Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Nội dung và ý nghĩa của chế độ Bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.43 KB, 17 trang )

Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi

PHẦN MỞ ĐẦU
Công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong gần 20 năm
qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế. Nền kinh tế của Việt Nam
đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, sự phát triển của nền kinh tế đã tạo ra cơ
sở để cải thiện nhiều mặt về xã hội. Duy trì trật tự xã hội là một trong những
cái đích quan trọng mà bất kỳ một thể chế chính trị, một giai cấp hay một
quốc gia nào muốn tồn tại đều phải đạt được. Việc duy trì trật tự xã hội đòi
hỏi có sự đóng góp không nhỏ của các giải pháp, các chính sách đúng đắn
của Đảng và nhà nước. Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan
trọng của Đảng và nhà nước đối với người lao động.
Ngay sau khi giành được độc lập (tháng 8 / 1945) mặc dù còn gặp rất
nhiều khó khăn nhưng Đảng và nhà nước hết sức quan tâm đến chính sách
Bảo hiểm xã hội, quyền lợi của người lao động được hưởng Bảo hiểm xã hội
đã được ghi trong các Hiến pháp 1946, 1980, 1992. Để cụ thể hoá các chính
sách Bảo hiểm xã hội, chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật về lĩnh
vực Bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được chính thức ban
hành và phát triển từ năm 1961, nhưng phải đến gần đây khi phải thực hiện
các quy định của Bộ luật lao động và điều lệ Bảo hiểm xã hội được ban hành
kèm theo nghị định số 12/ CP ngày 26 / 1 / 1995 của chính phủ, chính sách
Bảo hiểm xã hội mới thực sự được chuyển biến.
Việc thực hiện tốt các chính sách Bảo hiểm xã hội trong các doanh
nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng giữa những
người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau. Đó cũng là
quyền lợi chính đáng mà họ cần được hưởng từ nhà nước và xã hội. Tuy
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

1




Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
nhiên, hiện nay do chưa hiểu hết về Bảo hiểm xã hội nên còn nhiều các
doanh nghiệp luôn tìm cách né tránh đóng Bảo hiểm xã hội. Do vậy, quyền
bình đẳng trong việc hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội của người lao động đã
bị chủ sử dụng lao động huỷ bỏ, làm ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất
của doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung.
Với những nhận thức trên cùng với những kiến thức đã học em đã
chọn đề tài “Nội dung và ý nghĩa của chế độ Bảo hiểm xã hội ”. Trong bài
tiểu luận này, em xin đề cập tới tình hình thi hành chế độ Bảo hiểm xã hội ở
công ty Xi măng CHINFON Hải Phòng để làm ví dụ thực tế.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài tiểu luận gồm có 4 phần chính:
I.

Những nhận thức cơ bản về Bảo hiểm xã hội.

II.

Tầm quan trọng của Bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp.

III.

Tình hình thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội tại công ty Xi
măng Chinfon Hải Phòng.

IV.

Một số kiến nghị với nhà nước.


Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Luật đã giúp em hoàn
thành bài tiểu luận này.
Sinh viên
Lê Thu Trang

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

2


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi

PHẦN NỘI DUNG
I. Những nhận thức cơ bản về Bảo hiểm xã hội .
1. Khái niêm chung về Bảo hiểm xã hội .
a. Khái niêm :
Cùng với sự vận động của xã hội, nhân loại đã trải qua 5 hình thái
kinh tế đã lần lượt thay thế từ hình thức xã hội phát triển thấp – công xã
nguyên thuỷ, đến hình thức xã hội cao hơn là cộng sản chủ nghĩa, mà giai
đoạn quá độ là chủ nghĩa xã hội. Nhưng dù tồn tại dưới hình thức nào đi
chăng nữa thì nhu cầu đảm bảo cuộc sống con người cũng không thể thiếu
được. Đặc biệt trước những rủi ro, những biến cố mà bản thân người lao
động không thể hoặc khó khắc phục như: ốm đau, thai sản, bệnh tật, tai nạn,
mất người nuôi dưỡng, … vậy chúng ta phải giải quyết, khắc phục, đối phó
như thế nào?.
Mặt khác, nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất
hiện việc thuê mướn nhân công, hình thành quan hệ chủ – thợ. Lúc đầu
người chủ chỉ cam kết trả công lao động nhưng về sau đã phải cam kết cả
việc đảm bảo cho người lao động có một thu nhập nhất định để họ trang trải

những nhu cầu cần thiết như: ốm đau, tai nạn, tuổi già, … nhiều khi các
trường hợp trên không xảy ra nên người chủ không phải bỏ một đồng nào,
nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc người chủ phải bỏ ra những khoản
tiền lớn mà họ không muốn, việc tranh chấp quyền lợi giữa hai bên chủ –
thợ trở nên gay gắt. Lúc này đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước. Nhà nước sẽ
đứng ra tổ chức một hệ thống trung gian nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

3


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
động khi họ mất việc làm hoặc làm giảm khả năng lao động. Hệ thống trung
gian cũng như những hoạt động và mối quan hệ chặt chẽ đó gọi là Bảo hiểm
xã hội. Từ đó ta có thể rút ra khái niệm:
“Bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động bằng
cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ sự đóng
góp của người lao động, sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của nhà
nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro như: ốm
đau, thai sản, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo
quy định của pháp luật hoặc tử vong.”
b. Các loại Bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội bắt buộc: đây là loại hình mang tính chất cưỡng chế
bắt buộc các bên chủ – thợ phải thực hiện, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của người lao động, người sử dụng lao động nếu đã đủ điều kiện trong
các văn bản pháp luật của nhà nước về Bảo hiểm xã hội .
Bảo hiểm xã hội tự nguyện: là loại hình Bảo hiểm xã hội mà việc
tham gia bảo hiểm hay không tuỳ thuộc vào ý nguyện chủ quan của người

lao động, pháp luật không cưỡng chế người lao động phải tham gia.
c. Vai trò của Bảo hiểm xã hội đối với kinh tế xã hội.
Trong bất cứ hệ thống Bảo hiểm xã hội nào thì mục đích của nó cũng
mang tính xã hội. Thông qua việc chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội, xã hội
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

4


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
ổn định hơn và có điều kiện tốt hơn để phát triển. Vai trò của Bảo hiểm xã
hội được thể hiện qua những khía cạnh cơ bản sau:
- Về đời sống kinh tế, Bảo hiểm xã hội chính là sự phân phối lại thu
nhập cho người lao động, nhờ đó người lao động và gia đình của họ
luôn được đảm bảo tước mọi bất trắc rủi ro.
- Về mặt xã hội, Bảo hiểm xã hội mang tính cộng đồng rất cao. Nhờ kỹ
thuật “san sẻ rủi ro”, người lao động chỉ phải đóng góp một phần
trong thu nhập của mình cho quỹ Bảo hiểm xã hội, nhưng xã hội có
một lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra đối với
người tham gia Bảo hiểm xã hội.
- Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng trong chính sách đảm bảo
xã hội, nên Bảo hiểm xã hội phải góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
- Bảo hiểm xã hội gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao
động và nhà nước.
2. Nội dung của Bảo hiểm xã hội.
a. Các chế đô Bảo hiểm xã hội:
Các chế độ Bảo hiểm xã hội là hệ thống các quy định về mức hưởng
và thời hạn hưởng cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro thuộc
từng phạm vi chế độ (ốm đau, thai sản, hưu trí, tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp, … ). Có thể nói hệ thống các chế độ là nội dung cốt lõi
nhất của Bảo hiểm xã hội, nó thể hiện được vai trò của Bảo hiểm xã hội
đối với người lao động khi tham gia Bảo hiểm xã hội

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

5


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
b. Trợ cấp Bảo hiểm xã hội.
- Trợ cấp Bảo hiểm xã hội là khoản tiền từ quỹ Bảo hiểm xã hội được
bên Bảo hiểm xã hội (cơ quan Bảo hiểm xã hội ) chi trả cho người
được Bảo hiểm xã hội khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập, bị giảm, mất
khả năng lao động hoặc mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định
- Trợ cấp Bảo hiểm xã hội có nhiều loại: trợ cấp một lần và trợ cấp
thường xuyên hàng tháng, trợ cấp ngắn hạn (thai sản, ốm đau) và trợ
cấp dài hạn (hưu trí, tuổi già, bệnh nghề nghiệp), trợ cấp thay thế tiền
lương (tiền công) và trợ cấp có tính hỗ trợ thêm tương ứng với mức
suy giảm khả năng lao động. Người lao động được hưởng loại trợ cấp
nào với mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng bao nhiêu là do tính
chất của hiện tượng phải bảo hiểm phát sinh, mức suy giảm hoặc mất
khả năng lao động và thời gian đóng góp của tất cả mọi người tham
gia Bảo hiểm xã hội nhưng chưa gặp khó khăn nên chưa được trợ cấp
và phần tăng thêm (dù là nhỏ) do cơ quan bảo hiểm xã hội đưa vào
hoạt động sinh lợi.
c. Quỹ Bảo hiểm xã hội.
- Quỹ Bảo hiểm xã hội là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những
người tham gia Bảo hiểm xã hội hình thành một quy tiền tệ tập trung

để chi trả cho những người được Bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc
bị mất việc làm.
- Như vậy quỹ Bảo hiểm xã hội là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một
quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658 6
Líp 6A06


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
và là điều kiện hay cở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ
hệ thống Bảo hiểm xã hội tồn tại và phát triển. Quỹ Bảo hiểm xã hội
hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro
của tất cả những người tham gia, giúp giảm thiệt hại kinh tế cho người
sử dụng lao động, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước và của gia đình.
d. Phí Bảo hiểm xã hội.
- Phí Bảo hiểm xã hội là khảon tiền đóng góp hàng tháng của những
người tham gia Bảo hiểm xã hội cho quỹ Bảo hiểm xã hội. Phí Bảo
hiểm xã hội có nhiều loại tuỳ theo cách phân loại cụ thể. Nếu theo kết
cấu của các chế độ Bảo hiểm xã hội thì mỗi chế độ có một loại phí
tương ứng, đồng thời có phí Bảo hiểm xã hội tổng hợp chung cho tất
cả các chế độ. Nếu theo kết cấu nội tại của phí bảo hiểm xã hội thì có
phí thuần tuý và phí toàn phần.
- Có thể hình dung phí bảo hiểm thuần tuý giống như phần chi phí vật
chất trong giá thành sản phẩm. Để chuyển từ chỗ có thể được hưởng
thành hiện thực chắc chắn được hưởng thì còn phải cộng thêm một số
chi phí cần thiết khác nữa như chi phí quản lý. Đây là phí Bảo hiểm xã
hội toàn phần.
e. Tổ chức quản lý thực hiện Bảo hiểm xã hội.
- Quản lý Bảo hiểm xã hội cho ta thấy phương thức quản lý Bảo hiểm

xã hội và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý Bảo hiểm xã hội
để từ đó có kế hoạch tổ chức quản lý Bảo hiểm xã hội được chặt chẽ,
có hiệu quả.
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

7


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
- Ngoài ra trong nội dung của Bảo hiểm xã hội con quy định về quyền
hạn và trách nhiệm giữa các bên tham gia, việc giải quyết tranh chấp
và xử lý các vi phạm về Bảo hiểm xã hội.
3. Sự cần thiết phải có hệ thống Bảo hiểm xã hội.
Trong thực tế cuộc sống không phải người lao động nào cũng có đủ
điều kiện về sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để
hoàn thành nhiệm vụ lao động. Ngược lại, không mấy ai tránh khỏi những
rủi ro, bất hạnh như ốm đau, thai sản, tai nạn, già yếu, chết, … để khắc phục
những rủi ro bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân, người lao động phải
được sự bảo trợ của cộng đồng tập thể các cơ quan nhà nước và xã hội.
Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới
chủ và thợ, chỉ đến khi có sự ra đời của Bảo hiểm xã hội thì những tranh
chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có
hiệu quả nhất. Sự xuất hiện Bảo hiểm xã hội là một tất yếu khách quan, khi
mà mọi người trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống
Bảo hiểm xã hội vầ sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động.
Bảo hiểm xã hội đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động, một
trong những nhu cầu tất yếu khách quan của con người như trong Tuyên
ngôn nhân quyền của Đại hội Liên hợp quốc thông qua ngày 10/ 12 / 1948
đã nêu: “tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền

hưởng Bảo hiểm xã hội. ”

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

8


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
II. Tầm quan trọng của Bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp.
1. Các nguyên tắc của Bảo hiểm xã hội.
- Nguyên tắc số đông bù số ít của Bảo hiểm xã hội: Bảo hiểm xã hội
là một trong những cơ chế an toàn xã hội, trước hết là sự trợ giúp cho
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập tạm
thời như ốm đau, tai nạn. Trong cả cuộc đời của người lao động
thường là thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động bị mất
khả năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết.
Vì vậy, nguyên tắc trước tiên của Bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù
số ít, lấy quãng đời lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm
hoặc mất khả năng lao động.
- Nguyên tắc tổ chức ba bên:
+ Người lao động tham gia Bảo hiểm xã hội để đảm bảo cho chính mình
dựa trên quy luật số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc thể hiện tính cộng
đồng rất cao của con người, tức là một người găp rủi ro sẽ được nhiều
người giúp đỡ chia sẻ.
+ Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao
động mình thuê mướn theo quy định của pháp luật .
+ Nhà nước tham gia Bảo hiểm xã hội với hai tư cách : tư cách nhà nước
và tư cách chủ lao động. Nhà nước ban hành các luật và có hỗ trợ cần
thiết nhằm thúc đẩy hoạt động Bảo hiểm xã hội.

- Nguyên tắc đảm bảo tính bắt buộc đồng thời đáp ứng nhu cầu của
tham gia Bảo hiểm xã hội trong trường hợp tự nguyện. Bảo hiểm xã hội
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

9


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
áp dụng hình thức bắt buộc là để đảm bảo quy luật số lớn và có hệ số an
toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động.
2.Tầm quan trọng của Bảo hiểm xã hội đối với các doanh nghiệp.
a. Đối với người lao động.
Chế độ Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa lớn đối với cán bộ, công nhân
viên. Bởi vì nếu chế độ Bảo hiểm xã hội không được thực hiện thì chủ sử
dụng lao động sẽ không bị ràng buộc về trách nhiệm đối với người lao động
khi họ bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, … Trong những
trường hợp trên, nếu chế độ Bảo hiểm xã hội được thực hiện thì quyền lợi
của người lao động sẽ được đảm bảo góp phần ổn định cuộc sống cho họ.
Trường hợp ngược lại người lao động sẽ không được hưởng quyền lợi chính
đáng, hết sức quan trọng đó.
b. Đối với chủ sử dụng lao động.
Khi người lao động được đảm bảo quyền lợi về Bảo hiểm xã hội họ sẽ
yên tâm, phấn khởi lao động, từ đó năng suất lao động tăng, chất lượng sản
phẩm được nâng cao, giúp doanh nghiệp có nhiều lợi nhuận hơn. Mặt khác,
trong nền kinh tế thị trường, việc các nhà doanh nghiệp phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đóng Bảo hiểm xã hội không chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người lao động mà mà còn đảm bảo quyền bình đẳng trong hoạt động sản
xuất giữa các doanh nghiệp.


Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

10


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
c. Đối với Nhà nước và xã hội.
Nền kinh tế đất nước đang phát triển mạnh mẽ theo định hướng đa
thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội trong các doanh
nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng giữa những
người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau. Đó là sự công bằng
về nghĩa vụ đóng góp cho đất nước, cho xã hội cũng như công bằng về các
quyền lợi mà họ cần được hưởng từ nhà nước, xã hội. Chính sự bình đẳng
này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Nói cách khác, đó là sự
thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển lên một trình độ mới cao hơn.
Tóm lại, thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động là một
chủ trương, chính sách hết sức đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, đồng thời
cũng là một nhiệm vụ rất cấp thiết trong tình hình hiện nay.
III. Tình hình thi hành chế độ Bảo hiểm xã hội tại Công ty Xi măng
Chinfon Hải Phòng.
1. Khái quát về công ty.
Công ty xi măng Chinfon Hải Phòng được thành lập theo giấy phép
đầu tư số 490/GP ngày 24/2/1992 của Bộ kế hoạch và đầu tư. Tổng số vốn
đầu tư nước ngoài vào công ty là 288,3 triệu đôla Mỹ, vốn pháp định 90
triệu đôla Mỹ, trong đó tập đoàn chinfon Đài Loan 70%, bên Việt Nam là
thành phố Hải Phòng 15,56% (góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất) và
tổng công ty xi măng Việt Nam 14,14% (vốn bằng tiền mặt). Từ năm 1997
công ty chính thức đi vào hoạt động. Năm 2002, toàn bộ công ty có gần 700
lao động trong đó chỉ có 13 chuyên gia nước ngoài. Cán bộ trình độ đại học

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658 11
Líp 6A06


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
và trên đại học 223 người. Trung cấp và kỹ thuật viên là 203 người, còn lại
là 259 người lao động phổ thông.
Công ty thường xuyên sản xuất vượt mức so với công suất thiết kế từ
năm 1998 đến nay đã có lãi trên dưới 10 triệu đola Mỹ. So sánh với công
suất thiết kế 1,4 triệu tấn xi măng /năm thì năm 1998 là 1,38 triệu tấn. Năm
1999 là 1,53 triệu tấn, năm 2000 là 1,63 triệu tấn và năm 2002 là 1,78 triệu
tấn. Năm 2001 và 2002 công ty đã góp vào ngân sách thành phố Hải Phòng
trên 80 tỷ đồng / năm, góp phần ổn định thị trường xi măng theo yêu cầu của
chính phủ .
2. Tình hình thi hành chế độ Bảo hiểm xã hội ở công ty xi măng chinfon
Hải Phòng.
Với những nhận thức về Bảo hiểm xã hội và được sự chỉ đạo của
Thành uỷ, UBND thành phố Hải Phòng, công ty xi măng chinfon Hải Phòng
đã thực hiện nghiêm chỉnh chế độ Bảo hiểm xã hội cho 100% lao đông.
Nhiều năm liền, công ty xi măng chinfon Hải Phòng là doanh nghiệp liên
doanh nước ngoài tiêu biểu thực hiện tốt các chế độ Bảo hiểm xã hội, chế độ
tiền lương và các chế độ xã hội khác đối với người lao động và đã nhận
được nhiều bằng khen, giấy khen của các ngành, các cấp.
Bí thư chi bộ kiêm phó tổng giám đốc công ty đã triển khai nghị quyết
chi bộ về Bảo hiểm xã hội tới các đồng chí trong ban Giám đốc và trưởng,
phó phòng là người Việt Nam, đồng thời cung cấp các thông tin về pháp luật
tới tổng giám đốc công ty là người nước ngoài để đạt được sự thông nhất
trong lãnh đạo công ty về công tác Bảo hiểm xã hội. Chi bộ đã giao nhiệm
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658 12
Líp 6A06



Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
vụ cho Đảng viên trong ban chấp hành công đoàn tổ chức hội nghị công
nhân viên chức, quán triệt tới từng người lao động để thực hiện tốt chính
sách Bảo hiểm xã hội. Công đoàn công ty đã động viên thi đua trong toàn
thể công đoàn viên vừa tích cực sản xuất vừa theo giám sát tốt các chính
sách xã hội về việc làm, khen thưởng, kỷ luật, tiền lương, Bảo hiểm xã hội,
… Ban giám đốc đã chỉ đạo phòng nhân sự và tiền lương thực hiện tốt các
thủ tục và chế độ quy định về Bảo hiểm xã hội. Công ty đã xây dựng và thực
hiện quy trình về hợp đồng lao động xét tăng lương, thưởng và các hoạt
động Bảo hiểm xã hội với hệ thống quản lý khoa học hoàn toàn bằng máy vi
tính.
Công ty đã cố gắng ổn định việc làm cho 700 người, 100% lao động
thường xuyên được ký hợp đồng lao động, đóng Bảo hiểm xã hội và mua
bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động, … tiền lương và thu nhập hàng
năm của người lao động ngày càng được cải thiện. Thu nhập bình quân thực
tế của người lao động trong công ty qua các năm, sau khi đã trừ thuế thu
nhập và các loại phí bảo hiểm đạt từ 1.336.000 đồng / tháng năm1997 và
tăng lên 1.800.000 đồng / tháng năm 2002. Điều đáng nói ở đây là công ty
đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động đúng mức lương tăng nên mức
đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động cũng tăng. Năm 2002, công ty đã
đóng Bảo hiểm xã hội gần 2 tỷ đồng.
Cán bộ công nhân viên vào làm việc tại công ty sau khi hết thời gian
thử việc là thực hiện đóng Bảo hiểm xã hội. Tiền đóng Bảo hiểm xã hội
hàng tháng trước ngày 5 tháng sau. Hàng năm cùng với việc tăng lương cho
người lao động, công ty lại tự động điều chỉnh tăng mức đóng Bảo hiểm xã
hội để thực hiện nghiêm chỉnh chính sách đảm bảo quyền lợi cho người lao
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658 13
Líp 6A06



Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
động, Công tác cấp sổ Bảo hiểm xã hội được thực hiện rất đầy đủ và kịp
thời, người lao động sau 3 tháng đóng Bảo hiểm xã hội là được cấp thẻ.
Ngoài ra, công ty còn quan tâm giải quyết thời gian liên tục cho tất cả
các công nhân viên chuyển từ cơ quan khác tới công ty. Công tác quản lý sổ
Bảo hiểm xã hội được thực hiện một cách khoa học, ứng dụng hệ thống tin
học trong việc quản lý sổ theo số thẻ của từng người lao động. Công ty đã
giải quyết các chế độ ngắn hạn về người lao động như ốm đau, thai sản, chế
đọ nghỉ mát sức hàng năm, … Do có sự đảm bảo về quyền lợi Bảo hiểm xã
hội, lao động của công ty yên tâm làm việc, góp phần nâng cao vị trí cao vị
trí của doanh nghiệp, từng bước phát huy được năng suất lao động, làm tăng
doanh thu, đóng góp nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hoá của thành phố và
đất nước, xây dựng một chế độ Bảo hiểm xã hội ngày càng lớn mạnh để đảm
bảo quyền lợi cho người lao động.
IV. Kiến nghị với Nhà nước.
1. Sửa đổi chế độ trợ cấp một lần.
Điều 28 - điều lệ Bảo hiểm xã hội quy định: Người lao động khi thôi
việc (nếu không đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng chế độ hưu trí), được
hưởng trợ cấp một lần, cứ mỗi năm làm việc có đóng Bảo hiểm xã hội được
hưởng trợ cấp bằng một tháng tiền lương.
Quy định như vậy là không có sự định hướng xã hội cho người lao
động để lựa chọn chế độ hưởng thật đúng đắn, hợp lý. Hiện nay, người lao
động làm việc ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khi thôi việc thường
chọn giải pháp nhận trợ cấp một lần vì:
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658 14
Líp 6A06



Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
- Không biết quyền lợi được bảo lưu thời gian đã đóng Bảo hiểm xã hội
cũ để khi có điều kiện tham gia tiếp ở đơn vị mới sẽ được tính gộp lại
để hưởng chế độ hưu trí sau này.
- Những lo toan trước mắt, nhất là ở trong môi trường làm việc ngoài
quốc doanh rất thiếu ổn định, dẫn tới tâm lý chưa quan tâm đến việc
lâu dài. Từ đó dẫn đến tình trạng đa số người lao động trong các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh xin trợ cấp một lần khi thôi việc và sẽ
dẫn đến hậu quả tất yếu là sẽ không có chế độ hưu trí sau này.
Với những điều nói trên, chính phủ nên sửa đổi điều 28 - điều lệ Bảo
hiểm xã hội, chỉ cho phép người lao động thôi việc được nhận trợ cấp một
lần khi đã lớn tuổi và không thể có điều kiện để đóng Bảo hiểm xã hội đủ
thời gian tối thiểu để hưởng chế độ lương hưu.
2. Có hệ thống thanh tra ngành của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chính phủ nên có các hệ thống thanh tra ngành của Bảo hiểm xã hội
để đảm bảo tính khả thi của hoạt động Bảo hiểm xã hội trong các đơn vị sử
dụng lao động.
3. Sớm ban hành luật Bảo hiểm xã hội.
Đất nước ta đang còn trong hệ thống pháp luật, do đó pháp luật chưa
đầy đủ, chưa đồng bộ kể cả pháp luật của Bảo hiểm xã hội. Do đó việc sớm
ban hành luật Bảo hiểm xã hội là một yêu cầu khách quan để thực hiện đúng
chính sách Bảo hiểm xã hội, một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta
đối với toàn thể người lao động trong xã hội.
Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

15


Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi

Tóm lại, ban hành luật nhằm bổ sung, sửa đổi hợp lý chính sách Bảo
hiểm xã hội, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cao nhất đối với người lao động
trong mọi thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và người lao động, tăng
cường an toàn, an ninh xã hội và góp phần quan trọng vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta đối
với người lao động, lại có ý nghĩa rất đặc biệt đối với hàng triệu lao động
đang làm việc trong các công ty, trong điều kiện nền kinh tế đất nước đang
chuyển đổi hoạt động theo cơ chế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần
như hiện nay.
Thực hiện tốt chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội là yếu tố quan trọng
để đảm bảo sự công bằng xã hội giữa những người lao động, giữa những
doanh nghiệp với nhau. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan từ
nhiều phía, nên hiện nay hoạt động Bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều hạn chế,
còn nhiều doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng Bảo hiểm xã hội, nhiều
người lao động chưa được thực hiện quyền và nghĩa vụ đóng Bảo hiểm xã
hội của mình.
Bằng những phân tích đánh giá có cơ sở khoa học, có thể nhận thấy
những lý do hạn chế đến kết quả thực hiện công tác này bao gồm : việc thực
hiện kém hiệu quả của cơ quan kiểm tra pháp luật, đặc biệt là công tác thanh
tra xử lý vi phạm của ngành Lao động - thương binh và xã hội đối với những
vi phạm về Bảo hiểm xã hội. Bên cạnh đó là những bất hợp lý trong một số

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

16



Trêng §¹i häc Qu¶n lý vµ Kinh doanh Hµ Néi
chế độ, chính sách cụ thể liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi Bảo hiểm xã
hội của người lao động.
Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng ngoài những điều nói trên thì Bảo hiểm
xã hội cũng góp phần không nhỏ vào việc duy trì trật tự xã hội, đảm bảo lợi
ích cho người lao động. Nếu các quy chế, chính sách Bảo hiểm xã hội được
sửa đổi phù hợp hơn nữa thì Bảo hiểm xã hội sẽ trở nên thực tế hơn, đảm
bảo quyền lợi chung cho người lao động.

Lª Thu Trang – MSV : 2001D1658
Líp 6A06

17



×