Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

lạm phát, tiền lương cũng như giá cả và ảnh hưởng của chúng, tác động của chúng đến hoạt động tài chín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.28 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Tài chính là thành phần rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, bản chất
của nó là tiền và các vấn đề khác liên quan đến tiền. Một quốc gia muốn có một
nền kinh tế phát triển cần có các hoạt động tài chính ổn định và mạnh mẽ.
Trong đó, nền kinh tế từng quốc gia được chi phối bởi các chính sách kinh tế
của quốc gia đó, vì vậy các chính sách như chính saách tiền tệ, chính sách tài
khóa…và các yếu tố như tiền lương, giá cả, lạm phát có vai trò ảnh hưởng rất
lớn trên thị trường nói chung cũng cũng như nền kinh tế của quốc gia nói riêng.
Tất cả đều có mối quan hệ với nhau qua đó quyết định tình hình, thực trạng của
nền kinh tế đất nước .Biết được mối liên quan và hệ quả của các yếu tố , đặc
biệt là mối quan hệ giữa tiền lương – giá cả - lạm phát giúp ta có thể dự đoán,
ra quyết định chiến lược hay lập kế hoạch phòng tránh các rủi ro về tiền tệ
trong tương lai cũng như điều khiển được dòng tiền tiêu thụ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của báo cáo này là nghiên cứu tác động của sự gia tăng cung
tiền tệ, tới sự gia tăng của giá cả. Đồng thời, cũng nghiên cứu mối quan hệ
nhân quả giữa lượng tiền cung ứng và giá cả. Giúp người đọc có cái nhìn hoàn
thiện hơn về thị trường tiền tệ cũng như các hoạt động của thị trường tiền tệ đối
với nền kinh tế của quốc gia đó.

3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những khái niệm cơ bản về lạm phát, tiền lương cũng như
giá cả và ảnh hưởng của chúng, tác động của chúng đến hoạt động tài chính,
tình hình nền kinh tế đất nước và đúc kết để đưa ra giải pháp cần thiết cho nền
kinh tế đất nước.

4. Nội dung nghiên cứu:
Bao gồm 3 chương :




- Chương 1. Cơ sở lý luận.
- Chương 2. Thực trạng.
- Chương 3. Nhận xét – kiến nghị.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

Lạm phát và nguyên nhân gây ra lạm phát

1.1.1. Lạm phát

Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả các hàng hóa tăng
lên so với mức giá thời điểm trước (vật giá leo thang). Cần phải hiểu việc tăng
giá ở đây là gia tăng chung của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ, chứ không
phải tăng giá một hàng hóa cá biệt. Khi giá trị của hàng hóa và dịch vụ tăng
lên, đồng nghĩa với sức mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng một lượng
tiền nhưng người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước đó.
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự
phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác.
Lạm phát cũng có thể là do khối lượng tiền lưu hành trong xã hội tăng
lên, hoặc là do Chính phủ phát hành thêm tiền vào thị trường để bù đắp thâm
hụt ngân sách. Trong khi đó, số lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng, dẫn
đến thừa tiền. Khi đó sẽ kích thích người tiêu dùng tăng sức mua (tăng cầu)
nhưng cung không đổi sẽ khiến giá cả tăng vọt, dẫn đến siêu lạm phát.
Lạm phát cũng có thể do tác động của yếu tố bên ngoài, do dòng tiền

nước ngoài đổ vào trong nước nhiều dẫn đến thừa tiền, hoặc do giá của một số
mặt hàng thiết yếu nào đó trên thế giới tăng, chẳng hạn như giá dầu thô tăng,
dẫn đến các nước có nhập khẩu dầu sẽ tăng giá điện, cước phí vận chuyển hàng
hóa cũng tăng. Điện và cước phí vận chuyển là những chi phí đầu vào chủ yếu
của tất cả các ngành hàng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, dẫn đến giá thành sản
phẩm tăng theo.
Lạm phát có thể do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau, kể cả chính
sách tăng lương của Chính phủ cũng có thể góp phần tác động đến lạm phát, vì
khi tăng lương, người lao động thu nhập được nhiều tiền hơn và mạnh tay chi
tiêu, mua sắm, cầu vượt cung. Ngay cả trong trường hợp các nhà sản xuất, phân
phối và bán lẻ đua nhau khuyến mãi, kích cầu làm cho thị trường tăng sức mua,
tạo ra đòn bẫy cầu tăng vượt cung, dẫn đến thị trường tự điều tiết tăng giá góp
phần gây ra lạm phát, nhất là thời điểm giáp tết.


Tóm lại, lạm phát xảy ra khi xuất hiện sự gia tăng mặt bằng chung về
giá cả hàng hóa. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt
hàng kia giảm, nhưng nếu mức giá chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá
chung giảm, ta có giảm phát. Nếu chỉ có một vài mặt hàng chẳng hạn như giá
đường, hay giá gạo tăng một cách đơn lẻ thì không có nghĩa là lạm phát, mà
đơn giản chỉ là một sự mất cân đối tạm thời giữa cung và cầu trong ngắn hạn.
Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền bị sụt giảm.

1.1.2. Cách tính lạm phát

Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế, thông thường dựa
trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, các liên đoàn lao động và
các tạp chí kinh doanh…
Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra

một chỉ số giá cả đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập
hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát vì giá trị của chỉ
số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy
nhiên, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI
(consumer price index) là chỉ số đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng
hóa và dịch vụ, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế...,
được mua bởi "người tiêu dùng thông thường".
Chỉ số đo lường lạm phát


Hệ số giảm phát GDP (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị GDP
tính theo giá hiện hành và GDP tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức
tăng và giảm giá trên tất cả các loại hàng hoá dịch vụ tính trong GDP.



Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình quân gia quyền
của một nhóm các hàng hóa thiết yếu.


Ta có công thức tính tỉ lệ lạm phát như sau

:
Ở Việt Nam, giá nhóm hàng lương thực, vàng, đô la là nhóm có trọng số
lớn. Chỉ số này không phản ánh sự biến động giá chung, nhưng nó phản ánh
biến động giá cả ảnh hưởng nhiều nhất đến đời sống, tiêu dùng.
Khi nói tốc độ lạm phát, nguời ta cũng thường dùng chỉ số này. Khi nền
kinh tế có lạm phát, nếu không do nguyên nhân tác động từ nước ngoài, hay

một thay đổi lớn về cung (thừa) sản phẩm, thì nó thể hiện cầu hàng hóa lớn hơn
cung hàng hóa. Việc duy trì cầu hàng hóa lớn hơn cung hàng hóa ở một mức độ
vừa phải, do đó, lạm phát ở mức vừa phải, là cần thiết để kích thích sản xuất,
giúp cho việc tiêu thụ hàng hóa tốt hơn và tạo lợi nhuận cần thiết cho các
doanh nghiệp đầu tư nâng cao công nghệ, mở rộng sản xuất. Nếu nền kinh tế sa
vào giảm phát, nghĩa là sẽ bị thừa cung, thừa ứ hàng hóa, gây ra tình trạng đình
đốn, thua lỗ ở các doanh nghiệp.

1.1.3. Các nguyên nhân gây ra lạm phát

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm
phát do cầu kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
Cân đối thu chi là điều không thể tránh khỏi khi xảy ra lạm phát.


Lạm phát do cầu kéo: Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng
lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng
khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa
trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị
trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.



Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân,
thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất


của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng
sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền

kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.


Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần
tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm
ngành kinh doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải
tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh
doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các
doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi
nhuận và làm phát sinh lạm phát.



Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt
hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị
trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới
(chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng
thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.



Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng
cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm
được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước
giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi
tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.




Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu
tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ
phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm
phát.



Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi
mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu
cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên
nhân gây ra lạm phát.

1.2.

Khái niệm, bản chất và chức năng của tiền lương


1.2.1. Khái niệm về tiền lương

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tiền lương là một phần thu nhập quốc dân
được nhà nước trả cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng lao
động mà người đó cống hiến cho xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương được xem là giá cả của sức lao
động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động do người sử
dụng lao động trả cho người lao động khi người lao động hoàn thành một công
việc nhất định. Tiền lương bao gồm:



Tiền lương danh nghĩa (Ldn) là tiền mặt nhận được trên sổ sách, nó chưa phản
ánh đúng thực trạng cuộc sống của người lao động chưa tính đến giá cả hàng
hoá và tỷ lệ lạm phát.



Tiền lương thực tế (Ltt) biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ
mà người lao động mua dược bằng tiền lương danh nghĩa. Như vậy, tiền lương
thực tế phản ánh đúng thực trạng cuộc sống của người lao động, nó kể đến sự
biến động của giá cả hàng hoá và yếu tố lạm phát.
Tổ chức hợp lý tiền lương có một vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế, đây chính là động lực thúc đẩy người
lao động hăng hiái làm việc, nâng cao năng suất lao động.

1.2.2. Bản chất của tiền lương

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền lương là một phần thu
nhập quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động nhận được để bù đắp cho
lao động đã bỏ ra tuỳ theo số lượng và chất lượng của người lao động đó. Như
vậy, tiền lương là một phần giá trị mới sáng tạo ra được phân phối cho người
lao động để tái sản xuất sức lao động của mình. Vì người lao động trong quá
trình tham gia sản xuất phải hao phí một lương sức lao động nhất định và sau
đó phải được bù đắp bằng việc sử dụng tư liệu tiêu dùng.
Tiền lương dưới CNXH là một bộ phận của thu nhập quốc dân được
Nhà nước phân phối cho người lao động vì thế nó chịu ảnh hưởng của một loạt
nhân tố: Trình độ phát triển sản xuất, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng trong


từng thời kỳ và chính sách của Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế chính

trị trong thời kỳ đó. Như vậy tiền lương của người lao động còn phụ thuộc vào
hoàn cảnh kinh tế xã hội của Đất nước. Một nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu,
các phương tiện sản xuất chưa tiên tiến, trình độ lao động chưa cao, hiệu quả
sản xuất kinh doanh còn thấp thì tiền lương chưa thể cao được. Mặt khác, lúc
đó thu nhập quốc dân chưa đủ để đáp nhu cầu cao về tiền lương của toàn xã
hội. Như ta biết thu nhập quốc dân phụ thuộc vào hai yếu tố đó là: Số lượng lao
động trong khu vực sản xuất vật chất và năng suất lao động bình quân của khối
sản xuất vật chất. Vì vậy, tiền lương chỉ được tăng lên trên cơ sở tăng số lượng
lao động trong khu vực sản xuất và tăng năng xuất lao động của khối này.
Sức lao động kết hợp với đối tượng, tư liệu lao động hợp lại thành quá
trình lao động. Tiền lương mà người lao động nhận được do quá trình lao động
của họ phải bù đắp được sự hao phí về thể lực và trí lực mà người lao động bỏ
ra trong quá trình lao động. Việc trả lương cho người lao động được tính toán
một cách chi tiết trong hoạch toán kinh doanh vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí,
vừa nâng cao đời sống cho người lao động. Tiền lương phản ánh mối quan hệ
phân phối sản phẩm giữa toàn thể xã hội do Nhà nước là đại diện với người lao
động.
Tiền lương, tiền công cần phải xác định trên cơ sở tính đúng, tính đủ giá
trị sức lao động dựa trên sự hao phí sức lao động và hiệu quả lao động. đó là
các yếu tố đảm bảo quá trình tái sản xuất sức lao động, thoả mãn nhu cầu ăn, ở,
mặc… việc trả lương cho người lao động không phân biệt độ tuổi giới tính, tôn
giáo mà trả theo số lượng và chất lượng lao động bỏ ra để hoàn thành công việc
có tính đến các yếu tố nặng nhọc, độc hại, lạm phát…

1.2.3. Chức năng của tiền lương

Trong bất cứ một doanh nghiệp nào, doanh nghiệp sản xuất cũng như
doanh nghiệp thương mại, tiền lương thực hiện hai chức năng sau:

• Về phương diện xã hội:

Trong bất cứ chế độ xã hội nào, tiền lương cũng thực hiện chức năng
kinh tế cơ bản của nó là đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho xã hội.Tuy
nhiên mức độ tái sản xuất mở rộng cho người lao động và cách tính, cách trả


tiền lương trong mỗi chế độ là khác nhau. Người lao động tái sản xuất sức lao
động của mình thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền lương
của họ. Để tái sản xuất sức lao động tiền lương phải đảm bảo tiêu dùng cá nhân
người lao động và gia đình họ. Để thực hiện chính sách này trong công tác tiền
lương phải:
+ Nhà nước phải định mức lương tối thiểu, Nhà nước khuyến khích các
doanh nghiệp thực hiện mức lương tối thiểu cao hơn so với quy định của Chính phủ.

mức lương tối thiểu phải đảm bảo nuôi sống gia đình và bản thân họ. Mức
lương tối thiểu là nền tảng cho chính sách tiền lương và việc trả lương cho các
doanh nghiệp, bởi vậy nó phải được thể chế bằng pháp luật buộc mọi doanh
nghiệp khi sử dụng lao động phải thực hiện. Mức lương tối thiểu được ấn định
theo giá linh hoạt, đảm bảo cho người lao động làm việc đơn giản nhất trong
điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích
luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng và làm căn cứ để tính các mức lương cho
các loại lao động khác.
+ Mức lương cơ bản khác: Được xác định trên cơ sở mức giá hàng vật
phẩm tiêu dùng trong từng trường hợp một, bởi vậy khi giá cả có biến động,
đặc biệt khi tốc độ lạm phát cao phải điều chỉnh tiền lương phù hợp để đảm bảo
đời sống của người lao động.

• Về phương diện kinh tế:
Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật chất
đối với người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình
mình mà lao động một cách tích cực với chất lượng kết quả ngày càng cao.

Để trở thành đòn bẩy kinh tế, việc trả lương phải gắn liền với kết quả
lao động, tổ chức tiền lương phải nhằm khuyến khích người lao động nâng cao
năng xuất, chất lượng và hiệu quả lao động. Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng. Bội số của tiền lương phải phản ánh đúng
sự khác biệt, trong tiền lương giữa loại lao động có trình độ thấp nhất và cao
nhất được hình thành trong quá trình lao động.

1.3.

Giá cả và chức năng của giá cả
1.3.1. Khái niệm về giá cả


Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nghĩa là số lượng tiền
phải trả cho hàng hoá đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng
hoá, một dịch vụ, hay một tài sản nào đó. Giá cả của hàng hoá nói chung là đại
lượng thay đổi xoay quanh giá trị. Như vậy, trước hết giá cả gắn liền với tiền
tệ. Tiền từ xa xưa đã có vai trò vật ngang giá chung dùng để trao đổi với 3 chức
năng chủ yếu: (i) thước đo giá trị, (ii) phương tiện thanh toán và (iii) phương
tiện cất trữ.
Bất kỳ sản phẩm lao động hay hàng hóa nào đều có giá trị và giá trị sử
dụng. Giá trị sử dụng của một vật là tính chất có ích, công dụng của vật thể đó
có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó cho sản xuất hoặc cho sự tiêu dùng cá
nhân. Một vật có thể có nhiều giá trị sử dụng và ngược lại cùng một mục đích
công việc có thể sử dụng nhiều vật dụng khác nhau. Giá trị sử dụng được quyết
định bởi những thuộc tính tự nhiên và những thuộc tính mà con người hoạt
động tạo ra cho nó.
Giá trị - theo Karl Marx – là lao động xã hội cần thiết kết tinh trong
hàng hoá. Nếu ai đó phải bỏ ra một lượng lao động cá nhân lớn hơn lao động
xã hội cần thiết để làm ra một hàng hoá nào đó thì nhất định sẽ khó có thể duy

trì công việc của mình do ưu thế thuộc về những người chỉ phải bỏ ra lượng lao
động cá nhân ít hơn hoặc ít nhất là bằng lao động xã hội cần thiết để làm ra
hàng hoá đó. Đây chính là bản chất của qui luật giá trị và phân công lao động
xã hội.
Giá cả, trong điều kiện trao đổi tự nguyện, hình thành theo quy
luật cung - cầu: Khi cung và cầu của một hay một loại hàng hóa về cơ bản ăn
khớp với nhau thì giá cả phản ánh và phù hợp với giá trị của hàng hoá đó,
trường hợp này ít khi xảy ra. Giá cả của hàng hoá sẽ cao hơn giá trị của hàng
hoá nếu số lượng cung thấp hơn cầu. Ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả sẽ
thấp hơn giá trị của hàng hoá đó.
Khái niệm giá cả là trung tâm của kinh tế học vi mô khi nghiên cứu các
hoạt động của các doanh nghiệp và người tiêu dùng, cũng là trung tâm của tiếp
thị khi nghiên cứu các kế hoạch tiếp thị.

1.3.2. Chức năng của giá cả


Theo Milton Friedman – nhà kinh tế nhận giải Nobel năm 1976 – giá cả
có ba chức năng quan trọng:


Truyền tín hiệu thông tin
Giá cả truyền tín hiệu thông tin để ra quyết định điều chỉnh hoạt động
kinh tế như tiêu dùng, sản xuất, tiết kiệm, đầu tư…
Khi cầu của một hàng hóa tăng lên, chẳng hạn như do thu nhập bình
quân của người Việt Nam tăng lên (GDP bình quân đầu người hiện đã vượt
1000USD/năm) mà cầu xe hơi tăng, những người bán hàng sẽ nhận ra số lượng
đơn đặt hàng ngày một nhiều hơn. Khi đó, người bán hàng sẽ ra quyết định: (i)
tăng giá bán và (ii) yêu cầu sản xuất hoặc nhập khẩu nhiều hơn. Hãng chế tạo
xe hơi nhận nhiều đơn đặt hàng với mức giá cao hơn sẽ mở rộng sản xuất, trả

lương cao hơn và tạo điều kiện làm việc tốt hơn. Công nhân nhận lương cao
hơn có nhu cầu tiêu dùng nhiều hơn và làm tăng cầu của nhiều hàng hóa khác
trong nền kinh tế. Cứ như vậy, tín hiệu giá tăng lan tỏa trong nền kinh tế, thúc
đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, giá không tăng mãi. Khi vượt giá xe hơi vượt qua
mức cân bằng – là mức giá tại đó người mua sẵn sàng mua và người bán sẵn
sàng bán – thị trường sẽ dư thừa xe hơi. Người bán hàng bán được ít hơn sẽ
giảm giá và giảm số lượng yêu cầu sản xuất hoặc nhập khẩu. Một quy trình thu
hẹp quy mô hoạt động kinh tế xuất hiện.
Giá chỉ truyền các thông tin quan trọng và tới những người cần thông
tin. Một người lái xe taxi rất quan tâm và ghi nhận ngay thông tin điều chỉnh
giá bán lẻ xăng dầu nhưng không cần biết và hầu như không chịu tác động gì
của thông tin thay đổi giá ô tô siêu sang như Bentley hay Rolls-Royce.
Truyền tín hiệu giá chỉ đạt hiệu quả khi người cần thông tin nhận được
chính xác thông tin có ý nghĩa sử dụng mà không bị lẫn hay kèm với các thông
tin vô nghĩa khác. Hệ thống giá trong điều kiện tự do lựa chọn sẽ tự động giải
quyết vấn đề này. Người truyền tín hiệu giá có động cơ để tìm tới đúng người
có nhu cầu nắm bắt thông tin. Ở chiều ngược lại, người có nhu cầu nắm bắt
thông tin có động cơ tìm tới nguồn cung cấp thông tin họ cần. Thực tế Việt
Nam cho thấy, cùng với sự sôi động và mối quan tâm ngày càng lớn hơn của
công chúng với thị trường chứng khoán, các vấn đề tài chính-ngân hàng, kinh
tế vĩ mô, môi trường kinh doanh là sự tăng trưởng (cả số lượng và chất lượng)


của các kênh truyền hình, báo giấy, báo mạng chuyên sâu về những lĩnh vực
này.
Bất kỳ cản trở nào tới quá trình truyền tín hiệu giá cũng sẽ dẫn tới kết
cục gây suy giảm mức độ chính xác của thông tin. Độc quyền là hiện tượng đặc
trưng của vấn đề này. Khi đó, tín hiệu về giá vẫn được truyền đi những đã bị
bóp méo. Quyết định tăng giá điện truyền đi một thông tin quan trọng. Người
dân, các doanh nghiệp và cả xã hội đều phải cân nhắc và điều chỉnh hành vi

tiêu dùng điện. Tuy nhiên, độc quyền cung ứng điện có thể dẫn tới khả năng
các thông tin những yếu tố tác động tới giá điện như đầu tư mới các nhà máy
điện, hiệu quả khai thác cơ sở sản xuất điện hiện có, kết quả kinh doanh của
ngành điện.. không được công bố đầy đủ và chính xác tới công chúng.
Chính phủ có nhiều công cụ khác nhau để can thiệp vào quá trình truyền
tín hiệu giá như hệ thống thuế khóa, rào cản thương mại, các chính sách cố
định và điều chỉnh giá như quy định tiền lương tối thiểu, kiểm soát giá với một
số mặt hàng, nhóm hàng, thông qua chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để
điều tiết lạm phát v.v..


Khuyến khích cải thiện hiệu quả sản xuất và sử dụng nguồn lực
Quá trình truyền tín hiệu giá hiệu quả và chính xác sẽ trở nên vô nghĩa
nếu không được sử dụng để đưa ra các quyết định hành động kinh tế, như sản
xuất hay tiêu dùng.
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó,
có mức hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng
hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy
người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao
phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng
lãi. Điều đó kích thích những người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm… nhằm tăng năng
suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh
mẽ hơn. Nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến
toàn bộ năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã
hội không ngừng giảm xuống.





Phân phối thu nhập
Giá cả xác định mỗi người sẽ nhận được bao nhiêu từ sản phẩm. Chênh
lệch giữa giá bán lẻ và giá bán buôn là thu nhập của người bán hàng. Chênh
lệch giữa giá bán buôn và giá thành sản xuất là thu nhập của người sản xuất.
Tiền lương – giá của người lao động, một bộ phận của giá thành sản xuất – là
thu nhập của người lao động.
Giá cả phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo.
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao
động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua
sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao
động trở thành ông chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động
cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi
vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động
làm thuê.
Như vậy là về mặt vĩ mô, giá cả còn phản ánh tình trạng cung cầu và
hiệu quả thị trường. Chính vì vậy, giá cả là cơ sở để tính toán lạm phát (lạm
phát được hiểu là sự tăng lên của mức giá chung và được đo bằng CPI – chỉ số
giá tiêu dùng và/hoặc PPI – chỉ số giá sản xuất).
Về mặt vi mô, giá cả giúp cho mỗi cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp
so sánh và quyết định mua hay bán cả các yếu tố sản xuất và yếu tố tiêu dùng.
Bên cạnh giá trị sử dụng đôi khi trừu tượng thì giá cả là yếu tố quan trọng nhất,
dễ thấy nhất cho mọi quyết định mua bán. Giá cả là kết quả của cuộc đấu tranh
giữa người mua và người bán. Giá cả còn là công cụ cạnh tranh giữa những
người mua và giữa những người bán với nhau. Người mua thường cạnh tranh
theo xu hướng nâng giá để có được hàng hoá mình cần, thậm chí chỉ để thể
hiện, khẳng định đẳng cấp,… với hình thức nổi tiếng là đấu giá lên. Người bán
lại thường cạnh tranh với nhau theo xu hướng giảm giá xuống để thu hút người

mua với các hình thức khuyến mại phong phú, bán phá giá, đại hạ giá, hay đấu
giá xuống trong đấu thầu xây dựng cơ bản.


1.4.

Mối quan hệ giữa lạm phát, giá cả và tiền lương
1.4.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tiền lương

Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền cũng là nhân tố làm giảm
tiền lương trong điều kiện hiện nay.
Mức lương của các nước có sự khác nhau. Điều đó được quyết định bởi
nhân tố tự nhiên, truyền thống văn hoá và những nhân tố khác, trong đó nhân
tố đấu tranh của giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng. Trong các nước tư
bản phát triển, mức lương thường cao hơn ở các nước đang phát triển. Nhưng ở
đó có sự bóc lột cao hơn, vì kỹ thuật và phương pháp tổ chức lao động hiện đại
được áp dụng. Giá cả hàng hoá - sức lao động thấp là nhân tố quan trọng nhất
thu hút tư bản độc quyền vào các nước đang phát triển.
Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tiền lương theo thời gian
với những hình thức đa dạng chiếm ưu thế. Trong việc tìm kiếm những phương
pháp mới nhằm bóc lột lao động làm thuê, giai cấp tư sản buộc phải thừa nhận
vai trò con người tron quá trình sản xuất, và điều chỉnh lại việc tổ chức lao
động, cũng như kích thích người lao động.
Sự bóc lột lao động làm thuê ở các nước tư bản phát triển còn có những
hình thức che giấu tinh vi ơn. Khi thiên về sự củng cố “quan hệ con người”, về
sự thống trị của các nguyên tắc “công ty là một gia đình”, giai cấp tư sản hiện
đại thực hiện mưu toan thuyết phục công nhân rằng lợi ích của xí nghiệp, lợi
ích của tư bản thống nhất với lợi ích của công nhân. Vai trò kích thích của tiền
lương được sử dụng vào mục đích đó. Không phải chỉ có thái độ tận tâm với
công việc mà sự phục vụ trung thành cho công ty cũng được kích thích bởi đại

lượng và hình thức của tiền lương. Điều đó có nghĩa là không chỉ bằng hình
thức tiền lương, mà còn bằng tổ chức tiền lương dựa trên cơ sở tâm lý của hoạt
động lao động, giai cấp tư sản rất muốn “thủ tiêu” hoặc làm dịu mâu thuẫn giữa
tư bản và lao động. Đó là đặc trưng của những liên hiệp độc quyền lớn hiện
đại, ở đó các nhà tư bản đã không tiếc tiền chi vào những chi phí nhằm tạo ra
“bầu không khí tin cậy” để hình thành ở người công nhân “ý thức người chủ”.
Tính mềm dẻo trong sự vận dụng các hình thức khác nhau của tiền lương, việc
tính toán những yêu cầu kỹ thuật, tổ chức và tâm lý khi trang bị nơi làm việc
đưa đến tăng năng suất lao động và tăng chất lượng sản phẩm, tất cả đều nhằm


mục đích tăng giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là tăng cường bóc lột người
lao động.

1.4.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và giá cả

Khi đề cập mối quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát, Friedman cho rằng
“lạm phát luôn luôn và bất cứ ở đâu đều là hiện tượng tiền tệ” (Inflation is
always and everywhere a monetary phenomenon). Khi đó lạm phát được định
nghĩa là một sự tăng giá nhanh và liên tục. Hầu hết các nhà kinh tế thuộc
trường phái tiền tệ, hoặc trường phái Keynes cũng đồng ý với nhận định của
Friedman.
Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ:
Trước hết, bằng việc sử dụng phân tích của các nhà kinh tế tiền tệ,
chúng ta hãy xem kết quả gia tăng cung tiền tệ liên tục được minh họa ở bên
dưới.

Phản ứng giá cả đối với sự gia tăng tiền tệ liên tục

Khởi đầu nền kinh tế cân bằng ở điểm 1 (giao giữa AD1 và AS1). Nếu

cung tiền gia tăng qua mỗi năm, làm cho tổng cầu dịch chuyển sang phải đến
AD2. Khi đó nền kinh tế tiến đến cân bằng ở điểm 1’ với đặc điểm: sản lượng
gia tăng, thất nghiệp giảm.Thế nhưng, với sự mở rộng sản xuất đến lượt nó sẽ
làm gia tăng chi phí. Và đường AD2 sẽ lập tức di chuyển qua trái, cắt đường


AS2 tạo ra điểm cân bằng mới ở điểm 2, với mức giá gia tăng từ P1>P2. Cứ
như vậy, nếu cung tiền cứ gia tăng thì mức giá gia tăng và lạm phát xảy ra.
Nghĩa là M tăng lên à P tăng lên. Trong phân tích cùa các nhà kinh tế tiền tệ,
cung tiền được xem như là nguồn duy nhất làm dịch chuyển đường cầu AD,
không có yếu tố khác làm di chuyển nền kinh tế từ điểm 1 đến 2 và 3 và hơn
nữa. (PGS-TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng, Gs-TS. Dương Thị
Bình Minh, Ths. Phạm Văn Hiếu, Ths. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai
Hoài, TS. Diệp Gia Luật. 2008. Nhập môn tài chính tiền tệ. Nhà xuất bản Lao
Động Xã Hội. Hà Nội)

1.4.3. Mối quan hệ giữa giá cả và tiên lương:

Khi khối lượng tiền lưu hành trong dân chúng tăng lên trong khi đó số
lượng hang hóa sản xuất tra trên thị trường không tăng, việc này khiến cho
hang hóa trên thị trường khan hiếm, cung không đủ cầu làm cho giá cả tăng
vọt. Như vậy, cũng giống như việc điều chỉnh tiền lương tăng lên cao, khi
người dân có thu nhập cao sẽ tăng nhu cầu tiêu dung của mình, sức mua tăng
lên( cầu tăng), kéo theo hiện tượng khan hiếm hàng hóa làm cho giá các mặt
hàng sản phẩm tăng theo .
Theo cách định giá đơn giản, thì giá của sản phẩm sẽ bằng chi phí công
thêm với phần lợi nhuận định mức.
P = aW(1 + f)



P: giá cả sản phẩm



aW: chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm



f: tỷ suất lợi nhuận ( tỷ suất lợi nhuận trên chi phí)
Như vậy,

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT, GIÁ CẢ VẢ TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở
Việt Nam, lạm phát là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với sự


nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát triển
kinh tế của một nước và cũng là một trong những trở ngại lớn nhất trong công cuộc
phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là vấn đề lớn của nền kinh tế thị trường.
Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước với cơ chế thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế theo xu hướng hiện đại, chắc lọc, thừa kế những thành tựu và
khắc phục những tồn tại, hạn chế đã xảy ra. Trong đó, lạm pháp là một vấn đề hết
sức quan trọng. Vì vậy, việc nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các
biện pháp chống lạm phát là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự
nghiệp phát triển của một đất nước.
 Các giai đoạn lạm phát ở Việt Nam:



Giai đoạn 1980 trở về trước:

Việt Nam đang từng bước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
cả nước theo chính sách kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế quản lý kinh tế này đã tỏ ra
kém hiệu quả vì không tạo được những kích thích cần thiết để khuyến khích người
lao động phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của mình trong hoạt động kinh tế xã hội.
Kết quả là tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân sản xuất lúc đó rất thấp
(0.5% năm 1976, 2.9% năm 1977, 2.2% năm 1978, -2.0% năm 1979 và -1,4% năm
1980), trong khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP rất cao (lần lượt là 21.5%, 5%,
13.1%, 17.5% và 15.3%); sự mất cân đối trong kinh tế vĩ mô ngày càng nghiêm
trọng, kinh tế ngày càng phụ thuộc vào nguồn viện trợ của nước ngoài, chủ yếu đến
từ các nước XHCN Đông Âu (khoảng 40-50% thu ngân sách hình thành từ nguồn
viện trợ nước ngoài; hoàn toàn không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế).
Trong khi giá trên thị trường tự do thường xuyên biến động theo quan hệ
cung cầu và chênh lệch rất lớn với giá của thị trường nhà nước. Trong khi đó thì giá
trên thị trường nhà nước không hề thay đổi, thậm chí có năm còn giảm xuống.
Tính chung, tỷ lệ lạm phát qua 5 năm 1976 – 1980 lần lượt là 21.9%, 18.6%,
20.9%, 19.4% và 25.2%.


Giai đoạn 1981-1985:


Năm 1979, Việt nam đã điều chỉnh đường lối phát triển kinh tế theo hướng
giảm dần cơ chế quản lý kinh tế theo phương thức kế hoạch hoá tập trung, mở rộng
từng bước vai trò của cơ chế kinh tế thị trường.
Một số biện pháp khác nhằm mở rộng kinh tế hộ gia đình, phát triển các đô
thị và tự do hoá thương mại đã được áp dụng. Những đổi mới bước đầu trong những

năm 1980-1984 đã mang lại những kết quả to lớn: Tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc
dân sản xuất từ -1.4% năm 1980 đã tăng lên thành 2.3% vào năm 1981 và tiếp tục
tăng lên 8.3% năm 1982, 7.2% năm 1983 và 8,3% năm 1984. Tỷ lệ thâm hụt ngân
sách trên GDP giảm mạnh (năm 1981 là 12.2%, năm 1982 là 11.8%, năm 1983 là
8% và năm 1984 là 5.1%), đời sống nhân dân và xã hội có những thay đổi rõ rệt
(sản lượng lương thực đầu người từ 238,5 kg năm 1978 đã tăng lên 268,2 kg năm
1980, 273,2 kg năm 1981 và trên 300 kg từ năm 1982).
Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn 1981-1984 lại tăng vọt so với các
năm trước (tỷ lệ tăng giá tiêu dùng năm 1981 là 69.6%, vào năm 1982 là 95.4%,
năm 1983 là 49.5% và 1984 là 64.9%). Do tác động tiêu cực của những nhân tố
kinh tế thị trường trong lĩnh vực phân phối lưu thong, vào tháng 9/1985, cuộc cải
cách giá, lương, tiền đã được nước ta tiến hành thực hiện.
Tuy nhiên, sau cải cách, lạm phát lại tăng lên rất nhanh, tính chung cả năm
1985, chỉ số giá tiêu dùng tăng tới 91.6%. Do vậy, Chính phủ Việt Nam đã phải
khôi phục lại chế độ cung cấp định lượng đối với một số mặt hàng.


Giai đoạn siêu lạm phát 1986-1988:

Lạm phát trong giai đoạn này có các đặc trưng cơ bản là:
-

Lạm phát 3 con số kéo dài 3 năm liên tục ( Tỷ lệ lạm phát tăng vọt từ 91.6%
năm 1985 lên 774.7% năm 1986, 223.1% năm 1987 và 393.8% năm 1988).

-

Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trên nhiều mặt.

-


Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) giảm dần, từ 8,3% năm 1984 xuống còn
2,8% năm 1986 và 3,6% năm 1987 rồi tăng trở lại 6,0% năm 1988),được mở
đầu bằng các cuộc cải cách lớn về giá và lương cùng việc đổi tiền.

-

Chu kì lạm phát cao dẫn đến hệ quả siêu lạm phát nghiêm trọng trong 3 năm
là rất nặng nề. Những hệ quả đó là một trong những nguyên nhân trực tiếp


dẫn nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội
trong nhiều năm.


Giai đoạn kiềm chế và đẩy lùi lạm phát cao 1989-1994:

Sau một thập kỉ lạm phát cao liên tục nền kinh tế rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng, nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới.
Năm
Chỉ số lạm
phát ( %)

1989

1990

1991

1992


1993

1994

34,7

67,1

67,5

17,5

5,2

14,4

Diễn biến lạm phát trong giai đoạn này:
Đến năm 1994 triển vọng sẽ bước qua thời kì lạm phát một con số đã có thể
thực hiện được. Trong giai đoạn này, lạm phát giảm dần song song với tiến trình đổi
mới nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường.


Giai đoạn 1995-2008:


Lạm phát từ 1999-2006 có đặc trưng khác hẳn với những gì đã diễn ra từ khi
thống nhất đất nước năm 1975. Trước đây, tỷ lệ lạm phát thấp nhất cũng khoảng 4%
và cao nhất lên tới gần 800% thì từ năm 1999 đến nay, tỷ lệ lạm phát chưa bao giờ
vượt quá 10%/năm. Đặc biệt, trong ba năm 1999-2001, tỷ lệ lạm phát đều xấp xỉ

bằng 0, chỉ tăng trở lại 4% năm 2002 và 3% năm 2003.
Trong giai đoạn này đã xảy ra lạm phát rất thấp và giảm phát, đó là trong các
năm 2001 và 2002. Tình trạng này làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm lại. Có thể
kể đến các nguyên nhân gây ra tình trạng này như:
- Tác động của các chính sách khống chế lạm phát của chính phủ trong các
năm trước đó
- Tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á trong các năm 1997-1998
đã làm giảm nhu cầu và giá cả của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, kéo theo
sự giảm giá trong nước.
- Sức mua của dân cư giảm do thu nhập giảm, đặc biệt là của nông dân, trong
khi đó lượng cung hàng hóa vẫn tăng.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán thấp( năm 2001
so với năm 2000 các chỉ tiêu trên lần lượt là 21,44% và 25,53%.
- Sự chậm trễ trong việc triển khai các giải pháp chính sách nhằm khắc phụ
tình trạng trì trệ của nền kinh tế.
Đứng trước tình hình đó, chính phủ đã thi hành những chính sách đổi mới
nhằm khôi phục nền kinh tế( cải cách tiền lương, nới lỏng tiền tệ…).
Những năm 2003-2007, mức lạm phát ở trong tình hình ổn định hơn, trong 2
năm 2005-2006 lạm phát giảm dần.Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào tháng 11-2006 đã mở ra một kỉ nguyên mới với thời kỳ hội
nhập sâu rộng chưa từng có khiến mức giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng
vọt, dẫn đến những bất ổn do dòng vốn vào (cả đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp) tăng
mạnh, khiến việc kiểm soát vĩ mô trở nên khó khăn.


Năm 2007, giá lương thực, thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt
mức 18.9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực
tăng 15,5%, thực phẩm tăng 21,16%. Việc đó đã khiến chỉ số giá tiêu dùng một số
mặt hàng tăng vọt trong các quý đầu năm 2008, giá lương thực - thực phấm đã tăng
18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của lạm phát CPI và cao tương đương bằng mức

tăng giá lương thực – thực phẩm của cả năm 2007, trong đó lương thực tăng 25%,
còn thực phẩm tăng 15,6%. Từ kết quả của năm 2007, sang 2008 lạm phát nổi lên
mạnh mẽ trở thành mối lo ngại lớn cho kinh tế đất nước. Nỗi lo lạm phát thực sự đã
xuất hiện vào ngày 21/2, vào thời điểm Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá tiêu
dùng trong tháng 2/2008 đạt tới mức tăng 3,56% so với tháng trước. Nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống trong tháng hai đã tăng 3,2%, riêng lương thực tăng tới 3,7 và
tới tháng năm đã đạt đỉnh tăng của năm với 3,91%. Đứng trước thực trạng nền kinh
tế đang thực sự xấu đi, đặc biệt là lạm phát đã quá cao, Chính phủ đã đưa ra bảy
giải pháp chủ yếu để chống lại lạm phát như thắt chặt chính sách tiền tệ, cắt giảm
đầu tư công và chi phí thường xuyên, tập trung phát triển sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, khắc phụ hậu quả, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, đẩy mạnh xuất
khẩu... Nhờ vậy, trái với 8 tháng đầu năm, khi “gánh nặng” giá cả đè lên vai người
dân, thì ở 4 tháng còn lại của năm, lạm phát đã giảm đi nhanh chóng, cải thiện tình
hình. Những tín hiệu này cho thấy các giải pháp của Chính phủ đã thành công bước
đầu trong việc ngăn chặn đà tăng của lạm phát.


Giai đoạn 2009-2010:

Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh
tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị
trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã
hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn
cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Quốc Hội đã đề ra mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
năm 2009 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh tế vĩ mô; chủ
động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh,



giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong đó, mục tiêu hàng đầu là
ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
Do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt
và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi
phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị trường trong
nước; chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2009
không cao.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, bất cập, nhưng những kết quả đạt được của năm
2009 đã khẳng định nền kinh tế nước ta đã qua giai đoạn khó khăn nhất. Đây là
thắng lợi của ý Đảng, lòng dân; thể hiện sức mạnh nội lực Việt Nam. Do vậy, cần
tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm thành công để lãnh đạo, chỉ đạo điều
hành Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 và những năm tiếp theo.
Dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2010 ở mức 6%. Lạm
phát có thể tăng từ 7% trong năm 2009 lên mức hai con số do tăng trưởng tín dụng
mạnh trong thời gian gần đây.
Lạm phát ở Việt Nam từng ở mức cao nhất tại Á Châu vào năm 2011( lạm
phát lên đến gần 20%); nhưng với những biện pháp thắt chặt tiền tệ nghiêm khắc,
mức lạm phát đã giảm xuống còn một con số ở năm 2012.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết “ Tăng trưởng GDP cả năm 2012 của
Việt Nam ước đạt 5,2%; lạm phát đã được kiềm chế, lạm phát cả năm ở mức
khoảng 7%” Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã triển khai quyết liệt nhiều
giải pháp đồng bộ, nhất là kiên trì mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ chặt chẽ, chú trọng bảo đảm an
sinh xã hội. Nhờ đó, tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam đến cuối năm 2012 đã
có chuyển biến tích cực. . Để tiếp tục ổn định nền kinh tế, kiềm chế lạm phát được
xem là một trong những quyết sách hàng đầu của Chính phủ Việt Nam trong năm
2013.

2.2. Thực trạng giá cả ở Việt Nam

Giá cả hàng tiêu dùng tăng cao có nguyên nhân từ sự tăng mạnh giá cả
nguyên liệu đầu vào. Trong giai đoạn 2005-2008, giá cả hàng hóa nguyên liệu thô


tăng gấp 2,5 lần từ tháng 1/2005 đến tháng 7/2008, trong đó chỉ số giá nhiên liệu và
dầu thô tăng gấp hơn 3 lần, chỉ số giá kim loại tăng 2 lần, nguyên liệu thực phẩm
tăng 1,86 lần và sản phẩm nông nghiệp tăng 1,24 lần. Sau khi kinh tế rơi vào suy
thoái vào cuối quý 3-2008, giá cả của hầu hết các hàng hóa nguyên liệu bắt đầu suy
giảm mạnh. Giá dầu thô, sản phẩm nông nghiệp và kim loại rơi xuống mức giá của
năm 2005. Các mức giá hàng hóa nguyên liệu bắt đầu tăng trở lại vào tháng 2-2009
và cho đến tháng 7-2009 thì hầu hết đạt mức giá của năm 2006.
Đến năm 2009, thị trường giá cả khá ổn định nhưng sức mua tăng chậm.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 18%, (nếu trừ yếu tố giá thì còn tăng
10%). Tốc độ này thấp hơn các năm trước, trong đó kinh doanh thương nghiệp tăng
19,1%, khách sạn nhà hàng tăng 18,8%, dịch vụ tăng 20,2% và du lịch tăng 1,3% so
với năm 2008. Thị trường trầm lắng và sức mua tăng chậm, nhất là khu vực nông
thôn. Nổi bật năm 2010 là tình hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, đặc biệt
là tình hình hạn hán, bão lụt; dịch bệnh trên gia súc, gia cầm gây thiệt hại nặng nề
về người và của ở nhiều địa phương đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung
hàng hóa, dịch vụ, đẩy chi phí sản xuất và giá cả tăng.
Năm 2011, năm đầu nước ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm 2011-2015, có những thuận lợi cơ bản: Tình hình chính trị ổn định; kinh tế-xã
hội phục hồi trong năm 2010 sau hơn một năm bị tác động mạnh của lạm phát tăng
cao và suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, ngay sau đó những khó khăn, thách
thức trong nội tại ảnh hưởng nền kinh tế thế giới với vấn đề nợ công, kìm hãm tăng
trưởng kinh tế chậm lại làm cho giá hàng hóa, giá dầu mỏ và giá một số nguyên vật
liệu chủ yếu tăng cao và có diễn biến phức tạp. Ở trong nước, lạm phát và mặt bằng
lãi suất cao gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư. Giá cả hàng hóa cũng tăng
cao vì thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi làm ảnh hưởng không nhỏ
đến sản xuất và đời sống của dân cư, đặc biệt là nông dân và người lao động có thu

nhập thấp ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, được sự quan tâm của Đảng và Chính
phủ cùng với việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội của các cấp, các
ngành, các địa phương nên nhìn chung đời sống đại bộ phận dân cư có những cải
thiện.
Sau khi cho phép tăng giá xăng dầu, điện, nước trong năm 2012, làm cho iệc
học phí, viện phí... tăng theo làm cho các sản phẩm khác trên thị trường đều dồn


dập tăng theo đè nặng áp lực đối với doanh nghiệp và ảnh hưởng mạnh đến đời
sống người dân Khảo sát tại các chợ lẻ ở TPHCM cho thấy nhiều mặt hàng thực
phẩm đứng ở mức khá cao. Bộ Tài chính đã ban hành công văn về việc tăng cường
công tác quản lý, bình ổn giá trên địa bàn, trong đó đề nghị Chủ tịch UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tài chính chủ trì phối hợp cùng
các cơ quan có liên quan trên địa bàn (Công Thương, Quản lý thị trường, Giao
thông vận tải, Thuế,...) tiếp tục tăng cường công tác quản lý giá và thực hiện các
giải pháp nhằm bình ổn giá trên địa bàn, ổn định lại tình hình kinh tế của đất nước

Biểu đồ giá cả ở Việt Nam 9 tháng đầu năm 2012 ( Theo: www.google.com)

Tháng 12/2012, Thị trường sôi động hơn với các hoạt động chuẩn bị hàng
Tết, Noel… sức tiêu thụ hàng hóa nói chung chưa tăng mạnh, nguồn cung các mặt
hàng tiêu dùng, nguyên nhiên vật liệu vẫn khá dồi dào, giá cả tương đối ổn định.
Riêng các mặt hàng thực phẩm (thịt lợn, gà), rau củ, do hoạt động chăn nuôi và gieo
trồng để chuẩn bị cho dịp Tết nên nguồn cung ra thị trường có chiều hướng giảm,
giá tăng cao hơn Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã tích cực triển khai công
tác chuẩn bị cho Tết 2013. Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26
tháng 9 năm 2012 về việc tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá
các tháng cuối năm; triển khai chương trình dự trữ hàng bình ổn thị trường dịp Tết.
Năm 2012 là một năm thực sự khó khăn với nền kinh tế nói chung và với thị
trường hàng hóa nói riêng. Tăng trưởng chậm, thu nhập giảm sút nên người dân có

xu hướng cắt giảm chi tiêu, hoạt động sản xuất kinh doanh càng thêm khó khăn do


sức tiêu thụ hàng hóa kém, sản xuất đình trệ. Trong điều kiện sức mua yếu, hàng
hóa tồn kho lớn, giá các mặt hàng thiết yếu ít có biến động. Trong năm 2012 các
biến động lớn về giá chủ yếu tập trung ở nhóm nhiên liệu do ảnh hưởng trực tiếp từ
thị trường thế giới như đối với các mặt hàng xăng dầu, điện… bên cạnh đó là việc
điều chỉnh tăng một số loại dịch vụ như tăng phí dịch vụ y tế, giáo dục các tháng
cuối quý III, đầu quý IV và sự giảm sâu giá một số mặt hàng thực phẩm như lợn,
gà... đã tác động mạnh đến hoạt động chăn nuôi, gây lo ngại về nguồn cung các
tháng cuối năm và dịp Tết Nguyên đán 2013.
Tình hình trong các tháng đầu năm 2013, mặc dù tác động từ các yếu tố giá
hàng hóa thế giới, tỷ giá USD/VND ít ảnh hưởng đến giá hàng hóa trong nước trong
dịp gần Tết Nguyên đán, nhưng do giá một số mặt hàng như thực phẩm, lương thực
(thuộc nhóm có tỷ trọng lớn) bắt đầu tăng; giá một số mặt hàng tiêu dùng mùa lạnh,
cận Tết tăng nên mặt bằng giá chung cao hơn so với tháng 12/2012.

2.3. Thực trạng tiền lương ở Việt Nam
Theo quan điểm đổi mới hiện nay, tiền lương ở nước ta đã được coi là giá cả
sức lao động, coi sức lao động là hàng hoá là một bước tiến quan trọng trong nhận
thức về tiền lương của Đảng và Nhà nước ta và cũng hoàn toàn phù hợp với đặc
điểm của tình hình đất nước. Đất nước ta đang trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu đan xen lẫn nhau,
do đó tiền công hay tiền lương còn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau với bản
chất khác nhau. Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân dựa trên chế độ sở hữu về
tư liệu sản xuất và bóc lột sức và bóc lột sức lao động làm thuê thì tiền công là giá
cả sức lao động và quan hệ lao động ở đây là quan hệ chủ thợ. Trong thành phần
kinh tế quốc doanh về mặt sở hữu tập thể mà Nhà nước là người đại diện đứng ra
quản lý trong các doanh nghiệp quốc doanh thì quyền quản lý và sử dụng lao động
giao cho Giám đốc, mặt khác người lao động được tự do hoàn toàn về thân thể (sự

tự do này được pháp luật công nhận và bảo hộ). Vì vậy, đã có đủ điều kiện để coi
sức lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh cũng là hàng hoá, nghĩa là tiền
lương và giá cả sức lao động. Tiền lương ở khu vực này Nhà nước tác động thông
qua hệ thống thang bảng lương. Các doanh nghiệp quốc doanh đại diện cho Nhà


×