn phải đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhân
dân, một phương thức hỗ trợ rất có hiệu quả cho ngoại giao của Đảng và Nhà
nước, cùng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước vì mục tiêu phục vụ cuộc
sống của nhân dân.
Công tác dân vận chính là toàn bộ hoạt động của Đảng Cộng sản nhằm
vận động, thuyết phục, tập hợp, hướng dẫn mọi tầng lớp nhân dân tiến hành
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Thông qua công tác dân vận mà tăng
cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Trong điều kiện Đảng
cầm quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, mối liên hệ đó được thể hiện bằng
đường lối chính sách của Đảng và việc thực hiện đường lối chính sách đó
thông qua Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thông qua các
tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội và tổ chức Đảng. Mối liên hệ giữa Đảng và

nhân dân là một tất yếu khách quan để giành thắng lợi của cách mạng.
Công tác dân vận không chỉ là trực tiếp vận động mà còn có những
hoạt động không trực tiếp vận động: Dân vận chẳng những phải có người làm
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng và chính
sách Nhà nước, tập hợp tổ chức phong trào thi đua trong nhân dân. Điều này
đã thường làm từ trước đến nay và rất cần thiết, phải thường xuyên coi trọng,
nhưng chưa đủ. Dân vận còn là những hoạt động của tổ chức trong hệ thống


17
chính trị và hoạt động của cá nhân ảnh hưởng làm thay đổi nhận thức, thay
đổi hành động của người dân theo chiều hướng tiến bộ, cách mạng. Như vậy
dân vận không chỉ có những hoạt động trực tiếp vận động nhân dân mà còn có
những hoạt động gián tiếp như: xây dựng đường lối, quan điểm, luật pháp, cơ
chế chính sách; sự trong sạch của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể; sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, việc chức... Những hoạt động
không trực tiếp vận động này lại là yếu tố cơ bản, giải pháp cơ bản của công
tác dân vận. Vấn đề đặt ra ở đây là nghiên cứu và xây dựng quan điểm, giải
pháp cho công tác dân vận lại phải coi trọng việc nghiên cứu tìm ra cả trong
các giải pháp trực tiếp và giải pháp gián tiếp về xây dựng Đảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; đường lối, chủ trương, cơ chế chính sách thực sự vì
dân, do dân và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
gương mẫu cho nhân dân noi theo để làm cơ sở tuyên truyền, vận động nhân
dân tin Đảng, theo Đảng làm cách mạng.
Công tác dân vận phải chú ý việc an dân và quan trọng hơn là phải có
giải pháp để phát huy sức mạnh của nhân dân. Phải tập trung quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng đoàn kết và sự
đồng thuận trong nhân dân; đồng thời phải chăm lo tìm các giải pháp động
viên, bảo đảm phát huy quyền làm chủ và khơi dậy các tiềm năng, sức mạnh
trí tuệ, sự sáng tạo và sức mạnh nội lực của nhân dân; dựa vào dân để xây

dựng Đảng, chính quyền vững mạnh; dựa vào dân để thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương,
đơn vị. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân,
tạo phong trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác Dân vận phải được phân công rõ trách nhiệm cho các tổ chức
trong hệ thống chính trị. Khi bàn tới công tác dân vận phải bàn tới đối tượng


18
dân vận là dân và ai làm dân vận, phân công trách nhiệm như thế nào. Nghị
quyết số 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình
mới" đã chỉ rõ: "Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các
đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang. Trong đó Đảng lãnh
đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, các đoàn thể làm tham mưu,
nòng cốt" [12, tr.2]. Đảng lãnh đạo chính quyền tổ chức thực hiện toàn bộ
công tác dân vận; Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu nòng cốt là quan điểm
mới, là bước phát triển quan trọng về lý luận công tác dân vận của Đảng ta.
1.1.2. Nội dung và lực lượng làm công tác dân vận
1.1.2.1. Nội dung của công tác dân vận
Mục tiêu công tác dân vận của Đảng chính là mục tiêu chung của cách
mạng Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đều
hướng tới mục tiêu: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chỉ rõ: “Các tổ chức Đảng từ Trung ương đến chi
bộ phải lấy công tác vận động và chăm lo lợi ích của quần chúng làm một nội
dung chủ yếu trong hoạt động của mình”.

Nội dung công tác dân vận của Đảng bao gồm hai vấn đề lớn là thực
hiện các nhiệm vụ chính trị và chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân
dân.
Về thực hiện các nhiệm vụ chính trị, tổ chức Đảng và các tổ chức trong
hệ thống chính trị có nhiệm vụ:
Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân như
giáo dục chính trị - tư tưởng, giáo dục đạo đức, nếp sống; nâng cao trình độ
văn hóa, khoa học - kỹ thuật,… của nhân dân.


19
Tạo tiền đề vật chất và pháp lý để động viên, khích lệ, vận động nhân
dân tổ chức thành phong trào thi đua yêu nước nhằm thực hiện thắng lợi mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng.
Vận động, tập hợp, khuyến khích nhân dân tham gia vào các loại hình
tổ chức khác nhau bao gồm: các đoàn thể chính trị - xã hội; các tổ chức xã hội
nghề nghiệp; tổ chức nhân đạo, từ thiện; tổ chức hữu nghị; các hình thức tổ
chức và hoạt động đa dạng khác như câu lạc bộ, các loại hình tự quản ở cơ sở,
tổ hòa giải, nhóm nhu cầu, sở thích,...
Về chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, tổ chức Đảng
và các tổ chức trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ:
Cải thiện dân sinh, tức là chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của mỗi người dân và cả cộng đồng dân cư, bao gồm các điều kiện về ăn,
ở, mặc, học hành, đi lại, bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, môi trường sống,…
Nâng cao dân trí: làm sao cho nhân dân ai cũng được học hành, được
nâng cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật, được hưởng thụ văn hóa, nghệ
thuật, thông tin, được chăm lo lợi ích xã hội: y tế, thể thao, du lịch; chăm lo
lợi ích tâm tinh, thực hiện tự do tín ngưỡng; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên

các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua Nhà nước, các đoàn thể nhân dân
và làm chủ trực tiếp.
1.1.2.2. Lực lượng làm công tác dân vận
Trong mọi thời kỳ cách mạng, công tác dân vận luôn có tầm chiến lược
hết sức quan trọng, là một trong những nhân tố góp phần quyết định thắng lợi
của dân tộc. Vậy ai là người có trách nhiệm làm công tác dân vận? Trong bài
báo "Dân vận", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất
cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt,
Việt Minh,...) đều phải phụ trách dân vận" [27, tr.699]. Qua thực tiễn cách


20
mạng, cũng như quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khẳng
định tất cả cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân đều là lực
lượng làm dân vận. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, mỗi thành
viên trong hệ thống chính trị phải làm công tác dân vận theo những phương
thức khác nhau và phải luôn phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình làm
dân vận.
Đảng phải đề ra đường lối, chính sách và phương thức lãnh đạo các giai
cấp, tầng lớp nhân dân một cách phù hợp để đường lối, chính sách của Đảng
đi vào lòng dân, khơi dậy và phát huy tính tích cực, sáng tạo của mỗi người
dân để mỗi người dân có thể phát huy nội lực, tự giác và quyết tâm đóng góp
trí tuệ, công sức, tiền của thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Muốn vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trước khi
thông qua, ban hành, cần trưng cầu dân ý và thực hiện đúng lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đó là: Luôn luôn gần gũi nhân dân; ra sức nghe ngóng và
hiểu biết nhân dân; học hỏi nhân dân; lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên
truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức, dựa vào nhân dân để thực hiện
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
“Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân" [28, tr.88-89]. Hiện nay,

chúng ta đang đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, trong đó có nội dung học cách làm dân vận của Người. Rõ ràng, học cách
làm dân vận của Bác sẽ thu hút được trí tuệ của toàn dân, của toàn xã hội vào
việc hoạch định chính sách sát với thực tế, mang tính khả thi cao.
Dân vận không chỉ là công việc của Đảng, mà còn là công việc của
chính quyền. Chính quyền và cán bộ của chính quyền phải coi trọng và tham
gia công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, mọi tổ chức, mọi quyền lực, mọi
cán bộ nhân viên Nhà nước đều không được quên rằng:
“Nhiệm vụ của Chính quyền ta và Đoàn thể ta là phụng sự nhân dân.
Nghĩa là làm đầy tớ cho dân.


21
Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi
cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
[28, tr.88].
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước làm việc là vì lợi ích của nhân dân do đó
Nhà nước phải là người đại diện trung thành của nhân dân. Mọi cán bộ, nhân
viên Nhà nước không thể là "quan cách mạng", mà phải là "đầy tớ" của nhân
dân, mà đầy tớ "làm việc cho nhân dân phải làm cho tốt". Phục vụ nhân dân
trở thành điều kiện tồn tại của Nhà nước, của Chính phủ. Hồ Chí Minh còn
nhấn mạnh: "Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên
hết thảy" [28, tr.22]; "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ" [27, tr.60].
Sức mạnh của Đảng, của Nhà nước là ở sự gắn bó máu thịt với nhân
dân. Trách nhiệm dân vận của cơ quan chính quyền xuất phát từ bản chất
của Nhà nước ta - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Khi Đảng trở thành
Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân chủ yếu thông qua
mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân. Chính quyền làm tốt thì Đảng
có uy tín; ngược lại, chính quyền phục vụ nhân dân không chu đáo, cán bộ

cửa quyền, hách dịch thì uy tín của Đảng sẽ giảm. Với chức năng và nhiệm
vụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội, hầu hết các hoạt động của cơ quan
chính quyền đều có quan hệ với đông đảo nhân dân; tác động trực tiếp đến
đời sống vật chất và tinh thần, đến tư tưởng và tình cảm, đến việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của công dân, cho nên cơ quan chính quyền, cán bộ
chính quyền phải làm công tác dân vận. Cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo cơ
quan chính quyền thực hiện thường xuyên và có hiệu quả công tác dân vận
trên các lĩnh vực theo chức trách và khả năng của chính quyền.
Chính quyền làm dân vận bằng các chính sách đúng đắn trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng; bằng việc
tổ chức điều hành để giải quyết đúng đắn, hiệu quả các vấn đề liên quan đến


×