Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số phương pháp phong ngừa và hạn chế rủi ro đầu tư cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.02 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu........................................................................i
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay...................................iii
2.2. Các tác nhân gây rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam....................iv
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển thị trường chứng khoán
đến năm 2020.................................................................................................viii
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu......................................................................3
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay....................................11
2.2. Các tác nhân gây rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam...................17
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển thị trường chứng khoán
đến năm 2020...................................................................................................55


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK:

Thị trường chứng khoán

CTCK:
SGDCK:
NHNN:
NHTƯ:
UBCKNN:
CPI:
GDP:

Công ty chứng khoán
Sở giao dịch chứng khoán
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng trung ương
Ủy ban chứng khoán nhà nước


Chỉ số giá tiêu dùng
Tổng sản phẩm quốc nội


DANH MỤC BẢNG BIỂU
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu........................................................................i
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay...................................iii
2.2. Các tác nhân gây rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam....................iv
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển thị trường chứng khoán
đến năm 2020.................................................................................................viii
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu......................................................................3
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay....................................11
2.2. Các tác nhân gây rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam...................17
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển thị trường chứng khoán
đến năm 2020...................................................................................................55


i

...............................CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
RỦI RO VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
1.1.1. Khái niệm rủi ro cổ phiếu
Trong đầu tư cổ phiếu, rủi ro chính là sự thay đổi liên tục của giá cổ
phiếu. Nói cách khác khi đầu tư vào TTCK, nhà đầu tư không thể chắc chắn
về lợi nhuận thu được.
1.1.2. Phân loại rủi ro
Rủi ro hệ thống
- Rủi ro thị trường
- Rủi ro lãi

- Rủi ro về sức mua
Rủi ro không hệ thống
- Rủi do kinh doanh
- Rủi ro tài chính
1.1.3. Đo lường rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
Rủi ro đối với một cổ phiếu riêng lẻ:
- Phương sai (δ2)
- Độ lệch chuẩn (δ)
- Hệ số biến đổi (C)
Rủi ro đối với một danh mục cổ phiếu:
- Hệ số tích sai (Covariance)
- Hệ số tương thích (Correlation)
- Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư
- Phương sai của danh mục đầu tư hai cổ phiếu
- Độ lêch chuẩn của danh mục đầu tư
- Hệ số beta (β)


ii

1.2. Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
- Hạn chế rủi ro để đầu tư bền vững và nâng cao lợi nhuận là chiến lược
quan trọng của mỗi nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán.
- Quản lý rủi ro tốt chính là một trong những phương pháp đầu tư tạo ra
giá trị, góp phần tạo ra chiến lược đầu tư hiệu quả hơn.
- Một số giải pháp hạn chế rủi ro được sử dụng phổ biến là: đa dạng hóa
danh mục đầu tư, quản trị rủi ro, quản lý danh mục đầu tư, xây dựng chiến
lược đầu tư, sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh....



iii

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ
CỔ PHIẾU TẠI VIỆT NAM
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay
Tháng 7/2000 khi mở cửa Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ
Chí Minh với 02 công ty niêm yết ban đầu. Giai đoạn 5 năm phát triển tiếp
theo từ năm 2006-1010, TTCK Việt Nam đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ.
Tính đến 31/12/2010 có 649 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết tại cả hai
SGDCK, với tổng giá trị niêm yết đạt hơn 200.000 nghìn tỷ đồng, tăng gấp
nhiều lần so với số 4,94 nghìn tỷ đồng cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hoá
thị trường là 726.000 tỷ đồng, tương đương 39% GDP năm 2010.
Những tồn tại của thị trường :
- Khuôn khổ pháp lý chưa thực sự đồng bộ và khó bao quát được thực
tiễn hoạt động của thị trường.
- Hệ thống kiểm toán còn hạn chế, các quy định về kế toán tài chính
doanh nghiệp và chế độ kế toán doanh nghiệp còn đang trong quá trình hoàn
thiện.
- Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chưa thực sự tương xứng
với tiềm năng của nền kinh tế.
- Các nhà đầu tư cá nhân có nhiều hạn chế về mặt kiến thức và kinh
nghiệm đầu tư. Các giao dịch trên thị trường diễn ra theo theo xu hướng số
đông. Diễn biến giao dịch không phản ánh đúng các quy luật của Thị trường.
- Giao dịch OTC chưa được quản lý, tự phát, thiếu thông tin, không
minh bạch, làm ảnh hưởng đến quyền lợi các nhà đầu tư.
- Vai trò của các CTCK trong hoạt động môi giới còn hạn chế trong
việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới, tư vấn đầu tư cho khách hàng. Cơ
sở hạ tầng phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán còn chưa đồng bộ.



iv

- Hoạt động của các tổ chức trung gian được mở rộng nhưng vấn đề
quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế, nhất là trong việc đáp ứng các chỉ tiêu an
toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn chưa mạnh, mức độ
răn đe còn hạn chế, còn có nhiều vi phạm xảy ra.
2.2. Các tác nhân gây rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam
2.2.1. Tác động từ nền kinh tế thế giới
Bất ổn vĩ mô
Sự mất cân bằng kéo dài trong khu vực tài chính và khu vực tài khóa tại
các nền kinh tế phát triển gây ra những bất ổn về kinh tế vĩ mô và hoạt động
tài chính-ngân hàng toàn cầu; giá dầu tăng cao làm tăng chi phí đầu vào và
tình trạng thất nghiệp tại các nước phát triển vẫn chưa được cải thiện nhiều;
nguy cơ khủng hoảng nợ công lan rộng sang nhiều nước tại khu vực châu Âu
gây rủi ro đối với hệ thống tài chính khu vực và toàn cầu; trong khi đó nhiều
quốc gia đang phát triển và mới nổi lại đang bước vào giai đoạn tăng trưởng
kinh tế nóng với áp lực lạm phát cao là dấu hiệu của việc kinh tế có thể tăng
trưởng chậm lại.
Nguy cơ lạm phát
Lạm phát ở các quốc gia phát triển có dấu hiệu tăng nhanh hơn các
quốc gia đang phát triển. Mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng
kỳ năm trước tính đến cuối tháng 5-2011 tại Mỹ là 3,6%, cao nhất kể từ tháng
7/2008, tại Anh là 4,5%, Singapore là 4,48%, Canada là 3,7%; tính đến cuối
tháng 6-2011 tại khu vực Eurozone là 2,7% và tại Hàn Quốc là 4,4% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ và hoạt động ngân hàng
- Đô la giảm giá, vàng tăng giá.
- Tăng lãi suất để ứng phó.



v

- Thâm hụt ngân sách và nợ công tiếp tục diễn biến xấu.
- Vốn đầu tư trực tiếp tăng, gián tiếp giảm.
2.2.2. Tác động từ nền kinh tế trong nước
- Thâm hụt ngân sách vẫn là gánh nặng.
- Vốn đầu tư FDI có dấu hiệu suy yếu, nhưng cơ cấu có dịch chuyển
tích cực.
- Chỉ số giá tiêu dùng vẫn duy trì ở mức cao.
- Tỷ giá USD/VND vẫn chịu sức ép lớn vào cuối năm.

- Chính sách tiền tệ dự báo sẽ tiếp tục thắt chặt để kiềm chế lạm phát.
2.2.3. Hạn chế về thông tin
- Hệ thống thu thập, lưu giữ, xử lý và phổ biến thông tin còn nhiều bất
cập.
- Chất lượng thông tin.
- Năng lực phân tích thông tin và phổ biến thông tin còn hạn chế.
2.2.4. Hạn chế về phía nhà đầu tư
Có thể nói là các quyết định của người đầu tư mang nặng cảm tính và
tâm lý đám đông, hàm lượng tri thức đầu tư trong đó còn rất thấp. Dễ dàng
nhận thấy điều đó qua hành vi đổ xô vào mua lấy được, rồi sau ít tháng lại thi
nhau bán ra trong sự hoảng loạn thất vọng mà không có một lý giải nào thỏa
đáng (tham lam và sợ hãi chi phối quá mạnh). Chính tình hình này là một tác
nhân tiêu cực dẫn đến những biến động của TTCK.
2.2.5. Rủi ro từ các quy định và chất lượng dịch vụ của các sàn, sở
giao dịch và công ty chứng khoán
- Hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì không thể
hủy ngang lệnh đã đặt mua hàng bán trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, dễ
gây tình trạng cung – cầu ảo trên thị trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá

tải.


vi

- Khớp lệnh liên tục có thể gây rủi ro cho nhà đầu tư theo 2 cách:
+ Rủi ro vì lệnh mua – bán bị nhập vào hệ thống chậm hơn so với các
nhà đầu tư khác
+ Rủi ro vì phải mua – bán bằng hết các chứng khoán đã đặt lệnh theo
mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao
- Rủi ro gắn với sự điều chỉnh quy định về số lượng giao dịch cổ phiếu
thực hiện:
+ Không thể xé nhỏ các khoản đầu tư như trước, vì đã “bỏ hết trứng vào
một giỏ”.
+ Không có cơ hội mua chứng khoán tốt vì chỉ được giao dịch theo lô
lớn.
2.2.6. Rủi ro đến từ các thị trường khác
Với một thị trường tiền tệ kém phát triển, những thay đổi trong tương
quan cung – cầu vốn được phản ánh rất chậm trong biến động lãi suất, và càng
chậm trong giá cả của các công cụ tài chính. Thiếu các hàng hóa trên thị
trường vốn ngắn hạn, gánh nặng cung cấp dịch vụ cho vay (kể cả dài hạn) đổ
lên hệ thống ngân hàng. Trong điều kiện còn chịu nhiều áp lực hành chính
trong việc thực hiện các khoản cho vay, tình trạng này càng làm tăng thêm sự
bóp méo về giá cả, lợi nhuận.
2.2.7. Những rủi ro tiềm ẩn trong đầu tư cổ phiếu
- Nguy cơ đầu cơ, lũng đoạn thị trường: Giá cổ phiếu giảm không phải
do cung cổ phiếu tăng mà phụ thuộc vào sự điểu chỉnh của nhà đầu cơ. Dù
không muốn, họ cũng sẽ điều chỉnh theo hướng duy trì giá thấp của các
bluechip (những cổ phiếu dẫn đầu thị trường) không chỉ vì lợi nhuận và còn vì
khả năng tài chính của họ.

- Sự quá phụ thuộc vào luồng vốn quốc tế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc
kinh tế và thậm chí là chính trị. Khi tham gia vào quá trình hội nhập, TTCK


vii

Việt Nam cũng có nguy cơ đối đầu với sự biến dạng của yếu tố này nếu không
có những biện pháp phòng ngừa hợp lý.
2.3. Thực trạng hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam
- Nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm đến việc phòng ngừa và hạn chế rủi
ro. Đầu tư chủ yếu theo số đông.
Thông tin kinh tế vĩ mô, thông tin về tình hình kinh doanh hoặc nội bộ
doanh nghiệp tác động lớn đến hoạt động đầu tư ngay cả khi là những thông
tin thiếu căn cứ, bị đồn thổi.
- Giải pháp phòng ngừa rủi ro được nhà đầu tư sử dụng nhiều nhất là đa
dạng hóa danh mục đầu tư nhưng việc đa dạng hóa chưa thực sự hiệu quả.
- Việc đầu tư hiện nay hầu như trong ngắn hạn, chưa có sự đầu tư thực
sự mà chủ yếu là đầu cơ khiến nguy cơ rủi ro càng cao.


viii

CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO
TRONG ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển thị trường
chứng khoán đến năm 2020
3.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với nhà đầu tư cá nhân
3.2.1. Quản trị rủi ro
Bước 1: Nhận dạng rủi ro

Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro
Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm
rủi ro.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp
3.2.2. Xây dựng chiến lược đầu tư hiệu quả
- Bước 1: Xác định nhóm các công cụ đầu tư. Thông thường có 3 loại
công cụ chính là: cổ phiếu, trái phiếu và các khoản đầu tư ngắn hạn dễ chuyển
thành tiền mặt.
- Bước 2: Xác định tỷ lệ đầu tư cho mỗi nhóm công cụ. Tỷ lệ đầu tiên
được xác định dựa vào mục tiêu đầu tư và các điều kiện của nền kinh tế như
lãi suất, lạm phát…
- Bước 3: Xác định các loại cổ phiếu cụ thể cho mỗi công cụ đầu tư,
đồng thời xác định tỷ lệ cho từng chứng khoán đã lựa chọn.
3.3. Một số kiến nghị đối với ủy ban chứng khoán và các cơ quan
chức năng có liên quan
3.3.1. Gia tăng chất lượng và chủng loại hàng hóa
- Đưa các công ty lớn, có khả năng chi phối lớn tới nền kinh tế vào
niêm yết


ix

- Gia tăng loại hình quỹ đầu tư.
- Cho ra đời các loại công cụ phái sinh.
3.3.2. Đa dạng hóa các loại hình giao dịch
Đưa vào thị trường các loại giao dịch: giao dịch lô lẻ, giao dịch lô lớn,
giao dịch đấu thầu, quyền mua cổ phiếu, chứng quyền của tổ chức phát
hành....
3.3.3. Cung cấp thông tin đầy đủ

Hệ thống thông tin được tổ chức một cách bài bản, hệ thống, với những
dự báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được đưa ra có tính khoa học và có sức
thuyết phục thì không những nó có tính giáo dục rất cao, khuyến khích những
người đầu tư tiềm năng đang thực sự quan tâm tới việc bỏ vốn dài hạn.
3.3.4. Phát triển chế độ thanh toán không dùng tiền mặt
Nhà đầu tư sẽ e ngại khi đưa số tiền của mình vào tài khoản và chịu sự
giám sát quản lý của các cơ quan quản lý thị trường trong khi đó nếu họ
không mở tài khoản họ có thể dùng số tiền mặt đó để giao dịch tùy ý mà
không chịu sự giám sát của cơ quan nào, hơn nữa lại có thể bớt được một
khoản phí khi mở tài khoản. Do đó, để các nhà đầu tư mạnh dạn hơn trong
việc thực hiện các giao dịch trên SGD, hạn chế hoạt động của TTCK ngầm, và
cũng nhằm nâng cao khả năng quản lý của cơ quan quản lý, phải đẩy mạnh
việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt.
3.3.5. Điều chỉnh các chuẩn mức kế toán gần với các chuẩn mực
quốc tế
Sớm ban hành đầy đủ các chuẩn mực kế toán phù hợp với các chuẩn
mực kế toán quốc tế là một giải pháp không thể thiếu để các nhà đầu tư có thể
quản lý được các khoản đầu tư của mình một cách hiệu quả.


x

3.3.6. Chủ động chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới của thị
trường
Năng lực cạnh tranh trong tương lai của doanh nghiệp phải được xem
xét như là một yếu tố hàng đầu cho một khoản đầu tư an toàn và dài hạn. thực
trạng và hành vi của doanh nghiệp cần được năm bắt và phân tích đầy đủ
trong bối cảnh những điều chỉnh chính sách hướng tới hội nhập của Chính
phủ.
3.4. Một số kiến nghị đối với Chính phủ

3.4.1. Tạo dựng sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp
- Tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp như là một biện
pháp để nang cao hiệu quả quản lý rủi ro trên TTCK.
- Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo định hướng đã đề ra,
cũng cần xác định lại quan niệm về độc quyền Nhà nước.
3.4.2. Hoàn thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật và tăng cường quản lý
giám sát thị trường
- Nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống giao dịch và giám sát thị trường của
SGD;
- Tổ chức và hoàn thiện các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các
hoạt động trên thị trường.
3.4.3. Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế lĩnh vực chứng
khoán và TTCK
Tư vấn xây dựng các chính sách phát triển và quản lý thị trường, xây
dựng khuôn khổ pháp luật chứng khoán, đào tạo đội ngũ cán bộ; từng bước
mở cửa và hội nhập với các TTCK trên thế giới theo lộ trình đã cam kết.


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 7 năm 2000, TTCK Việt Nam ra đời, là sự kiện quan trọng, đánh
dấu một bước tiến mới của nền kinh tế đất nước. Sau gần 11 năm đi vào hoạt
động, TTCK Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, được đánh giá là một trong
những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới. Tới nay, TTCK đã là điểm
đến quen thuộc của giới đầu tư. Tuy có những bước trưởng thành nhất định
nhưng một thực trạng đáng chú ý là chứng khoán vẫn là lĩnh vực mới mẻ và
chứa đựng nhiều rủi ro. Một số nhà đầu tư bắt đầu trang bị cho mình kiến thức
chứng khoán nhưng không ít người đổ xô vào chứng khoán với tâm lý “chơi

là được” mà không lường hết những rủi ro có thể gặp phải. Trước tình hình
ấy, chúng ta cần nghiên cứu về rủi ro trong đầu tư cổ phiếu một cách có hệ
thống, để các nhà đầu tư có những quyết định đầu tư đúng đắn hiệu quả mà
vẫn giảm thiểu được rủi ro.
2. Mục đích của đề tài
Với đề tài “Hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam”, dựa trên
hệ thống lý thuyết về thị trường tài chính và thực trạng đầu tư trên TTCK Việt
Nam từ năm 2000 đến nay, luận văn cố gắng tìm hiểu bản chất và những
nguyên nhân gây rủi ro chứng khoán, từ đó nêu ra một số kiến nghị và giải
pháp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu:
- Khái nhiệm rủi ro trong đầu tư cổ phiếu và sự cần thiết phải hạn chế rủi
ro trong đầu tư cổ phiếu
- Tìm hiểu thực trạng hạn chế rủi ro đối với các nhà đầu tư cá nhân trong
đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam.
- Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro


2

4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành bằng cách:
- Theo dõi và thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của TTCK Việt
Nam, trong đó tập trung vào cổ phiếu.
- Lập bảng hỏi và tiến hành khảo sát với 300 nhà đầu tư thường xuyên
giao dịch cổ phiếu, tham gia đầu tư cổ phiếu trong vòng từ 3 năm đến thời
điểm khảo sát để tìm hiểu thực trạng hạn chế rủi ro cổ phiếu tại Việt Nam hiện
nay.
- Dựa trên thực trạng hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư cá nhân hiện nay

để đề xuất một số biện pháp phòng chống, hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ
phiếu tại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hạn chế rủi ro trong đầu
tư cổ phiếu.
- Phân tích thực trạng rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại TTCK bằng việc
phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro.
- Đánh giá thực trạng hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư cá nhân.
- Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về rủi ro và hạn chế rủi ro trong đầu tư
cổ phiếu.
Chương II: Thực trạng hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại Việt
Nam.
Chương III: Một số biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong đầu
tư cổ phiếu.


3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
RỦI RO VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
1.1. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
1.1.1. Khái niệm rủi ro cổ phiếu
Rủi ro (Risk): Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi
ro. Những trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định
nghĩa rủi ro khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng,
nhưng tập trung lại có thể chia thành hai trường phái lớn: Theo trường phái
truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát,

nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ xảy đến.
Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi
nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra
trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự
tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không
chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự
bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực.
Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có
thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro,
người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu
cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
Trong đầu tư cổ phiếu, rủi ro chính là sự thay đổi liên tục của giá cổ
phiếu. Nói cách khác khi đầu tư vào TTCK, nhà đầu tư không thể chắc chắn
về lợi nhuận thu được.


4

Rủi ro xảy ra ngay cả khi con người ta không quyết định đầu tư mà
dùng số tiền mình có thể tiết kiệm. Ví dụ khi cất tiền trong nhà thì vẫn xảy ra
khả năng mất trắng do nhà bị cháy; hoặc khi gửi tiền vào ngân hàng thì người
gửi có thể đối đầu với khả năng sức mua của cộng đồng đô la bị giảm do ảnh
hưởng của lạm phát khiến giá trị thực tế của đồng đô la nhận được thấp hơn
khi gửi tiền. Khi đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc quỹ tương hỗ cũng có
những rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau.
Đại đa số các nhà đầu tư đều mong muốn kiếm được càng nhiều tiền
càng tốt trên khoản đầu tư của họ. Tuy nhiên, hầu như tất cả các khoản đầu tư
đều mang theo một sự không chắc chắn. Một thực tế mà người đầu tư phải

chấp nhận khi đầu tư cổ phiếu, đó là sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Không có gì ngạc nhiên khi những khoản đầu tư tiết kiệm ít rủi ro hơn những
ngược lịa tiền lãi nhận được không đáng kể.
Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu là không thể tránh khỏi, nhưng vẫn có thể
kiểm soát nó. Kiểm soát rủi ro tức là việc có thể tăng lợi nhuận tối đa trong
khi vẫn giảm thiểu được rủi ro. Làm được như vậy nghĩa là người đầu tư đã có
một lợi nhuận hợp lý với mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Mỗi nhà đầu tư có thái độ khác nhau đối với rủi ro, nhưng có ba loại
thái độ phổ biến là ưa thích rủi ro (risk seeker), trung dung với rủi ro (risk
neutral), và không thích rủi ro (risk a verse).
1.1.2. Phân loại rủi ro
Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu nói chung là rất đa dạng nhưng xét ở phạm
vi rộng có thể phân làm hai loại là rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống.
Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống do toàn bộ thị trường quyết định và người đầu tư không
thể tác động lên rủi ro này. Nó bao gồm những rủi ro nằm ngoài công ty,
không thể kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi. Nhưng thay đổi về kinh


5

tế, chính trị, xã hội là nguồn của rủi hệ thống. Tác động của nó khiến cho đa
số các loại cổ phiếu riêng lẻ dao động theo cùng một hướng. Bình quân
khoảng một nửa tổng sổ rủi ro của cổ phiếu phổ thông là rủi ro hệ thống.
Những công ty chịu ảnh hưởng lớn của rủi ro hệ thống là những công ty mà
doanh số, lợi nhuận, giá cả chứng khoán theo sát các diễn biến kinh tế và
những diễn biến trên TTCK; và thường là các công ty trong các ngành công
nghiệp cơ bản và khai khoáng.
Một số rủi ro chính trong rủi ro hệ thống:
- Rủi ro thị trường

- Rủi ro lãi
- Rủi ro về sức mua
Rủi ro không hệ thống
Ngược lại với rủi ro hệ thống, những yếu tố nội tại có thể kiểm soát
được và chỉ tác động đến một ngành hay một công ty như khả năng quản lý,
thị hiếu tiêu dùng hay những yếu tố khác gắn với thu nhập của công ty được
gọi là rủi ro không hệ thống tương đối cao; và doanh số, lợi nhuận, giá cả cổ
phiếu của những công ty này không phụ thuộc nhiều vào các diễn biến kinh tế
hay tình hình TTCK.
Rủi ro không hệ thống bao gồm một số rủi ro chính như sau:
- Rủi do kinh doanh
- Rủi ro tài chính
Ngoài ra, rủi ro không hệ thống còn có thể tính đến rủi ro hoạt động phi
pháp, tức khả năng chủ sở hữu, người quản lý, nhân viên công ty chứng khoán
hay các công ty niêm yết hoặc khách hàng cố ý vi phạm các quy định về ngăn
ngừa các giao dịch không công bằng, hoạt động lừa đảo dẫn đến các khoản lỗ
cho người đầu tư, hay công bố những thông tin không đầy đủ và chính xác trái
với quy định gây hiểu lầm cho người đầu tư.


6

1.1.3. Đo lường rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
Các nhà đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán đều muốn đạt tới mức lợi
nhuận cao nhất với mức rủi ro thấp nhất. Muốn làm được điều này nhà đầu tư
cần phải nắm được một số hệ số thông dụng để đánh giá mức độ an toàn của
chứng khoán.
Đối với cổ phiếu, có rất nhiều chỉ số tài chính đánh giá mức độ rủi ro
cũng như cơ hội đầu tư cổ phiếu. Ở đây, chúng ta chỉ tập trung vào các phép
đo lường rủi ro cổ phiếu riêng lẻ và danh mục cổ phiếu và các chỉ số như

beta…
Phép đo lường rủi ro cổ phiếu bao gồm: Rủi ro đối với một cổ phiếu
riêng lẻ, thông qua lợi nhuận kỳ vọng, phương sai, độ lệch chuẩn, hệ số biến
đổi; và rủi ro đối với một danh mục cổ phiếu
Rủi ro đối với một cổ phiếu riêng lẻ:
Phương sai (δ2) là thước đo độ phân tán trong đó phản ánh những
khoản chênh lệch giữa những mức lợi nhuận có thể nhận được với mức lợi
nhuận kỳ vọng. Dải các mức lợi nhuận có thể nhận được càng rộng, hay độ
phân tán các ước tính xác suất càng lớn thì giá trị của phương sai sẽ càng lớn.
Một khoản đầu tư có phương sai bằng 0 thì chỉ có một khả năng lợi nhuận,
một lợi nhuận chắc chắn, và không có rủi ro. Bất kỳ một giá trị phương sai
nào khác (phương sai luôn là số dương) cũng đều hàm ý một mức độ rủi ro
nhất định; phương sai càng lớn thì rủi ro cũng càng lớn.
Độ lệch chuẩn (δ) cũng là một thước đo hay được sử dụng, đơn giản là
căn bậc hai của phương sai. Nó không chứa đựng nhiều thông tin hơn phương
sai, nhưng nó cho phép xác định những ước tính xác suất về những sự kiện
trong tương lai. Cần phải tính độ lệch chuẩn để tính toán được hệ số biến đổi.
Hệ số biến đổi (C) hay còn gọi là hệ số độ lệch chuẩn (δ ratio) là hệ so
sánh độ lệch chuẩn để so sánh khi hai cổ phiếu có lợi nhuận kỳ vọng bằng


7

nhau. Trong thực tế ít có trường hợp như vậy nên sử dụng hệ số biến đổi đem
lại cái nhìn chính xác hơn.
Cần lưu ý rằng cho dù rủi ro của các cổ phiếu riêng lẻ có lớn đến đâu đi
nữa, song nếu kết hợp các cổ phiếu lại với nhau trong một danh mục đầu tư
theo một cách nào đó, thì rủi ro tổng thể của danh mục giảm đi những lợi
nhuận kỳ vọng thì không nhất thiết giảm. Để tìm hiểu vấn đề này chúng ta cần
xem xét cách lượng hóa rủi ro với một danh mục cổ phiếu.

Rủi ro đối với một danh mục cổ phiếu:
Hệ số tích sai (Covariance) được tính bằng cách cộng tất cả tích của hai
độ lệch chuẩn của hai cổ phiếu trong từng tình trạng khác nhau của nền kinh
tế và chia trung bình. Trong đó độ lệch chuẩn bằng căn bậc hai của phương
sai, và phương sai từng cổ phiếu là trung bình của tổng bình phương các độ
lệch. Nếu hệ số tích sai dương, điều đó có nghĩa là hai cổ phiếu có mối quan
hệ cùng chiều và trong cùng một tình trạng kinh tế, lợi nhuận của hai cổ phiếu
đều cùng cao hơn hoặc thấp hơn lợi nhuận kỳ vọng. Còn nếu hệ số tích sai
âm, lợi nhuận của hai cổ phiếu có mối quan hệ ngược chiều và trong cùng một
tình trạng kinh tế nếu lợi nhuận của cổ phiếu này trên mức lợi nhuận kỳ vọng
thì lợi nhuận của cổ phiếu kia sẽ thấp hơn lợi nhuận kỳ vọng. Tuy nhiên, hệ số
tích sai chưa chỉ ra được mức độ liên hệ theo một chuẩn mực dễ hình dung
nên chúng ta tính thêm hệ số tương thích.
Hệ số tương thích (Correlation) được tính bằng cách chia hệ số tích sai
cho tích hai độ lêch chuẩn của hai cổ phiếu; và lúc đó, thước đo được giới hạn
từ -1 đến +1. Hệ số tường thích dương thể hiện lợi nhuận hai cổ phiếu có quan
hệ cùng chiều nhau, và hệ số tương thích dương càng lớn thì hai cổ phiếu đó
càng có dao động giống nhau, bằng +1 tức là hai cổ phiếu hoàn toàn có dao
động giống nhau. Hệ số tương thích âm chỉ sự dao động ngược chiều và càng
lớn thì dao động ngược chiều đó càng nhiều.


8

Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là trung bình trọng số của lợi
nhuận kỳ vọng của các cổ phiếu riêng lẻ nằm trong danh mục
Phương sai của danh mục đầu tư hai cổ phiếu bao gồm phương sai của
từng cổ phiếu và hệ số tích sai giữa hai cổ phiếu. Nếu hệ số tích sai dương,
phương sai của toàn danh mục sẽ tăng lên; ngược lại, nếu hệ số tích sai âm,
phương sai của toàn danh mục sẽ giảm

Độ lêch chuẩn của danh mục đầu tư được tính bằng cách lấy căn bậc
hai của phương sai danh mục đầu tư.
Hệ số beta (β)
Rủi ro đầu tư cổ phiếu đó là sự bất ổn, sự biến thiên có khả năng của lợi
nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Thông thường để đo lường rủi ro
người ta dùng phân phối xác suất với các tham số đo lường phổ biến là
phương sai, độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên. Tuy nhiên, luận vănnày đề cập
đến một chỉ tiêu đánh giá rủi ro đầu tư cổ phiếu được sử dụng phổ biến, đó là
hệ số beta (β)
Hệ số beta được định nghĩa như là hệ số đo lường mức độ biến động lợi
nhuận cổ phiếu cá biệt so với mức độ biến động lợi nhuận danh mục cổ phiếu
thị trường.
Ý nghĩa của hệ số β
β được định nghĩa là hệ số đo lường sự biến động của lợi. Cho nên, β được
xem như hệ số đo lường rủi ro đầu tư cổ phiếu. Do đó, lợi nhuận kỳ vọng của
một loại chứng khoán có hệ dương với số β của nó.
Mặt khác, hệ số β cũng có thể hiện so với rủi ro thị trường.
Lợi nhuận của chứng khoán có quan hệ cùng chiều với rủi ro đầu tư cổ
phiếu, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, nghĩa là nhà đầu tư kỳ vọng
chứng khoán có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.


9

1.2. Sự cần thiết của việc hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
Trong thực trạng nền kinh tế phát triển nhanh như ở Việt Nam những
năm từ thập niên 90 đến năm 2007, khi mà tình hình thị trường diễn biến khá
thuận lợi, rất nhiều cơ hội, giao dịch kinh tế được thực hiện một cách dễ dàng
và có lợi cho các bên… thì phần lớn nhà đầu tư đều đầu tư thành công, dù ở
cấp độ nhiều hay ít, mà không tính đến dài hạn hay ngắn hạn. Các rủi ro khi

đó được giảm thiểu một cách khách quan từ thị trường và do đó bị xem nhẹ
một cách đáng tiếc. Tuy nhiên, khi nền kinh tế có dấu hiệu chững lại và kém
thuận lợi, bắt đầu từ lạm phát cao, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đến việc
khan hiếm nguồn lực tài chính cùng áp lực lãi suất cao và gần nhất là tác động
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhà đầu tư sẽ phải
đương đầu với mặt trái của các biến động - các rủi ro kinh doanh. Một yếu tố
có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thành công, khả năng vượt qua tình trạng
khó khăn hiện nay, thậm chí khả năng tồn tại của các nhà đầu tư chính là việc
họ có hay không một cơ chế nhận diện, kiểm soát và hạn chế rủi ro. Nếu làm
tốt điều này, nhiều nhà đầu tư có thể biến rủi ro thành cơ hội cho mình.
Hạn chế rủi ro để đầu tư bền vững và nâng cao lợi nhuận là chiến lược
quan trọng của mỗi nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư muốn thu được lợi suất cao thì phải quản lý được những rủi
ro có thể xảy ra với mình. Một trong những vấn đề nhà đầu tư cần quan tâm là
quản lý rủi ro trong việc hoạch định chiến lược và lập kế hoạch đầu tư. Các
mục tiêu chiến lược và kế hoạch đầu tư phải phù hợp với khả năng tài chính
và xu hướng phát triển của thị trường, thích nghi được với những thay đổi bất
ngờ hoặc với những thay đổi mang chiều hướng xấu của thị trường hoặc bản
thân doanh nghiệp . Nhà đầu tư cần lựa chọn chiến lược, xem xét những ảnh
hưởng của chúng và phân bổ tỷ lệ đầu tư, có tính đến mức độ rủi ro có thể
chấp nhận được nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn từ các khoản đầu tư.


10

Đồng thời, đối với các sự kiện và rủi ro khi xảy ra sẽ có thể ảnh hưởng đến
việc thực hiện chiến lược hoặc việc đạt được các mục tiêu. Các sự kiện có tác
động tích cực được coi là cơ hội, các sự kiện có ít khả năng xảy ra sẽ vẫn
được xem xét nếu chúng có tác động lớn đến việc đạt được mục tiêu lợi
nhuận.

Do đó mỗi nhà đầu tư nhất thiết phải thực hiện việc quản lý rủi ro, đó là
một quy trình và biện pháp để đạt mục đích chứ bản thân nó không phải là
mục đích. Theo đó rủi ro được xem như là điều không mong muốn nhà đầu tư
phải chấp nhận. Tuy nhiên, thực tiễn đó chỉ ra rằng, quản lý rủi ro tốt chính là
một trong những phương pháp đầu tư tạo ra giá trị, góp phần tạo ra chiến lược
đầu tư hiệu quả hơn.
Một số giải pháp hạn chế rủi ro được sử dụng phổ biến là: đa dạng hóa
danh mục đầu tư, quản trị rủi ro, quản lý danh mục đầu tư, xây dựng chiến
lược đầu tư, sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh....


11

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ
CỔ PHIẾU TẠI VIỆT NAM
2.1. Hoạt động đầu tư cổ phiếu tại Việt Nam hiện nay
Quy mô TTCK đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc. Trong
thời kỳ 5 năm đầu mở cửa thị trường từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt
trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên
22,7% GDP vào năm 2006 và tiếp tục tăng lên mức trên 43% vào năm 2007.
Năm 2010 tương đương khoảng 39% GDP.
Hoạt động phát hành chứng khoán huy động vốn trên TTCK chỉ thực sự
khởi động từ năm 2006. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện
việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu và đến năm 2007, hoạt động này gia
tăng mạnh, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng
thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động đạt gần
40.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số vốn huy
động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho
hoạt động phát hành qua TTCK, đặc biệt là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn

huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với 2008, đạt
21.724 tỷ đồng. Trong năm 2010, tổng mức huy động trên TTCK thông qua
phát hành cổ phiếu, đấu giá cổ phần hóa và đấu thầu trái phiếu chính phủ đạt
109.000 tỷ VNĐ, cụ thể: UBCKNN đã cấp giấy chứng nhận chào bán chứng
khoán cho 247 tổ chức phát hành với tổng số 7,7 tỷ cổ phiếu, tương đương
hơn 77.000 tỷ VNĐ (tính theo mệnh giá); Tổ chức 55 phiên đấu giá tại 2
SGDCK với tổng giá trị chào bán đạt gần 4.400 tỷ VNĐ (số liệu từ đầu năm
đến 30/11); tổ chức 34 đợt đấu thầu trái phiếu chính phủ với tỏng gia trị trúng
thầu đạt 28.000 tỷ đồng.


12

Hoạt động niêm yết và giao dịch chứng khoán tại các Sở Giao dịch
Chứng khoán (SGDCK):
Tháng 7/2000 khi mở cửa Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ
Chí Minh với 02 công ty niêm yết ban đầu, TTCK đã có mức tăng trưởng
nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN Index liên tục
tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/6/2001. Sau đó, thị trường
đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó, trước khi tăng mạnh trở lại vào
cuối năm 2003. Năm 2005, khi tiếp tục đưa Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán Hà Nội vào hoạt động, tổng số các công ty niêm yết trên cả hai thị
trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 nghìn tỷ đồng.
Giai đoạn 5 năm phát triển tiếp theo từ năm 2006-1010, TTCK Việt
Nam đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn
doanh số giao dịch. Tính đến 31/12/2010 có 649 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ
niêm yết tại cả hai SGDCK, với tổng giá trị niêm yết đạt hơn 200.000 nghìn tỷ
đồng, tăng gấp nhiều lần so với số 4,94 nghìn tỷ đồng cuối năm 2005. Tổng
giá trị vốn hoá thị trường là 726.000 tỷ đồng, tương đương 39% GDP năm
2010.

Bên cạnh tính thanh khoản của thị trường cũng được cải thiện rõ rệt.
Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên,
thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần), tiếp tục tăng
lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị
trường trong giai đoạn này liên tục tăng trong các năm tsau đó từ 0.43 lần
(năm 2006) lên 0.64 lần (năm 2007), 0.68 lần (năm 2008). Giai đoạn này cũng
ghi nhận các chỉ số chứng khoán trên TTCK Việt Nam đạt được mức cao
nhất. VNIndex đạt mức 1,170.67 điểm và HASTC-Index (nay đã được đổi
thành HNX-Index) đạt 459.36 điểm.


×