Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Chế độ pháp lý về đại lý bảo hiểm và thực tiễn áp dụng tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.15 KB, 90 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam được đánh giá là một thị trường có tiềm năng to lớn cho
mọi hoạt động phát triển, đặc biệt là hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với
chính sách mở cửa hội nhập kinh tế, thị trường bảo hiểm Việt Nam trở nên
“sôi động”, cạnh tranh sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là bảo hiểm nhân
thọ từ khi có sự góp mặt của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài. Để
hoạt động cạnh tranh diễn ra lành mạnh, tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý
của Nhà nước đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách chặt chẽ
và đồng bộ về kinh doanh bảo hiểm. Trong đó, chế độ đại lý bảo hiểm là một
vấn đề khá quan trọng và đáng được quan tâm trong hoạt động bảo hiểm
hiện đại. Bởi vì, sự lớn mạnh của ngành bảo hiểm nói chung và doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ nói riêng phụ thuộc rất lớn vào quy mô, chất
lượng hoạt động của mạng lưới đại lý bảo hiểm; thực hiện được nghiệp vụ
bảo hiểm nhiều hay ít sẽ có ảnh hưởng tới sự sống còn của doanh nghiệp bảo
hiểm. Quỹ bảo hiểm có phát triển hay không? Doanh nghiệp bảo hiểm có
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác được hay không? Điều đó có sự đóng
góp không nhỏ của đại lý bảo hiểm nhân thọ.
Vì vậy, qua thời gian thực tập tại Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Hà Nội
nhận thức được điều này, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Chế độ pháp lý về
đại lý bảo hiểm và thực tiễn áp dụng tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội”. Với
mong muốn được tìm hiểu nâng cao nhận thức về những quy định cho đại lý
hiểm và hy vọng rằng có thể góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hơn chế
độ pháp lý về đại lý bảo hiểm, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm tạo
sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, qua đó giúp hoạt động
đại lý của Công ty ngày càng đạt hiệu quả cao.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B




Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nội dung của đề tài được chia thành 3 chương như sau:
Chương I: Chế độ pháp lý về đại lý bảo hiểm.
Chương II: Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về đại lý
bảo hiểm tại Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ đại lý bảo
hiểm nhân thọ.
Do thời gian thực tập có hạn, trình độ hiểu biết còn hạn chế nên bài
viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong
được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và các cô chú, anh chị
trong Công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn, có ý nghĩa hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: GVC. Phạm Văn
Luyện, GV. Vũ Văn Ngọc, anh Dương Kim Sơn- Phòng Tổng hợp và các cô
chú, anh chị của Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ
em trong thời gian qua.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

CHƯƠNG I:
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM.
I. BẢO HIỂM VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM.
1. Khái niệm bảo hiểm và ý nghĩa của hoạt động bảo hiểm trong đời

sống xã hội.

a) Khái niệm và ý nghĩa của hoạt động bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm không hoàn toàn giống như nghĩa của từ này dùng
trong lời nói bình thường của chúng ta. Thông thường, chúng ta hay dùng từ
“bảo hiểm” để nói lên ý nghĩa “chắc chắn”, “đáng tin cậy”, “có bảo đảm”,
thậm chí còn có ý nghĩa là “không nguy hiểm”. Những hoạt động “bảo
hiểm” ở đây chỉ là một loại dịch vụ tài chính bồi thường thiệt hại bất ngờ
hay trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bảo hiểm là một loại dịch
vụ tài chính dựa vào sức mạnh của tập thể của toàn thể các thành viên đã
tham gia bảo hiểm nhằm xây dựng quỹ chung trên cơ sở tính toán khoa học
và dùng quỹ đó để bồi thường tổn thất hoặc trả tiền bảo hiểm vì những rủi ro
hoặc thiệt hại hoặc sự kiện đã xảy ra đã quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
Với sự phát triển của kinh tế hàng hoá ở mức độ cao thành kinh tế thị
trường, hoạt động bảo hiểm với tư cách là một loại hoạt động dịch vụ tài
chính này càng phát triển thành một ngành kinh doanh đặc biệt. Trong hoạt
động bảo hiểm này, doanh nghiệp bảo hiểm nhận một số phí bảo hiểm của
người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm khi những sự kiện
được quy định hoặc thoả thuận trong hợp đồng xảy ra. Vì loại dịch vụ tài
chính này là một hoạt động kinh tế phức tạp, có liên quan đến lợi ích của
nhiều đơn vị, doanh nghiệp và đông đảo tầng lớp nhân dân, các nước đều
xây dựng những văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh mối quan hệ về bảo
hiểm.
Như vậy bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây
dựng quỹ bảo hiểm dưới hình thức nhất định để bồi thường hoặc trả tiền bảo
hiểm cho những tổn thất vì tai nạn rủi ro về con người hoặc tài sản. Bảo
LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hiểm có nhiều ý nghĩa cho đời sống xã hội như đề phòng, hạn chế tổn thất
bồi thường thiệt hại, hỗ trợ sản xuất xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tập
trung vốn để xây dựng kinh tế. Bảo hiểm là sản phẩm cho sự phát triển kinh
tế hàng hoá, đồng thời cũng là biện pháp thúc đẩy và bảo đảm cho nền kinh
tế hàng hoá phát triển. Tất cả các nước và khu vực có nền kinh tế phát triển
đều coi trọng hoạt động bảo hiểm như “Một cỗ máy ổn định xã hội tinh
xảo”. Trong giai đoạn này ở nước ta, đi đôi với việc phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng phải đẩy mạnh hoạt động bảo
hiểm để xây dựng quỹ dự trữ bồi thường tổn thất bất ngờ, nhằm bảo đảm
cho việc thực hiện kế hoạch xây dựng kinh tế nước ta và ổn định cuộc sống
của nhân dân.Theo đà đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta lại càng phải tổ chức
hoạt động bảo hiểm để phân tán các rủi ro thường gặp trong các đơn vị kinh
tế và dân cư trong xã hội. Do đó bảo hiểm là một khâu không thể thiếu được
trong nền kinh tế quốc dân nước ta, đóng vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế của nước ta.
Thứ nhất, bảo hiểm có tác dụng bảo đảm cho sự ổn định đời sống
kinh tế của nước ta.
Ở nước ta, hàng năm có một số vùng bị thiên tai và tai nạn bất ngờ
gây thiệt hại, nhưng nhờ có bảo hiểm, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
xã hội và dân cư đã được bồi thường kịp thời, tránh được tình trạng bị gián
đoạn sản xuất kinh doanh, bảo đảm cho việc xây dựng kinh tế nước nhà.
Trong năm 1996, Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) đã giải
quyết bồi thường hơn 400.000 vụ tổn thất, có một số vụ tổn thất lớn đã được
BAOVIET bồi thường như:
- Vụ tổn thất toàn bộ máy bay lên thẳng: 1.600.000 USD.
- Vụ tổn thất hàng nhập khẩu bột mỳ do trở trên tàu bị mất
tích:1.500.000 USD.

- Vụ tổn thất cháy nhà máy giày An Đỉnh- Hải Phòng:
1.000.000USD.
Nhằm chủ động và tích cực đề phòng, hạn chế tổn thất. BAOVIET
đã cùng ngành giao thông tài trợ cho việc xây dựng một số đường lánh nạn.
Cho tới hiện nay (Năm 2000) đã có gần 20 nhánh đường lánh nạn được xây

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

dựng với sự đóng góp tài trợ của BAOVIET tới hàng trăm triệu đồng. Nhờ
đó nhiều sinh mạng đã được cứu thoát khỏi lưỡi hái tử thần, tránh khỏi
những tai nạn đáng tiếc.
Thứ hai, Bảo hiểm có lợi cho việc đổi mới cơ chế kinh tế. Trong quá
trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp phải tự chủ kinh doanh, tự
chịu trách nhiệm về lãi lỗ.
Quá trình sản xuất kinh doanh khai thác kỹ thuật mới thường hay xảy
ra những sự cố rủi ro về trách nhiệm, về tín dụng giữa các bên và cả những
thiên tai, tai nạn bất ngờ. Nhà nước không thể bao cấp cho những tổn thất do
rủi ro này gây ra như hồi chưa đổi mới cơ chế kinh tế, những nhà sản xuất
kinh doanh phải tự đảm nhận giải quyết. Chỉ có tham gia bảo hiểm mới
chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm những yếu tố không ổn định và những
tổn thất không lường trước được trong quá trình kinh doanh của mình, bảo
đảm cho những hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực
hiện thuận lợi. Bên cạnh đó, chế độ phá sản doanh nghiệp đã thực hiện trong
quá trình đổi mới cơ chế kinh tế hiện nay cũng phải được thực hiện đồng bộ
với chế độ bảo hiểm xã hội tương ứng, nhằm bảo đảm một phần nhất định

đời sống công nhân viên chức của doanh nghiệp bị phá sản trong thời gian
chờ đợi việc làm. Nếu không việc thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp sẽ
gây ra những yếu tố không ổn đinh về trật tự xã hội.
Thứ ba, bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện bảo toàn vốn vay của các
ngân hàng thương mại được thuận lợi, bảo đảm cho việc luân chuyển vốn
cho vay. Các doanh nghiệp kinh doanh phần lớn nguồn vốn cần dùng được
cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng. Vì vậy, khi doanh nghiệp gặp tai
nạn rủi ro chẳng những ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả tiền vay đã hết hạn
mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay để khôi phục sản xuất. Nếu
doanh nghiệp gặp tai nạn rủi ro đã kịp thời nhận được tiền bồi thường bảo
hiểm, đã nhanh chóng khôi phục sản xuất và kinh doanh và cũng có thể hoàn
trả vốn ngân hàng.
Thứ tư, Bảo hiểm sẽ tạo điều kiện tăng thêm phúc lợi cho công nhân
viên chức các doanh nghiệp và ổn định đời sống của nhân dân. Khi xảy ra tai
nạn kể cả trong lao động thì việc trả tiền bảo hiểm là phần bổ sung thêm cho

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

các chế độ trợ cấp của nhà nước hoặc doanh nghiệp cho công nhân viên
chức.
Thứ năm, hoạt động bảo hiểm tạo ra môi trường thuận lợi cho việc
hợp tác phát triển kinh tế kỹ thuật, thương mại với nước ngoài và đầu tư của
nước ngoài vào Việt Nam. Thật vậy, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm liên
quan đến kinh tế đối ngoại càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế thị
trường. Những rủi ro trong quá trình trao đổi kinh tế thương mại, kỹ thuật

với nước ngoài thường lớn hơn trong nước nên đòi hỏi phải có sự bảo đảm
kinh tế dưới hình thức bảo hiểm nhiều hơn. Như thế, có thể tăng thêm mức
độ an toàn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tăng thêm niềm tin của họ vào
việc hợp tác đầu tư, thu hút kỹ thuật tiên tiến. Đồng thời hoạt động bảo hiểm
còn thu về cho nhà nước ta một khoản ngoại tệ phi mậu dịch rất lớn.
Thứ sáu, bảo hiểm có lợi cho việc đề phòng, hạn chế tai nạn rủi ro,
giảm bớt tổn thất của cải xã hội. Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi
thường tổn thất sau khi xảy ra tai nạn rủi ro, mà còn đi kèm với đề phòng rủi
ro, đề phòng tổn thất trước khi xảy ra tai nạn. Có như vậy doanh nghiệp sẽ
chủ động ứng phó trong sản xuất kinh doanh.

b) Các loại hoạt động bảo hiểm.
Theo đà phát triển của chế độ kinh tế xã hội, đời sống của con người
ngày càng được nâng cao, số lượng các loại hình bảo hiểm ngày càng tăng
lên nhiều hơn. Để kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm ngày càng hiệu quả hơn,
quản lý ngành nghề bảo hiểm ngày càng tốt hơn, các nước đều phân loại
nghiệp vụ bảo hiểm theo những tiêu chuẩn khác nhau. Trên thực tế có rất
nhiều loại tiêu chuẩn phân loại bảo hiểm, không có quy định chặt chẽ.
Những cách phân loại hoạt động bảo hiểm thông thường hiện nay là:
1- Bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người.
Đây là cách phân loại bảo hiểm theo đối tượng bảo hiểm. Luật Kinh
doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2000 có
hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2001 đã áp dụng theo cách phân loại như

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


vậy: Điều 40 Luật Kinh doanh bảo hiểm của nước ta quy định về bảo hiểm
tài sản, Điều 31 quy định về bảo hiểm con người.
1.1-Bảo hiểm con người là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là
tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người. Bảo hiểm con người chủ
yếu gồm có 3 loại:
1.2.1- Bảo hiểm nhân thọ: Trong loại bảo hiểm này doanh nghiệp bảo
hiểm (DNBH) phải chi trả một khoản tiền nhất định cho rủi ro tai nạn về
sinh mạng và trường hợp chết của con người, đôi khi được kết hợp với việc
tiết kiệm và thường có tính chất dài hạn, nhiều năm nhưng ít nhất là một
năm.
1.2.2- Bảo hiểm tai nạn bất ngờ. Loại bảo hiểm này có thể chia thành
bảo hiểm tai nạn bất ngờ thông thường, bảo hiểm tai nạn hành khách và bảo
hiểm tai nạn nghề nghiệp.
1.2.3- Bảo hiểm bệnh tật hoặc còn gọi là bảo hiểm sức khoẻ hoặc bảo
hiểm y tế tự nguyện, việc trả tiền bảo hiểm được tiến hành khi người được
bảo hiểm đi khám bệnh, chữa bệnh, phẫu thuật...
1.2-Bảo hiểm tài sản là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tài
sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài
sản.
Luật Dân sự của nước ta cũng đã áp dụng theo cách phân loại như
vậy: Điều 583 quy định về bảo hiểm tài sản, Điều 582 quy định về bảo hiểm
tính mạng con người.
2 - Bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm.
Đây là cách phân loại bảo hiểm theo trình tự đảm nhận trách nhiệm
của DNBH. Hai loại bảo hiểm này là hai thuật ngữ đối xứng nhau. Bảo hiểm
gốc là loại bảo hiểm do DNBH đảm nhận trách nhiệm bồi thường trực tiếp
ngay từ lúc ban đầu cho những thiệt hại vì rủi ro bảo hiểm cho những người
được bảo hiểm. Vì vậy cũng có thể gọi là bảo hiểm lần đầu tiên. Tái bảo
hiểm là loại bảo hiểm được DNBH giao một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm

bảo hiểm đã đảm nhận chuyển cho các DNBH khác đảm nhận. Tiền đề của

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tái bảo hiểm là sự tồn tại của bảo hiểm gốc tức là bảo hiểm lần đầu tiên, vậy
nên tái bảo hiểm cũng có thể gọi là bảo hiểm lần thứ hai.
3- Bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc.
Đây là cách phân loại theo hình thức thực hiện bảo hiểm. Bảo hiểm
bắt buộc còn được gọi là bảo hiểm theo luật định. Loại bảo hiểm này được
thực hiện không có thoả thuận riêng, do luật pháp của Nhà nước quy định
các quan hệ nào thuộc phạm vi bảo hiểm này. Bảo hiểm bắt buộc có những
đặc điểm như: Tính chất toàn diện của phạm vi bảo hiểm tức là phải tham
gia toàn bộ không có ngoại lệ; việc bắt đầu, đình chỉ giữa chừng, kết thúc
trách nhiệm bảo hiểm không cần có sự thoả thuận giữa người tham gia bảo
hiểm với DNBH, mà lệ thuộc vào thời điểm có hiệu lực của pháp luật và có
sự thống nhất về số tiền bảo hiểm.
Bảo hiểm tự nguyện là một loại bảo hiểm được thực hiện dưới hình
thức tự nguyện, tức là cả hai bên người được bảo hiểm và DNBH đều thực
hiện việc ký hợp đồng bảo hiểm trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi, có
sự bàn bạc thống nhất. Ở trong nước hay ở nước ngoài, bảo hiểm tự nguyện
là hình thức thực hiện chủ yếu nhất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Điều 572 của bộ Luật Dân sự nước ta có quy định về hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện và hợp đồng bảo hiểm bắt buộc.
4- Bảo hiểm riêng, bảo hiểm chung và bảo hiểm trùng.
- Bảo hiểm riêng là chỉ trường hợp người tham gia bảo hiểm cùng với

một DNBH ký một bản hợp đồng bảo hiểm về quyền lợi bảo hiểm, một sự
kiện bảo hiểm.
- Bảo hiểm chung hay còn gọi là đồng bảo hiểm là chỉ trường hợp từ
hai hay trên hai DNBH đảm nhiệm riêng từng phần trách nhiệm nhất định
trong cùng một nghiệp vụ bảo hiểm hoặc trong đơn bảo hiểm quy định yêu
cầu người được bảo hiểm cùng chia sẻ gánh vác một phần nhất định trong
cùng một rủi ro. Bảo hiểm chung là một phương thức để DNBH chia sẻ rủi
ro.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Bảo hiểm trùng cũng có thể gọi là bảo hiểm trùng lặp, là chỉ trường
hợp người tham gia bảo hiểm cùng với nhiều DNBH ký kết riêng biệt nhiều
hợp đồng bảo hiểm về cùng một quyền lợi bảo hiểm, cùng một sự kiện bảo
hiểm. Trường hợp bảo hiểm trùng có dụng ý xấu, hợp đồng bảo hiểm trùng
loại này không có giá trị. Ngược lại thì tổng số tiền bảo hiểm của đối tượng
bảo hiểm nếu vượt quá giá trị bảo hiểm , ngoài phần có thoả thuận riêng ra,
DNBH chỉ chịu trách nhiệm đóng góp một phần theo tỷ lệ đối với số tiền
bảo hiểm đã được chấp nhận trong toàn bộ giá trị của đối tượng bảo hiểm.
Nhưng tổng số tiền bồi thường không vượt quá giá trị của của đối tượng bảo
hiểm.
5- Hiện nay ở Việt Nam tồn tại các loại hình bảo hiểm sau:
5.1- Bảo hiểm xã hội (BHXH): Là chính sách xã hội của Nhà nước nhằm
thiết lập quỹ tài chính tập trung trợ giúp cho những người lao động trong các
trường hợp:

- ốm đau.
- Thai sản.
- Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Hưu trí.
- Tử tuất.
5.2- Bảo hiểm y tế (BHYT): BHYT là hoạt động bảo hiểm thông qua đó
người tham gia bảo hiểm được hưởng quyền lợi trong trường hợp khám
bệnh và điều trị nội trú.
5.3- Kinh doanh bảo hiểm: bao gồm có bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi
nhân thọ:
- Bảo hiểm nhân thọ (BHNT): Là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường
hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết (Theo Khoản 12 Điều 3 Luật kinh
doanh bảo hiểm). Hay BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm
nhất định), còn người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm nộp phí đầy đủ

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

và đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên
quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Sự cam kết đó được thể thiện dưới hình thức bằng văn bản là hợp
đồng BHNT. Ở đó công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm cam kết
như sau:

+) Công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm khi có sự kiện
định trước xảy ra, các sự kiện đó là: thương tật, chết, hết hạn hợp đồng, sống
đến độ tuổi nhất định, kết hôn.
+) Người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí đầy đủ và đúng
hạn.
Trong đó:
+ Người bảo hiểm hay doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) là doanh
nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật Kinh
doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh
doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
+ Người tham gia bảo hiểm hay bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân
giao kết hợp đồng bảo hiểm với DNBH và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo
hiểm có thể đồng thời là Người được bảo hiểm hoặc Người thụ hưởng.
+ Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân
sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo
hiểm có thể đồng thời là Người thụ hưởng.
+ Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ
định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
- Bảo hiểm phi nhân thọ: là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại ngoài
BHNT. Ví dụ như bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm trách
nhiệm...

2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Thực chất Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, dựa trên cơ sở tính toán
khoa học, áp dụng biện pháp huy động nhiều người nhiều đơn vị cùng tham
gia xây dựng quỹ bảo hiểm dùng để bồi thường thiệt hại về tài sản hoặc tính

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

mạng của người được bảo hiểm chẳng may bị rủi ro tai nạn bất ngờ. Sự ra
đời hình thành phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với sự phát triển của
kinh tế hàng hoá, đồng thời hoạt động bảo hiểm thâm nhập vào đời sống xã
hội ngày càng rộng rãi hơn.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, bảo hiểm được coi là giải
pháp bồi thường kinh tế cho những thiệt hại rủi ro chẳng những là điều rất
cần thiết mà còn có nhiều triển vọng phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Với
cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, kinh
tế thị trường và bảo hiểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Quá trình hình thành và phát triển của nước ta trong hơn 30
năm qua cho thấy rằng: Bảo hiểm là một hình thức bồi thường kinh tế, giữ
vai trò đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm cũng như các loại hàng
hoá dịch vụ khác, nó được coi là một loại hàng hoá đặc biệt. Hoạt động kinh
doanh bảo hiểm cũng là hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chính. Công ty bảo
hiểm trở thành người kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt - đó là “Bảo hiểm”.
Vậy hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh theo luật lệ nào?
cơ sở pháp lý của kinh doanh bảo hiểm là gì?
Nghị định 100/CP và 74/CP của Chính Phủ, sau này là Luật kinh
doanh bảo hiểm quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm như sau: Kinh
doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lời, theo đó
DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở bên mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm (Theo
khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Cùng trong lĩnh vực bảo hiểm
nhưng hoạt động kinh doanh bảo hiểm khác với các loại hoạt động bảo hiểm
khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo

hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh không nhằm
mục đích sinh lời mà mục đích của nó là phúc lợi xã hội.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm được các tổ chức cá nhân tiến hành
dưới nhiều hình thức. Thông qua hình thức kinh doanh bảo hiểm trực tiếp thì
phải có đủ các điều kiện do luật định vì đây là hoạt động có liên quan, ảnh
hưởng tới số đông các cá nhân, các đơn vị, các tổ chức, tới sự ổn định của xã

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hội. Vì vậy trực tiếp kinh doanh bảo hiểm phải là các doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân, được Nhà nước chấp nhận. Thông qua hình thức kinh doanh
bảo hiểm gián tiếp thì có đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Những tổ
chức, cá nhân nhận làm đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, pháp luật
cũng có những điều khoản, chế định quy định cụ thể.

II. PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM.

1. Sự ra đời và phát triển của pháp luật kinh doanh bảo hiểm.
a) Sự ra đời và phát triển của pháp luật kinh doanh trên thế giới.
Từ thời cổ xưa đã có những chuẩn mực luật pháp điều chỉnh các mối
quan hệ bảo hiểm. Vào khoảng ba, bốn thế kỷ trước công nguyên, luật buôn
đường biển Ru- tơ giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động buôn bán
đường biển ở Địa Trung Hải. Trong luật này có quy định chung về “tổn thất
chung trên biển”. Sau thế kỷ 14, theo đà phát triển của hoạt động buôn bán
đường biển cũng như sự phồn vinh của hoạt động bảo hiểm hàng hải, ở Châu

Âu đã dần dần xuất hiện những luật lệ về hoạt động hàng hải, trong đó có cả
nội dung của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Pháp lệnh Bacelona Tây Ban Nha 1435 đã công bố quy tắc bảo hiểm
hàng hải và thủ tục bồi thường tổn thất. Pháp lệnh này được coi là: “Luật
bảo hiểm hàng hải lâu đời nhất trên thế giới”. Cốt lõi của đạo luật này đã
được kế thừa vào trong luật bảo hiểm hàng hải sau này. Năm 1523, Phơ-rulông-sa (Ý) đã tổng kết những cách làm bảo hiểm hàng hải trước đây, đặt ra
một điều lệ tương đối hoàn chỉnh và quy định mẫu đơn bảo hiểm tiêu chuẩn.
Sau đó ở những thành phố Antwerp của Bỉ, Amsterdam của Hà Lan đã lập ra
toà án bảo hiểm hàng hải để xét xử những vụ tranh chấp về bảo hiểm.
Theo đà phát triển của kinh tế thị trường, sự phát triển của thương
mại quốc tế và sự tiến bộ của giao thông quốc tế, luật bảo hiểm của các nước

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đã được hoàn chỉnh dần từng bước, nhất là những nước phát triển ở Châu
Âu.
Nhìn chung, hai hệ thống luật pháp trên thế giới chủ yếu gồm hệ
thống luật pháp lục địa và hệ thống luật pháp Anh- Mỹ, trong đó luật bảo
hiểm có nhiều điểm giống nhau.
Luật bảo hiểm ra đời sớm nhất của hai hệ thống luật pháp này là luật
bảo hiểm hàng hải. Hoạt động bảo hiểm hiện đại bắt nguồn từ Italia, Luật
bảo hiểm ra đời sớm nhất cũng chính tại nơi này. Qua điều tra người ta đã
chứng minh rằng luật bảo hiểm ra đời sớm nhất là luật hoạt động hàng hải
Căng-sô-ra-đô của Italia. Sau đó là luật An-lông năm1266, pháp lệnh hoạt
động hàng hải do nhà vua Pháp Louis 14 ban hành năm 1681( trong đó

chương 6 có quy định về bảo hiểm). Năm 1756, thượng nghị viện nước Anh
đã bổ nhiệm Man-phi-en-tơ làm quan toà đầu tiên. Vị quan toà này đã sử
dụng nguyên tắc cơ bản của luật buôn bán và những quan niệm của đạo luật
thông thường để giải quyết tranh chấp về bảo hiểm. Đến năm 1788 khi ông
về hưu đã tạo ra những tiền đề xét xử rất có giá trị. Luật bảo hiểm hàng hải
năm1906 của Anh đã có ảnh hưởng sâu rộng đối với luật kinh doanh bảo
hiểm của các nước.
b) Sự ra đời và phát triển của pháp luật kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam.
Ở nước ta, Công ty bảo hiểm Việt nam trước đây và Tổng Công ty bảo
hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET) là doanh nghiệp bảo hiểm
đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, BAOVIET đã ra đời
ngày17/12/1964 và bắt đầu chính thức hoạt động ngày 15/01/1965. Kể từ đó
cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một DNBH duy nhất là Tổng Công
ty bảo hiểm Việt Nam trực thộc Bộ Tài chính. Trong giai đoạn này tương tự
như Liên Xô (cũ), trong điều kiện thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
Nhà nước thực hiện độc quyền về bảo hiểm dưới hình thức hoạt động chỉ có
một doanh nghiệp nhà nước là BAOVIET.
Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện công
cuộc đổi mới kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền
đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu rõ: “ Khuyến khích phát triển,
đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các thành phần kinh tế và
mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ
nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày
18/12/1993, Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành Nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý
chuyên ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều
kiện kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố
chấm dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế khác nhau kể cả kinh tế tư nhân nước ngoài tham gia
vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Bộ Tài chính đã ban hành
các thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 100/CP, nhằm tạo hành lang
pháp lý làm cơ sở quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sau
đó ngày 14/6/1997 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/CP về việc sửa
đổi bổ sung một số điều quy định tại Nghị định số100/CP ngày 18/12/1993
của Chính Phủ về kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, có thể nói rằng hệ thống
văn bản pháp quy bảo hiểm này chưa hoàn chỉnh và đồng bộ với các hệ
thống pháp luật có liên quan khác như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
Luật Thương mại và Luật Dân sự... Vì vậy ngày 09/12/2000 Luật Kinh
doanh bảo hiểm của nước ta đã ra đời tạo cơ sở pháp lý vững chắc quy định
về quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm những phần
sau:
+ Quản lý trước khi hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua việc cấp
giấy phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, dựa trên các quy định về hình
thức pháp lý, lĩnh vực hoạt động mức vốn tối thiểu và ký quỹ của doanh
nghiệp bảo hiểm.
+ Quản lý giám sát trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đây là việc
quản lý giám sát bằng hệ thống mẫu báo cáo định kỳ và hoạt động kiểm tra


LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

tại chỗ nhằm đảm bảo cho các DNBH triệt để tuân thủ các quy định về khả
năng thanh toán, dự phòng nghiệp vụ, hoạt động đầu tư và nội dung thu chi
trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
+ Giám sát trường hợp giải thể, phá sản hoặc chia tách, sát nhập DNBH
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được bảo hiểm.
Khi chưa có Luật Kinh doanh bảo hiểm nhưng đã có một số bộ luật
có nội dung liên quan tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm như:
+ Bộ Luật Dân sự đã được Quốc hội khoá IX, kỳ hợp thứ 8 thông qua
ngày 28/10/1995, có hiệu lực từ ngày 1/7/1996. Trong Bộ Luật Dân sự của
nước ta hiện nay có riêng một mục Hợp đồng bảo hiểm trong chương II, từ
Điều 571 đến Điều 584 quy định về các loại hợp đồng bảo hiểm, hình thức
hợp đồng bảo hiểm, phí bảo hiểm, nghĩa vụ của bên được bảo hiểm và
DNBH, trả tiền bảo hiểm...
+ Bộ Luật Hàng hải Việt Nam đã được Quốc hội khoá VIII, kỳ hợp thứ
7 thông qua ngày 30/6/1990, có hiệu lực thi hành ngày 01/1/1991. Nội dung
chủ yếu của Bộ Luật Hàng hải này ngoài phần quy định chung ra, còn có
những phần như: Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm, chuyển giao quyền
theo hợp đồng bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm bao, thực hiện hợp đồng bảo
hiểm hàng hải, đòi người thứ ba bồi thường tổn thất, từ bỏ đối tượng bảo
hiểm thanh toán tiền bồi thường...
+ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam đã được Quốc hội khoá VIII,
kỳ hợp thứ 10 thông qua ngày 26/12/1991. Luật này có hiệu lực kể từ ngày
01/6/1992.Trong Luật này Điều 72 quy định rằng: “Người vận chuyển phải

bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của mình đối với tính mạng, sức khoẻ,
thương tích của hành khách tới mức giới hạn trách nhiệm dân sự của người
vận chuyển và theo quy định của pháp luật về bảo hiểm.
+ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc hội khoá IX kỳ
hợp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996. Luật này có hiệu lực kể từ ngày
công bố. Luật này thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày
29/12/1987 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ngày 30/6/1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 23/12/1992. Điều 28 của Luật Đầu tư

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nước ngoài tại Việt Nam hiện hành quy định: “Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh bảo hiểm
tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự tại DNBH Việt Nam hoặc tại DNBH
khác được phép hoạt động tại Việt Nam”.

2. Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm.
2.1- Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 9/12/2002, các doanh nghiệp
bảo hiểm có thể là: doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, công ty cổ phần bảo
hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh
nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài. Đây là thời kỳ của việc “tự
do hoá” và mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam. ở nước ta đến thời đến
thời điểm này (cuối năm 1998) đã có 9 DNBH đang hoạt động:

2.1.1- Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước.
Đến nay có 3 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước như sau:
- Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) thành lập
ngày17/12/1964, vốn điều lệ khi thành lập tại Tổng công ty năm 1996 là 629
tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ.
- Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), thành lập ngày
28/11/1994, vốn điều lệ 45 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
- Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC), thành lập ngày 23/01/1996, vốn
điều lệ 22 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ.
Ba doanh nghiệp Nhà nước trên giữ vai trò chủ đạo trong thị trường
bảo hiểm nước ta hiện nay, với tốc độ tăng 20% đến 30% hàng năm và thị
phần bảo hiểm chiếm từ 80% tới 90% tổng số phí bảo hiểm của toàn thị
trường bảo hiểm nước ta.
2.1.2- Công ty cổ phần bảo hiểm.
Cho tới nay (cuối năm 1998) nước ta mới có 3 công ty cổ phần bảo hiểm là:
- Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), thành lập
ngày 11/7/1995, vốn điều lệ 22 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

thọ, trong đó tỷ lệ vốn Nhà nước (do các doanh nghiệp Nhà nước đóng
góp) là 49%.
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), thành lập ngày
21/6/1996, vốn điều lệ 55 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, số
vốn của Nhà nước (do các doanh nghiệp Nhà nước đóng góp) chiếm hơn

80% tổng số vốn điều lệ của công ty cổ phần bảo hiểm này.
- Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện, mới thành lập cuối năm
1998 với vốn điều lệ 30 tỷ đồng. Trong đó vốn cổ phần Nhà nước là hơn
80%.
2.1.3- Công ty liên doanh bảo hiểm, gồm có những công ty sau:
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A), thành
lập ngày 05/8/1996, vốn điều lệ 6.000.000 USD. Đây là công ty liên
doanh giữa bên Việt nam là Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam và bên
nước ngoài gồm một công ty lớn nhất của Nhật Bản là Tokio Marine and
Fire Insurance Co.Ltd và một công ty bảo hiểm lớn của Anh là
Commercial Union. Chức năng chính của công ty liên doanh bảo hiểm
này là kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, phục vụ các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
- Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC- Unite Insurance. Company of
Viet Nam), thành lập ngày 01/11/1997, vốn điều lệ 6.000.000 USD. Đây
là công ty liên doanh giữa bên Việt nam là Bảo Minh và bên nước ngoài
gồm có hai doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Nhật Bản là Yasuda Fire and
Merine Insurance Co. Ltd và Mitsui Marine and Fire Insurance Co.Ltd.
Chức năng của công ty liên doanh bảo hiểm này là kinh doanh bảo hiểm
phi nhân thọ, phục vụ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc
biệt chú ý đến các nhà doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt nam.
2.1.4- Công ty môi giới bảo hiểm:
Hiện nay chỉ có công ty liên doanh môi giới bảo hiểm Aon- Inchinbrok,
thành lập năm 1993, vốn điều lệ 250.000 USD liên doanh giữa BAOVIET
và tập đoàn môi giới bảo AON của Mỹ. Chức năng của nó là người đại diện
cho khách hàng bảo hiểm tiến hành giao dịch lựa chọn DNBH đáng tin cậy
nhất để thu xếp hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của khách hàng cần mua

LuËn v¨n tèt nghiÖp


NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

bảo hiểm, lựa chọn những điều khoản bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ
phí bảo hiểm phù hợp, có lợi cho khách hàng bảo hiểm. Hơn nữa, theo tập
quán quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường
tham gia bảo hiểm thông qua môi giới bảo hiểm. Công ty môi giới bảo hiểm
này hiện nay đã hoạt động tương đối ổn định.Tất cả các dịch vụ do công ty
này môi giới với các doanh nghiệp bảo hiểm của nước ta đều là các công trình
có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.5- Công ty tái bảo hiểm:
Hiện chỉ có một công ty là Công ty Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam
(VINARE), doanh nghiệp Nhà nước, thành lập ngày 27/9/1994, vốn điều lệ
40 tỷ đồng. Chức năng của nó là kinh doanh tái bảo hiểm đối với các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước và nước ngoài.
Ngoài những doanh nghiệp kể trên ra, hiện nay đã có tới hơn 40
doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm của các nước Anh, Pháp, Đức,
Nhật, Mỹ, Thụy Sĩ, Singapore, Hàn Quốc,... đặt văn phòng đại diện ở nước
ta.
Hiện nay (năm 2002) xuất hiện thêm các doanh nghiệp bảo hiểm
100% vốn đầu tư nước ngoài gồm:
- Công ty TNHH BHNT Chinfon- Manulife (CMIC) là công ty
100% vốn nước ngoài giữa tập đoàn Chinfon (Đài Loan) và tập đoàn
Manulife (Canada), khai trương hoạt động ngày 12/6/1999, vốn kinh
doanh đăng ký 10 triệu USD, thời gian hoạt động 50 năm. Chức năng là
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
- Công ty TNHH BHNT Prudential là công ty 100% vốn nước
ngoài của Anh quốc, bắt đầu hoạt động ngày 29/10/1999, vốn điều lệ 40

triệu USD, thời gian hoạt động là 50 năm, cũng có chức năng kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ.
- Công ty THHN BHNT AIA là công ty 100% vốn nước ngoài của Mỹ,
bắt đầu hoạt động ngày 22/02/2000, vốn điều lệ 10 triệu USD, thời gian hoạt
động 50 năm. Chức năng cũng là kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

2.2- Những đặc trưng pháp lý của doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm là những pháp nhân được thành lập theo những
điều kiện và trình tự do luật định, chuyên hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhằm mục đích tạo ra thu nhập và lợi nhuận.
2.2.1- Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập theo những điều kiện và trình
tự do luật định.
DNBH gắn bó chặt chẽ với quốc kế dân sinh, được coi là một tổ chức
kinh doanh ngành nghề đặc biệt, giữ một vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế và phải được thành lập theo đúng pháp luật.
Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ hợp thứ 8 thông qua ngày 09 tháng 12 năm
2000, đã quy định cụ thể điều kiện để được Bộ Tài chính cấp giấy phép
thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm. Theo Điều 63 Luật kinh
doanh bảo hiểm, điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động
gồm:
1.Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo
quy định của Chính Phủ.

2.Có hồ sơ xin cấp phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều
64 của Luật này.
3.Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của luật
này và các quy định khác của pháp luật.
4.Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn,
nghiệp vụ về bảo hiểm.
2.2.2- Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Việc thành lập và hoạt động của DNBH nhằm thu được lợi ích kinh tế.
Mục đích của người bỏ tiền vốn ra hoặc những người góp vốn cổ phần để
thành lập DNBH nhằm thông qua con đường hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp để thu lợi nhuận. Việc kinh doanh của DNBH cũng được tự
chủ kinh doanh những nghiệp vụ cần bảo hiểm, nhằm nâng cao hiệu quả và
thực hiện tăng thêm giá trị tài sản dưới sự kiểm soát vĩ mô của Nhà nước,

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

theo sự đòi hỏi của thị trường. Đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa hình
thức DNBH với các hình thức tổ chức khác về BHXH, BHYT của Nhà
nước.
2.2.3- Nội dung kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là những nghiệp vụ
bảo hiểm.
Đây là sự khác nhau giữa DNBH với những doanh nghiệp thuộc loại
hình ngành nghề khác. Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh
doanh có tính chất giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo
hiểm được lập ra bằng cách thu phí bảo hiểm để bồi thường hoặc trả tiền bảo

hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm
khi xảy ra thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ.
Sự khác nhau về bản chất giữa nghiệp vụ bảo hiểm với các nghiệp vụ
khác là yếu tố then chốt quyết định sự khác nhau giữa DNBH với doanh
nghiệp thuộc loại hình và ngành nghề khác.
2.2.4- Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân có tính chất liên hiệp và tính
chất xã hội.
DNBH tiếp nhận rủi ro, trách nhiệm với khách hàng rất lớn, vì vậy trên
thế giới không có loại DNBH tư nhân, cá nhân. Bởi vì nếu cá nhân đó gặp
tai nạn rủi ro, thì không có người giải quyết tiếp các trách nhiệm đã nhận, vì
vậy ít nhất DNBH phải là một pháp nhân liên hiệp một số cá nhân để luôn
luôn có người gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với khách hàng của
họ.
2.2.5- Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân có tính cách riêng biệt.
DNBH là tổ chức kinh tế có tài sản, bộ máy tổ chức riêng và tự chịu
trách nhiệm về tài sản, có tư cách là chủ thể dân sự độc lập, được hưởng
quyền lợi dân sự và có nghĩa vụ dân sự riêng biệt theo pháp luật. Hình thức
tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm quyết định điều kiện và trình tự thành
lập, phương thức tập trung vốn và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp này.
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định: “ doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm:
doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, công
ty liên doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam”.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


2.3- Thành lập doanh nghiệp bảo hiểm.
Việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện theo đúng điều
kiện và trình tự do luật định và phải có đủ một số vốn nhất định. Ở nước ta,
Chính Phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính Phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm nên khi thành lập DNBH phải được
Bộ tài chính xét duyệt việc này. Điều kiện cần thiết để được Bộ tài chính cấp
phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được quy định trong
Luật kinh doanh bảo hiểm tại Điều 63. Còn Điều 64 quy định cụ thể về hồ
sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Điều 69 quy định những thay
đổi phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản của DNBH về điều lệ
tổ chức hoạt động.
Quản lý chặt chẽ doanh nghiệp bảo hiểm, không cho phép những
doanh nghiệp chưa được phép đăng ký kinh doanh mà đã kinh doanh bảo
hiểm là nguyên tắc chung trong luật bảo hiểm của các nước.
Khi thành lập DNBH phải có đủ số vốn theo luật định. Theo Khoản 1
Điều 4 Nghị định số 43/2001/NĐ- CP ngày 01/8/2001 của Chính Phủ quy
định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm,
có quy định về vốn pháp định như sau:
1. Mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm:
a) Kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ: 70.000.000.000 đồng Việt
Nam hoặc 5.000.000 đô- la Mỹ;
b) Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ: 140.000.000.000 đồng Việt
Nam hoặc 10.000.000 đô- la Mỹ.
Trong quá trình hoạt động, DNBH phải luôn duy trì mức vốn điều lệ đã
góp không thấp hơn mức vốn pháp định quy định tại Khoản 1 Điều 4 của
Nghị định số 43/2001/NĐ- CP.

LuËn v¨n tèt nghiÖp


NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Vốn điều lệ của DNBH chính là vốn đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là vốn mà doanh
nghiệp đã ghi vào điều lệ tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, vốn này phải
có đủ khi thành lập doanh nghiệp và được doanh nghiệp đăng ký. Vốn này là
cơ sở vật chất để doanh nghiệp kinh doanh, cũng là sự bảo lãnh bằng tài sản
của người chủ nợ đồng thời còn là hạn mức trách nhiệm đóng góp của người
góp vốn hoặc người góp cổ phần vào doanh nghiệp. Tính chất kinh doanh
của doanh nghiệp bảo hiểm đã quyết định số vốn của doanh nghiệp bảo hiểm
phải phải cao hơn doanh nghiệp cùng loại, mới có đủ năng lực để thực hiện
trách nhiệm tài chính đối với khách hàng. Hơn nữa, vốn của doanh nghiệp
bảo hiểm còn khác với các doanh nghiệp ngành nghề khác ở chỗ vốn này
phải là vốn thực nộp bằng tiền. Các cổ đông của doanh nghiệp ngành nghề
khác có thể góp vốn bằng tiền, cũng có thể góp vốn bằng hiện vật, quyền lợi
về tài sản công nghiệp, quyền lợi sử dụng kỹ thuật không phải sáng chế phát
minh, quyền sử dụng đất đai. Vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp
ngành nghề khác đó có thể được thể hiện là vốn bằng tiền, cũng có thể được
thể hiện dưới hình thức bằng hiện vật và vốn bằng tài sản vô hình. Đối với
những người góp vốn hoặc góp cổ phần của doanh nghiệp bảo hiểm tuy rằng
có thể góp vốn dưới các hình thức giống như của các doanh nghiệp ngành
nghề khác như góp vốn bằng tiền, hiện vật, quyền lợi tài sản công nghiệp,
quyền sử dụng kỹ thuật không phải sáng chế phát minh hoặc quyền sử dụng
đất nhưng riêng phần vốn thực nộp bằng tiền bằng tiền mặt trong đó phải đạt
đủ mức vốn pháp định. Vốn bằng tiền có nghĩa là vốn được thể hiện bằng

tiền mặt được gửi tại các ngân hàng. Vốn thực nộp bằng tiền có nghĩa là
khoản tiền mặt thực tế đã nộp để góp vốn cho những người có quyền sở hữu
doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp.

3. Các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm
` Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính, sự phát triển của ngành bảo hiểm
gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Hoạt động bảo hiểm sôi

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

động kéo theo sự phát triển của các hoạt động trong lĩnh vực đó như: Hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm.

3.1- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm: Kinh doanh bảo hiểm
là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó
doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ
sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền
bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Bảo hiểm là một loại “hàng hoá đặc biệt”, vì vậy kinh doanh bảo hiểm
chính là kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt đó. Trong nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh tất yếu xảy ra, rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi cho
nên các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải tham gia bảo hiểm.
Bên cạnh đó việc mở cửa thị trường “tự do hoá” thương mại, thông thương

hội nhập kinh tế văn hoá với tất cả các nước trên thế giới là xu thế phát triển
của thời đại. Vì thế một quốc gia có tình hình chính trị ổn định, đời sống
nhân dân ngày một nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện, kinh tế
tăng trưởng tốt là “mảnh đất màu mỡ” cho bảo hiểm sinh trưởng và phát
triển.
Việt Nam là một quốc gia như thế. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm
được phân thành hai lĩnh vực: kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ. Cả hai đều có sức hút ở Việt Nam, đặc biệt bảo hiểm
nhân thọ được đánh giá cao.
Theo ông Jonathan Bloomer, tổng giám đốc điều hành tập đoàn
Prudential toàn cầu cho biết trong chiến lược phát triển của Prudential tại
Châu Á, Việt Nam là một thị trường rất được chú ý vì thị trường bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn. Với số dân hơn 80 triệu người,
tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng tốt, đời sống người dân ngày
càng nâng cao thì nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng là điều tất yếu. Ông

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Bloomer nói: “Prudential đã xây dựng một kế hoạch kinh doanh dài hạn ở
Việt Nam với quyết tâm trở thành một trong những công ty hàng đầu tại
đây”. Từ giữa năm 2001, tập đoàn Prudential đã quyết tâm tăng thêm vốn
đầu tư vào Việt Nam từ 15 triệu đô-la Mỹ lên 40 triệu đô-la Mỹ.
Như vậy thị trường bảo hiểm ngày càng phức tạp, cần thiết phải có sự
điều chỉnh của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhằm quản lý hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, duy trì sự cạnh tranh lành mạnh đồng thời cũng phải

tạo môi trường pháp lý thông thoáng để kích đầu tư trong và ngoài nước xây
dựng kinh tế nước nhà.
3.2- Hoạt động môi giới bảo hiểm.
Môi giới bảo hiểm là người căn cứ vào lợi ích của người tham gia bảo
hiểm để đứng ra làm công việc trung gian phục vụ cho người tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm ký hợp đồng bảo hiểm, sau đó được nhận
tiền hoa hồng theo đúng pháp luật. Nếu người tham gia bảo hiểm thông qua
môi giới bảo hiểm để ký hợp đồng bảo hiểm, tuy rằng môi giới bảo hiểm
phục vụ cho người tham gia bảo hiểm nhưng DNBH lại phải trả tiền hoa
hồng cho môi giới. Chẳng những thế, người tham gia bảo hiểm còn uỷ
quyền môi giới bảo hiểm đòi các DNBH trả tiền bồi thường (trả tiền bảo
hiểm).
Theo khoản 4 Điều3 Luật kinh doanh bảo hiểm: Hoạt động môi giới
bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm về sản
phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, DNBH và các công
việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
Thông thường, người môi giới bảo hiểm có trình độ hiểu biết rất phong
phú về nghiệp vụ bảo hiểm và thị trường bảo hiểm, có thể cung cấp cho
người tham gia bảo hiểm những phương án bảo hiểm hợp lý nhất, có hiệu
quả nhất để người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn, đồng thời còn có
những dịch vụ tư vấn cho người tham gia bảo hiểm. Với thị trường bảo hiểm
không có môi giới bảo hiểm tham gia hoạt động chỉ là thị trường bảo hiểm

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


Website: Email : Tel (: 0918.775.368


sơ khai hiệu quả thấp. Như vậy không thể hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, ngoài chế độ môi giới bảo hiểm rất
phát triển ví dụ như mọi nghiệp vụ bảo hiểm của Lloyd’s ở Anh đều phải
thông qua môi giới bảo hiểm thu xếp trao đổi mới hoàn thành công việc.
Theo tập quán thương mại của Lloyd’s, việc ký kết hợp đồng bảo hiểm phải
thông qua môi giới bảo hiểm sắp xếp và đề nghị, sau khi xảy ra rủi ro thuộc
trách nhiệm bảo hiểm, môi giới bảo hiểm cũng phải chịu trách nhiệm giải
quyết vấn đề bồi thường. Hầu như mỗi người dân Nhật bản đều hiểu rõ về
môi giới bảo hiểm. Trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bảo
hiểm đã trở thành hàng hoá thì cần phải bán bảo hiểm cho mọi người trong
xã hội. Tuy vậy khi xây dựng sách lược kinh doanh bán bảo hiểm, nhà kinh
doanh bảo hiểm chẳng những cần phải xét tới lợi ích của DNBH mà còn
phải xét tới lợi ích của người được bảo hiểm. Nhưng DNBH không thể biết
rõ tình hình thật đầy đủ trên thị trường bảo hiểm, nhất là yêu cầu bảo hiểm,
tâm trạng của người được bảo hiểm... Chỉ có cách thông qua hoạt động của
người môi giới trên khắp mọi nơi phản ảnh lại cho DNBH biết được những
tin tức đó, để bán ra được những sản phẩm thích hợp, tạo đà cho nghiệp vụ
bảo hiểm phát triển không ngừng. Vì vậy trong điều kiện kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, cần xây dựng chế độ môi giới bảo hiểm phù hợp với nhu
cầu phát triển không ngừng của hoạt động bảo hiểm ở nước ta, đưa thị trường
bảo hiểm của nước ta nhanh chóng hoà nhập thị trường bảo hiểm quốc tế.
3.3- Hoạt động đại lý bảo hiểm:
Theo khoản 3 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm: Hoạt động đại lý bảo
hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán bảo hiểm, thu xếp việc giao kết hợp
đồng bảo hiểm và các công việc khác nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm
theo sự uỷ quyền của DNBH.
Như vậy hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động của con người nhằm
hỗ trợ thúc đẩy hoạt động kinh doanh của DNBH phát triển thông qua việc
tổ chức chào bán, giới thiệu sản phẩm bảo hiểm đến từng người. Người đại

lý bảo hiểm sẽ đại diện cho DNBH ký kết hợp đồng bảo hiểm với người

LuËn v¨n tèt nghiÖp

NguyÔn Thu H¬ng- Líp 40B


×