Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Nợ công châu âu và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.74 KB, 58 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ công ( nợ quốc gia ) là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ
thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách. Nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính
đến một thời điểm nào đó. Để hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm
quốc nội (GDP).
Việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh
tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy
cảm. Bởi vì, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần
túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý không ổn định, không tin tưởng vảo cơ chế à
nhà lãnh đạo, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế,
thậm chí dẫn đến bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công
còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cụ thể, chú ý đúng mức đến
cách thức và nguyên nhân hình thành khoản nợ, nhu cầu nợ , khả năng trả nợ
…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách, ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Đây cũng là lý do em quyết định chọn đề tại chuyên đề là “ Nợ công
châu Âu và bài học cho Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết về những cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trong
lịch sử, cho đến diễn biến cuộc khủng khoảng nợ công châu Âu, Chuyên đề
tập trung hình thành một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng, từ
nguyên nhân bên trong, bên ngoài, cũng như hậu quả mà cuộc khủng hoảng
này gây ra. Từ đó, chuyên đề cũng liên hệ về tình trạng nợ công Việt Nam
1


hiện tại, phân tích những ảnh hưởng và rút ra những bài học kinh nghiệm quý
giá cho vấn đề quản lý nợ công.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chuyên đề nghiên cứu về cuộc khủng hoảng nợ
công châu Âu, nguyên nhân, hậu quả và bài học quản lý nợ công ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: diễn biến khủng hoảng nợ công, từ lúc bắt đầu cho
đến các chính sách hậu khủng hoảng một số quốc gia thuộc châu Âu và nợ
công Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng các phương pháp
- Thống kê
- Phân tích
- Kết hợp lý luận và thực tiễn
5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục viết tắt và tài liệu tham khảo,
Chuyên đề có kết cấu hai chương :
Chương I:

Một số vấn đề chung về khủng hoảng và thực trạng nợ công

Châu Âu
Chương II: Tình trạng và bài học quản lý nợ công Việt Nam
***
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình nghiên cứu nhưng do kiến thức
còn hạn chế nên Chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em
rất mong nhận được những đóng góp quý báu từ phía thầy cô nhằm hoàn
thiện hơn chuyên đề của mình.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn tới Gs.Ts Đỗ Đức Bình , người đã
giúp đỡ em tận tình suốt quá trình thực hiện chuyên đề này.

2



Chương I:

Một số vấn đề chung về khủng hoảng và thực
trạng nợ công Châu Âu

1.1

Cơ sở lý thuyết

1.1.1

Khủng hoảng 29-33

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là cuộc khủng hoảng kinh tế
lớn nhất trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Đó là cuộc khủng hoảng sản xuất
“ thừa”, bởi vì sự sản xuất bừa bãi, ồ ạt chạy theo lợi nhuận trong những năm
ổn định của chủ nghĩa tư bản 1924-1929 đã dẫn đến tình trạng cung vượt quá
cầu, hàng hoá ế thừa trước sức mua quá thấp của xã hội.
Ngày 24-10-1929 đi vào lịch sử nước Mỹ cũng như thế giới tư bản
với cái tên “Ngày thứ năm đen tối”. Tháng 9-1929, cuộc khủng hoảng bắt đầu
từ nước Mĩ, là nước tư bản giàu nhất và lan rộng đến các nước tư bản chủ
nghĩa khác
Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số
chính sách như đánh thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hoá nước ngoài
vào, lấy tiền trong ngân quỹ nhà nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Tuy nhiên,
chính quyền của ông Roosevelt không có nhiều thành công trông hồi phục
tăng trưởng kinh tế và lòng tin người tiêu dung vẫn ở mức thấp. Cuộc Đại
Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ
thiệt hại cho người dân, cụ thể là cung cấp thêm việc làm mới, hỗ trợ hay bảo

vệ các khoản thế chấp.
Mãi đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng
lý thuyết kinh tế học Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng
trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản
lý nền kinh tế, nền kinh tế mới hồi phục. Cuộc khủng hoảng kéo dài trong 4

3


năm, đến năm 1933 thì chấm dứt nhưng đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng:
- Cuộc khủng hoảng này đã diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế như nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tài chính ( riêng Pháp cuộc khủng hoảng
kéo dài đến năm 1936 )Đây là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất và trầm
trọng nhất trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
- Sản xuất công nghiệp : sản xuất công nghiệp của thế giới trung bình
giảm 38%, riêng Mỹ giảm 46%, Đức chịu tốc độ âm 47%, riêng ở Mỹ đã có
13 vạn công ty bị phá sản.
- Tài chính: hàng nghìn nhà băng bị đóng cửa. Riêng ở Mỹ 10 vạn công
ngân hàng phá sản chiếm 40% tổng số ngân hàng của thế giới.
- Nông nghiệp: hàng triệu ha cây trồng đã bị phá. Riêng ở Mỹ có 75%
nông trại đã bị phá sản, người ta đã giết hàng triệu con gia súc và đổ xuống
biển hàng trăm triệu lít sữa.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế đã đẩy nền kinh tế tư bảnr bước vào tình
trạng tiêu điều và gây nên những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng:
+ Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ, năm 1929 có 3% thất
nghiệp trong tổng số người lao động hết sức cùng cực. Số người có việc làm
thì bị giới chủ tăng ngày làm việc, giờ làm việc và bị giảm lương. Hệ quả của
điều đó là sự phản kháng của họ và làm bùng nổ phong trào đấu tranh của
quần chúng nhân dân

+ Từ năm 1929 – 1932 : trong 15 nước tư bản đã có tới 18 nghìn cuộc
bãi công của công nhân với sự tham gia của 8,5 triệu người.
+ Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa nền thống trị của chủ nghĩa tư bản ở
các nước vì vậy đòi hỏi các nước phải tìm con đường để giải quyết hậu quả
của khủng hoảng kinh tế.

4


1.1.2

Khủng hoảng Mehico 1994

Sau cuộc khủng hoảng nợ năm 1982, Mehico đã tiến hành một loạt cải
cách giúp khôi phục được nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng trở lại trong khi
Peso Mehico lại được neo vào USD đã dẫn tới hiện tượng Peso lên giá so với
USD. Đầu thập niên 1990, hiện tượng này diễn tiến nhanh chóng. Hậu quả
là cán cân tài khoản vãng lai của Mehico bị thâm hụt do xuất khẩu chịu bất lợi
trong khi nhập khẩu lại phát triển. Đầu năm 1993, mức độ thâm hụt tương
đương 6,5% tổng sản phẩm trong nước(GDP). Sự thâm hụt này chủ yếu được
bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước ngoài. Một thời gian dài, lãi suất của
Mehico cao hơn lãi suất của Mỹ. Dòng vốn tư nhân ồ ạt đổ vào nước này do
lãi suất trong nước cao kèm theo chế độ tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định.
Riêng thời gian từ 1990 đến 1993, Mehico đã thu hút được 93 tỷ Dollar đầu tư
nước ngoài, chiếm một nửa tổng đầu tư nước ngoài vào Mỹ Latin.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mehico có các biện pháp
giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai tuy nhiên không mang lại kết quả,
mức độ thâm hụt tiếp tục tăng, chạm mức 8% vào năm 1994. Cuộc bầu cử
tổng thống Mehico vào tháng 8 năm 1994 cộng với một loạt sự kiện an ninh
trong nước và ngoài nước đã khiến chính phủ không tập trung đủ cho xử lý

thâm hụt. Đồng Peso bị phá giá, chính phủ đổi các khoản nợ định danh bằng
Peso sang định danh bằng USD làm các nhà đầu tư trở nên lo ngại về sự bền
vững của nền kinh tế Mehico.
Bên cạnh đó, năm 1994 ,xảy ra hiện tượng lãi suất quốc tế tăng lên .
Điều này kích thích các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục đầu tư của mình theo
hướng giảm đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển.
Hai xu hướng trên đã kết hợp với nhau tạo nên sự rút vốn ồ ạt khỏi
Mehico.

5


1.1.3

Khủng hoảng châu Á 1997

Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính
trên diện rộng được bắt đầu từ tháng 7/1997 tại Thái Lan và nhanh chóng ảnh
hưởng tới các nền Kinh tế khác trong khu vực. Cuộc khủng hoảng tuy được
nhìn nhận ở khu vực Đông Á, và đây cũng là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất từ cuộc khủng hoảng này, tuy nhiên như ở hai cuộc khủng hoảng lớn
trước, nó tiếp tục phát triển thành một "cơn bão" tiền tệ tầm cỡ quốc tế và ảnh
hưỡng đến nhiều quốc gia khác trên thế giới, nhiều quốc gia "xa xôi" nhưng
vẫn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này như Mỹ, Nga, Brazil... Cuộc
khủng hoảng đã xảy ra cách đây hơn 10 năm, nhưng nó vẫn là bài học đắt giá
cho nhiều quốc gia trong việc điều tiết nguồn vốn, xây dựng hành lang pháp
lý, xây dựng định chế quản lý tài chính...
Các nguyên nhân dần dần được bộc lộ trong quá trình khủng hoảng.
Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng này chính là
những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.

Mặt khác, một điều tồi tệ là thời kỳ này các nước Đông Á hầu như không thể
kiểm soát được nợ nước ngoài. Cấu trúc tổ chức thị trường nợ khu vực Đông
Á, tương tác với tình trạng phá giá tiền tệ đẩy nền kinh tế khu vực tới cuộc
khủng hoảng toàn diện. Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là
năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị
tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của
mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại
hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Có ba bài học lớn mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra trong thời gian
gần đây để tránh một kịch bản lặp lại trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
2008 này:

6




Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.



Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.



Nguy cơ dư thừa vốn.

1.1.4

Khủng hoảng Argentina 2000


Thời điểm bắt đầu của thời kỳ này là năm 1999, năm mà nền kinh tế
Argentina bắt đầu có những đấu hiệu chững lại và đi xuống.
Tuy nhiên chúng ta cần quay lại thời điểm trước năm 1999. Đó là vào
tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng Đông Á bắt đầu. Nó ngay lập tức lan
sang Hong Kong, Hàn Quốc , Nga và cuối cùng là Brazil. Tháng giêng năm
1999, Brazil tuyên bố phá giá đồng tiền của mình ( cũng với đó là việc đồng
USD tăng giá trên thế giới ) đã làm cho xuất khẩu của Argentina bị tổn
thương rất nghiêm trọng đo giá hàng hóa của nước này quá đắt đỏ. Năm 1999,
tăng trưởng GDP của Argentina là âm 4% và liên tiếp 3 năm sau đó ( 2000 –
2002 ), tốc độ tăng trưởng GDP của Argentina vẫn là số âm. Cuộc khủng
hoảng Argentina bắt đầu từ đây.
Diễn biến đầu tiên của cuộc khủng hoảng là việc các nhà đầu tư nước
ngoài mất tinh tưởng vào sự điều hành của chính phủ, đã ngay lập tức chuyển
tiền của mình ra khỏi Argentina. Sau đó, năm 2001, hàng ngàn người dân
Argentina cũng do lo sợ, đã đồng loạt rút toàn bộ tiền gửi ngân hàng của
mình, chuyển sang đôla và gửi ra nước ngoài. Điều này gây ra một làn sóng
“tháo chạy” ngoại tệ trên cả nước, dẫn đến việc dự trữ ngoại tệ của Argentina
bị suy giảm nghiêm trọng, hay nói cho chính xác hơn là gần như không còn
đồng ngoại tệ nào.
Từ những gì đã diễn ra, ta thấy được chính phủ Argentina dưới thời
Menem đã mắc phải một sai lầm nghiệm trọng: đó là cố định tỷ giá 1 Peso đổi
lấy 1 Đôla. Chính sách này mặc dù có 1 số hiệu quả nhất định, nhưng để duy
trì được nó thì lượng dự trữ ngoại tệ trong nước lớn, đủ để bù đắp khi ngoại tệ
7


bị thiếu hụt. Tuy nhiên, Argentina lại không làm vậy, họ liên tục vay nợ từ
nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt ngoại tệ trong nước. Theo WorldBank,
ngưỡng nợ an toàn cho các nước đang phát triển là dưới 40% GDP. Trong đó,

quan trọng nhất là yếu tố lãi suất (yếu tố mà các chính phủ thường phớt lờ đi),
vì nếu lãi suất thực là 7-10% thì đó sẽ là 1 khoản nợ khổng lồ. Tuy nhiên,
Argentina đã không làm theo điều này, họ liên tục vay nợ; từ mức an toàn
(35% GDP vào năm 1995) đã lên đến 65% GDP (năm 2001). Các khoản nợ
nước ngoài này đã dẫn đến một hậu quả tai hại là làm cho nền kinh tế
Argentina bị mất sức đề kháng với những rủi ro tài chính. Và cuối cùng thì cái
gì đến cũng đã đến, họ đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trong 4
năm (1999 - 2002)
1.2 Khủng hoảng toàn cầu 2008 – Khủng hoảng nợ công Châu Âu
1.2.1 Liên minh châu Âu trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
1.1.4.1 Khủng hoảng kinh tế tại các nước châu Âu EU
Cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ
đến tình hình kinh tế xã hội của các nước trong lien minh Châu Âu. Thực
trạng kinh tế chung hiện nay của các nước EU là : sản xuất công nghiệp suy
giảm mạnh, tình trạng suy thoái lan rộng với tốc độ nhanh, kèm theo tình
trạng thất nghiệp gia tăng. Mặc dù cuộc khủng hoảng này nổ ra tại Mỹ, nhưng
đã lan rộng sang nhiều trung tâm kinh tế thế giới như EU, Nhật Bản và các
nền kinh tế mới nổi như : Trung Quốc, Nga , Brazin, Ấn Độ. Năm 2008, sản
xuất công nghiệp của các nước EU giảm 12%. Tỷ lệ thất nghiệp tăng trên
8.5%, tương đương với 19 triệu người, cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng
1929-1933. Tăng trưởng GDP giảm.
Liên minh châu Âu hiện nay gồm 27 nước thành viên, được đánh giá
có thị trường nội địa rộng nhất thế giới, trong đó có 16 nước sử dụng đồng
tiền chung Euro. Tuy nhiên trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu,
8


EU lại gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ phục hồi chậm hơn so với châu Á,
Mỹ
Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ 3 thế giới chính

thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong 12 năm qua. Nền kinh tế Anh cũng
lâm vào suy thoái, số người thất nghiệp năm 2010 lên tới 3 triệu người. Italia
cũng không khá khẩm hơn, năm 2008 tốc độ phát triển của nước này là 0%, tỷ
lệ thất nghiệp 7%.
Kinh tế các nước Trung và Đông Âu đang gặp nhiều khó khăn do hai
nguyên nhân chính là suy giảm xuất khẩu và sự khan hiếm tài chính. Điều
kiện kinh tế các nước khu vực đồng Euro và Mỹ suy thoái đã làm hạn chế
xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cyar các nước Đông Âu. Khủng hoảng kinh
tế làm rạn nứt sự liên minh trong khối EU, trước hết do xu hướng lo ngại vì
sự xuất hiện trở lại của chủ nghĩa bảo hộ ở Châu Âu, đồng thời nổi lên vấn đề
giúp đỡ các nước Đông Âu trong tình hình hiện tại.
Tuy nhiên chính phủ các nước đã sử dụng các biện pháp để khắc phục
khủng hoảng như : Cắt giảm lãi suất được hàng loạt các ngân hàng trung ương
thực hiện; thực hiện các gói giải cứu, kích thích nền kinh tế; cải tổ, điều chỉnh
hoạt động, tăng cường giám sát hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng ;
thực hiện sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ trong khối EU, cũng như
thống nhất chính sách của khối đối với vấn đề toàn cầu; chống mọi hình thức
bảo hộ; cải cách Quỹ tiền tệ quốc tế IMF và Ngân hàng Thế giới WB.
Theo đánh giá của các chuyên gia, kinh tế thế giới đã có dấu hiệu của
sự phục hổi, tuy nhiên nền kinh tế của các nước EU đang gặp nhiều khó khăn,
dấu hiệu chạm đáy, phục hồi chưa rõ… Vấn đề nợ công là mối nguy lớn nhất,
gây thâm hụt trầm trọng ở nhiều nước trong khối nhưu Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha… và lan rộng ra nhiều nước, ảnh hưởng đến sự phục hồi và ổn
định của khu vực đồng EURO .
9


1.1.4.2 Tình hình chính trị
Thực chất cuộc khủng hoảng này là khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản
về thể chế chính trị và mô hình phát triển. Đây không phải đơn thuần là cuộc

khủng hoảng kinh tế ( tài chính, thương mại và việc làm ) mà còn là khủng
hoảng sâu sắc về cơ cấu và thể chế . Không phải ngẫu nhiên mà nhiều chính
phủ ở châu Âu sụp đồ do khủng hoảng kinh tế như Cộng hòa Séc, Hungari,
IceLand. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tác động mạnh đến tình hình
chính trị của cả khối và từng nước, trong đó có phong trào cộng sản của cả
khu vực.
Trước sự thay đổi trong khu vực, nhất là tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, nhìn chung các đảng xã hội dân chủ ở châu Âu đang
gặp khó khăn và thay bằng lãnh đạo của các nước trung hữu đang diễn ra.
Khuynh hướng hiện nay của nhiều nước trong khu vực là các đảng trung hữu
đang tiếp quản chính sách của các đảng xã hội dân chủ, các đảng này đang
chiếm ưu thế ở nhiều nước châu Âu trước đây vốn do đảng dân chủ chi phối.
Hiện nay các nước châu Âu rất khó khăn trong việc tạo dựng mô hình chính
sách cảu chính phủ xã hội dân chủ. Mô hình Bắc Âu ở Thụy Điển hiện do liên
minh bảo thủ quản lý. Ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo và Slovakia cũng có
Đảng dân chủ xã hội cầm quyền nhưng đang chao đảo do khủng hoảng kinh
tế và nạn thất nghiệp tăng cao.
Sự thay thế các Đảng xã hội dân chủ bằng lực lượng cánh hữu có
nguyên nhân sâu xa từ những khó khăn kinh tế và xã hội nảy sinh, nhất là tác
động cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chủ nghĩa thị trường tự do mới
lâm vào khủng hoảng đòi hỏi phải có sự can thiệp điều tiết của nhà nước ,
trong khi hệ tư tưởng thay thế chưa phù hợp. Trong bối cảnh tài chính kinh tế
đang ảnh hưởng nặng nề , người dân các nước EU bất mãn đối với chính sách
của các chính phủ hiện nay. Trước thực trạng thất nghiệp gia tăng, giá cả leo
10


thang, phúc lợi xã hội bị cắt giảm, tăng trưởng kinh tế sụt giảm, đời sống nhân
dân các nước hầu hết gặp khó khăn.
1.1.5 Thực trạng nợ công một số nước ở Châu Âu

1.1.5.1 Hy Lạp
a.
Nguy cơ vỡ nợ quốc gia có tính dây chuyền
Từ cuối năm 2009, Hy Lạp đã rơi vào tình trạng lâm nguy về tài
chính công, với thâm hụt ngân sách đạt mức 12,7 GDP, gấp hơn 4 lần giới
hạn cho phép của một quốc gia dùng đồng Euro. Mức thâm hụt này cùng với
khoản nợ công trị giá 300 tỷ Euro, chiếm 125%GDP, gấp hơn 2 lần mức quy
định của EU, và dự báo sẽ lên tới 133% ( tức 326 tỉ Euro ) trong năm 2010, đã
thực sự cho thấy tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng Hy Lạp. Nguy
hiểm hơn, nền kinh tế đứng thứ 27 thế giới này có thể chỉ là kíp nổ của toàn
bộ hệ thống tài chính tiền tệ châu Âu.
Cùng thời điểm này, hàng loạt tổ chức quốc tế đã tuyên bố hạ định
mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trường tài chính. Theo tờ LA Croix, trong
những ngày này khi vay tiền để trả nợ đáo hạn, Hy Lạp đã phải chấp nhận
những lãi suất cao. Nếu tình hình này kéo dài, Hy Lạp sẽ dễ rơi vào tình trạng
vỡ nợ quốc gia. Không chỉ có thế, trong 10 quốc gia có nợ công cao nhất hiện
nay thì có đến 8 nước là thuộc khối EU. Trong đó ngoài Hy Lạp, không thể
quên được những con số 120,5% GDP của Italia, Ireland 108,1% GDP, Bồ
Đào Nha 101,6% GDP…
Trước những diễn biến xấu như vậy, chính phủ Hy Lạp do tân thủ tướng
Papandreou đã đặt ra những lế hoạch nhằm hạ mức thâm hụt xuống dưới 3%
vào năm 2012 như yêu cầu của EU. Nhưng có vẻ sự cố gắng này không mang
lại kết quả như mong đợi, Hy Lạp đang và có nguy cơ chìm sâu hơn vào
khủng hoảng nơ công.

11


b. Tìm hiểu nguyên nhân
• Nạn nhân của bệnh thành tích

Có nhiều bằng chứng thuyết phục cho rằng , chính việc châu Âu nhiều
lần làm ngơ trước cách cư xử vô nguyên tắc của thành viên đã khiến Hy Lạp
đến nông nỗi này. Cụ thể, năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng Euro,
Hội Đồng châu Âu đã họp tại Dublin để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và
liên minh châu Âu đã ký hiệp ước Maastricht, trong đó cho quy định các nước
muốn tham gia phải tuân thủ nghiêm ngặt : Một là, duy trì mức thâm hụt ngân
sách nhà nước ở mức 3%GDP ; Hai là , tổng nợ công không được vượt quá
60% GDP của quốc gia. Mười một thành viên sang lập lúc bấy giờ chưa có
nước nào đạt được yêu cầu đó, thậm chí , nợ công của Bỉ còn là 131%, gấp
2,2 lần quy định.
Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có ảnh hưởng đã khiên cho
các thành viên sáng lập lúc bấy giờ mong muốn có càng nhiều thành viên
càng tốt. Điều này dẫn đến việc “làm đẹp” số liệu để được tham gia vào khối.
Khi gia nhập, Hy Lạp khai báo con số thâm hụt ngân sách của mình chỉ là
4%, thậm chí giảm xuống còn 2.5% vào năm 1998 và dự báo chỉ còn 1.9%
năm 1999. Nhưng thực tế, những con số ma, sự sai lệch của nhiều nguồn
luồng thông tin không rõ ràng sớm đưa Hy Lạp vào vòng nghi ngờ. Chối
quanh quẩn, đến năm 2003, Hy Lạp đã phải thừa nhận mức thâm hụt của
mình là 5.7%, tức 8.8 tỷ Euro.
Bên cạnh đó, vấn đề hiện tại của Hy Lạp còn cho thấy thể chế tài
chính của EU không đủ năng lực và chuyên môn để kiềm chế những thành
viên không tuân thủ hiệp ước của khối. Đâu chỉ có mình Hy Lạp, từ năm 2002
đến 2004, khi Pháp và Đức vượt chuẩn thâm hụt thì các quốc gia khác cũng
bình chân như vại. Đến khi Hy Lạp kêu van và lo sợ đồng Euro chết yểu thì
EU mới vào cuộc

12





Thiếu sót về cơ cấu của toàn khối sử dụng Euro
Trong “ thời bình”, việc duuy trì cam kết giữ mức thâm hụt ngân

sách nhà nước ở mức 3% GDP và mức nợ công không quá 60% GDP không
gặp khó khăn gì đặc biệt, nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính kéo
dài từ cuối 2008 đến nay, hầu hết các nước tham gia hệ thống đồng Euro đã
buộc phải vi phạm cả hai điều khoản nói trên để cứu nguy ngành ngân hàng
nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Đặc biệt lo ngại vẫn là 4 quốc gia có
mức nợ công cao ngất ngưởng, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland, Tây Ban Nha…
Hy Lạp là mắt xích yếu nhất trong sợi dây liên kết khối Euro. Trước
khủng hoảng, nước này có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trong khối EU nhờ tập
trung phát triển các ngành dịch vụ, ngân hàng, du lịch và địa ốc. Tuy nhiên,
kinh tế ngầm chiếm tới 30% GDP và sản xuất kém phát triển nên nước này
luôn phải nhập siêu. Gặp phải khủng hoảng, nợ công lên tới 115%, đến nay đã
là 168,2% GDP, thâm hụt ngân sách đã là 15%, gấp 5 lần quy định. Khả năng
thanh toán nợ của chính phủ Hy Lạp bị nghi ngờ và các nhà đầu tư vội vã rút
vốn khỏi Hy Lạp và không cho nước này vay thêm tiền lại khiến tình trạng đã
xấu càng xấu.
Mặc dù kinh tế Hy Lạp chỉ chiếm 3% GDP của 16 nước thành viên
đồng Euro nhưng cũng đủ để đe dọa tính vững chắc của khối, nhất là hiện
tượng tương tự đã xuất hiện ở các quốc gia khác. Hiệu ứng Domino sẽ làm tất
cả cùng sập đổ . Nếu các chính phủ cắt giảm chi tiêu để trở về đúng hiệp ước
Maastricht thì đồng nghĩa với việc làm tiêu tan những nỗ lực vực dậy nền
kinh tế và làm tăng thất nghiệp, từ đó khởi động quá trình giảm phát trên
phạm vi toàn cầu. Nếu để các chính phủ tự ý quyết định mức thâm hụt ngân
sách và công nợ cua họ, Hiệp ước Maastricht có nguy cơ tan vỡ.
Tóm lại, Hiệp ước Maastricht chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa
toàn thể và bộ phận. Chính sách tiền tệ chung toàn khối càng ngày càng tỏ ra
13



không phù hợp với những chính sách tài khóa phân tán của từng chính phủ
riêng biệt. Tốc độ hội nhập nhanh chóng về mặt kinh tế - tài chính của châu
lục đang bị sư châm trễ của hội nhập chính trị - hành chính cản trở. Hay nói
cách khác, châu Âu cho Ngân hàng trung ương chung, nhưng lại thiếu Bộ tài
chính chung


Yếu kém trong việc điều hành đất nước
Gia nhập khu vực đồng tiền chung Euro năm 2001 là cơ hội lớn để

Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường quốc tế nhưng cũng là nguyên nhân
khiến quốc gia này lâm vào cảnh nợ nần chồng chất.
Dễ dàng thu hút vồn đầu tư nước ngoài trong gần một thập kỷ quả,
chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đô la. Số tiền
này có thể giúp nền kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi
tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra, các nhà chức trách dường như nghĩ
rằng kho tiền này là vô hạn, cứ thế chi tiêu ( phần lớn cho hạ tầng ) mà khong
hề quan tâm đến kế hoạch trả nợ. Không chỉ chi cho chi phí cơ sở hạ tầng,
quỹ lương của khối dịch vụ đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Trong khi đó,
nguồn thu không được cải thiện sai hàng loạt biện pháp cắt thuế để kích thích
đầu tư.
Những bất ổn tại nội tại của kinh tế Hy Lạp thực sự biến thành căn
bện nguy hiểm giết dần giết mòn quốc gia này khi cơn bão khủng hoảng càn
quét qua vào năm 2008-2009.
c. Hướng khắc phục trước mắt
• Đối với Hy Lạp
Theo các nhận định cho thấy, trước mắt và trước khi có thể nhận được
các khoản viện trợ từ IMF và EU, và để ổn định được tình hình thoát khỏi

khủng hoảng, bên cạnh đó lấy lại được lòng tin từ các chủ nợ, thì chính phủ
Hy Lạp phải tuân thủ triệt để các yêu cầu của EU và các tổ chức tài chính

14


quốc tế. Chính phủ và dân chúng Hy Lạp cần phải đồng tâm thực hiện chính
sách “ thắt lưng buộc bụng” nhằm tinh giảm bộ máy cong chứ, giảm thâm hụt
ngân sách. Đồng thơi, ngoài nước, chính phủ Hy Lạp từng bước đàm phán với
EU và các tổ chức tài chính quốc tế khác như IMF để có thể được giãn nợ,
đáo nợ và vay them nợ với các lãi suất hợp lý.


Đối với EU
Đứng trước việc một quốc gia thành viên lâm vào cảnh thảm hại, và

không thể không lo ngại hiệu ứng Domino cho toàn khối, EU tất nhiên không
thể đứng nhìn. Nhưng quan trọng, EU có thể làm gì?
Khó khăn đầu tiên nằm ở chỗ EU hiện nay chưa có một cơ quan đủ
thẩm quyền kiểm soát trực tiếp ngân sách nhà nước của 16 thành viên dung
đồng Euro. Để làm được điều này, trước hết , khối Euro phải hội nhập thêm
một bước về chính trị. Đồng tiên chung đòi hỏi không chỉ Ngân hàng chung,
mà còn cần thiết cả một Bộ tài chính chung, một Ngân khố chung. Mong
muốn cho chính phủ các nước từ bỏ quyền thu thuế của mình không dễ dàng
gì, nhưng với tầm nhìn xa, một sự quyết định, một chính sách chung là vô
cùng cần thiết.
Về phần riêng từng quốc gia, các nước trong khối phải hỗ trợ lẫn
nhau. Nhưng vấn đề là Khối chưa có một cơ quan đủ uy tín để đứng ra điều
phối chung, dẫn đến việc giúp đỡ trở nên lung túng. Khi Hy Lạp lâm vào
khủng hoảng, tất cả đều hướng hy vọng vào Đức, tuy nhiên bản than Đức

cũng có những quyền lợi cho mình, không thể cứ thế làm chỗ dựa cho Hy
Lạp, hay các quốc gia khác được.
Tư tưởng dân chủ - xã hội và hệ thống phúc lợi xã hội từ khi ra đời
cho đến nay luôn được người châu Âu tự hào là biểu tượng của người châu
Âu hiện đại. Trong bối cảnh khó khăn kinh tế hiện nay, châu Âu nên trên tinh
thần chung ấy, đi tới một liên minh chính trị - hành chính chặt chẽ hơn, làm
15


cơ sở cho tiến trình hội nhập kinh tế và chính trị song hành, nâng bước và bổ
sung cho nhau. Chỉ khi như vậy thì các quốc gia trong khối mới có thể tin
tưởng nhau và tin tưởng vào một châu Âu hội nhập bền vững.
1.1.5.2 Các quốc gia khác
a. Ireland
Tình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính
phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một
số ngân hàng.
Mức thâm hụt ngân sách của Ireland tăng mạnh do chính phủ nước
này phải bỏ tiền ra cứu trợ ngành ngân hàng, bao gồm quốc hữu hóa ngân
hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Trong đề
xuất về gói hỗ trợ từ EU và IMF, Chính phủ Ireland sẽ còn tiếp tục dùng một
phần trong khoản tiền đó để quốc hữu hóa hai ngân hàng lớn của nước này là
Bank of Ireland và Allied Irish Bank, tiếp tục bơm tiền để tái cấp vốn cho
nhiều ngân hàng để tăng tỷ lệ an toàn vốn của các tổ chức này. Vì sao Chính
phủ Ireland phải quốc hữu hóa ngành ngân hàng nội địa và phải tái cấp vốn
cho các ngân hàng này? Câu trả lời là do các ngân hàng nước này ngày càng
phải gánh nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh
tế nước này tăng trưởng mạnh và "bong bóng" bất động sản phình to. Khi thị
trường bất động sản nước này sụp đổ, nhiều phần trong các khoản cho vay bất
động sản này trở thành nợ xấu và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Tương tự như trường hợp của Mỹ, Chính phủ Ireland buộc phải nhận
hầu hết tất cả các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn. Như vậy, Chính phủ
Ireland đã biến nợ xấu của các ngân hàng này, những khoản nợ tư nhân, thành
“tài sản tệ hại” (toxic assets) mà chính phủ phải quản lý, nghĩa là trở thành tài
sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách để bù đắp
cho các tổn thất của nó.

16


Vì vậy, khủng hoảng nợ của Ireland thực tế là do chính phủ phải đi
cứu trợ cho hệ thống ngân hàng nước này, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân
tạo thành gánh nặng nợ nần của chính phủ và cuối cùng chính phủ không đủ
tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để có tiền tiếp tục cứu giúp hệ thống
ngân hàng của mình.
b.

Bồ Đào Nha
Bồ Đào Nha - một trong 17 nền kinh tế yếu nhất khu vực đồng tiền

chung châu Âu - đã trở thành nước thứ 3 chính thức đề xuất sự cứu trợ của
EU và IMF, sau Hy Lạp và Ireland . Bất ổn kinh tế - chính trị, Bồ Đào Nha
hiện đang phải đối mặt với 3 khó khăn lớn
- Tài chính của Bồ Đào Nha được cảnh báo là bất ổn ngay khi cuộc
khủng hoảng nợ công diễn ra ở Hy Lạp (tháng 4/2010). Mức nợ của các hộ
gia đình Bồ Đào Nha được coi là cao nhất trong khối Euro, thậm chí ngay cả
trước khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Bồ Đào Nha và Hy Lạp đều bị coi
là có tiềm năng tiêu thụ thấp nhất. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, vấn đề khủng hoảng nợ công ngày càng có xu hướng trầm trọng hơn
và hậu quả dường như cũng nặng nề hơn. Bồ Đào Nha còn phải đối mặt vứi

khủng hoảng chính trị sau khi các đảng đối lập liên kết cùng chống lại chương
trình cải cách kinh tế khắc khổ do thủ tướng Jose Scocrates đề xuất khiến ông
phải từ chức.
- Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thấp. Tăng trưởng kinh tế trung bình của Bồ
Đào Nha chỉ đạt dưới 1%/năm trong suốt thập kỷ đầu thế kỷ XXI, trở thành
một trong những quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế yếu nhất châu Âu.
Trong khi Ireland thu hút được nhiều công nghệ cao nhờ các biện pháp ưu đãi
thuế thì cơ cấu kinh tế Bồ Đào Nha bị coi là lạc hậu. Nước này vẫn chỉ đầu tư
vào các ngành nghề truyển thống như ngành công nghiệp dệt may – lĩnh vực
chịu nhiều sức ép từ các nhà sản xuất châu Á. Kim ngạch xuất khẩu của Bồ

17


Đào Nha liên tục giảm sút trong khi 70% các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ
nước ngoài, có nghĩa Bồ Đào Nha khó lòng xoay xở hay trì hoãn nợ khi đáo
hạn.
- Ngân sách và cán cân thanh toán bị thâm hụt triền miên. Bồ Đào Nha bị
coi là một trong những nền kinh tế kém cỏi nhất và có khả năng cạnh tranh
yếu kém nhất trong khối Euro khi thâm hụt ngân sách đã lên tới gần 10%GDP
và nợ phải thanh toán đã lên tới 90% GDP. Chi phí vay mượn của Bồ Đào
Nha tăng mạnh năm 2010 và hiện đang ở gần mức cao nhất kể từ khi đồng
Euro ra đời. Tình trạng tài chính bấp bênh cộng thêm mối lo ngại về khả năng
dẫm lên “vết xe đổ” như ở Hy Lạp và Ireland là những lý do đẩy tỷ lệ lãi suất
trái phiếu chính phủ 10 năm lên tới 7,8% - đây là mức cao kỷ lục trong khu
vực đồng Euro và là mức lãi suất được đánh giá tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với
phát triển bền vững, thậm chí cao hơn cả mức lãi suất mà Hy Lạp và Ireland
phải chấp nhận trước khi nhận cứu trợ vỡ nợ từ EU và IMF. Chính phủ Bồ
Đào Nha phải phát hành trái phiếu để vay tiền, ước tính lên đến gần 70 tỉ
Euro. Mặc dù chưa vượt quá khả năng tài chính của EU song điều lo ngại là

khủng hoảng Bồ Đào Nha sẽ tiếp bước tạo ra hiệu ứng Domino và dễ đẩy Tây
Ban Nha cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự.
Mức xếp hạng tín nhiệm trái phiếu của Bồ Đào Nha xuống mức BBB
- mức đầu tư thấp nhất. Bồ Đào Nha bị xếp hạng sau cả Ailen, quốc gia đầu
tiên yêu cầu quỹ cứu trợ vỡ nợ châu Âu trợ giúp. Moody’s Investors Service
cũng tuyên bố sẽ giảm 2 bậc tín dụng của Bồ Đào Nha vì cho rằng các mục
tiêu giảm nợ và thâm hụt của Bồ Đào Nha đều khó có khả năng trở thành hiện
thực.
Khủng hoảng nợ công: Bồ Đào Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh
yếu nhất trong khu vực đồng Euro. Không như Ireland và Hy Lạp, những khó
khăn về kinh tế mà Bồ Đào Nha gặp phải đã hình thành từ thập kỷ trước khi

18


tăng trưởng của Bồ Đào Nha chỉ đạt mức trung bình 1,3% trong giai đọan
2000 -2008 (so với mức 4 -5% của Hy Lạp và Ailen) nhưng lại phải chi trả
phúc lợi cho người dân tương đương với mức của các nước châu Âu giàu và
có mức tăng trưởng cao.
Trong lịch sử Bồ Đào Nha đã có 3 lần chính quyền Lisbon phải kêu
cầu sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế: Lần thứ nhất năm 1978 khi mức thâm
hụt ngân sách lên tới 10% GDP. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) buộc chính quyền
Lisbon phá giá đồng tiền (đồng escudo) đến hơn 27% để vực dậy khu vực
xuất khẩu; Lần thứ hai năm 1983 khi Bồ Đào Nha phải đối phó với nạn lạm
phát phi mã (34%/năm), tỉ lệ thất nghiệp ở mức kỷ lục (8,8% năm 1985), sức
mua của người dân giảm 18%; Lần thứ ba năm 2011, Bồ Đào Nha buộc phải
cầu viện trợ tới sự trợ giúp tài chính châu Âu (EU) và Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) sau gần một năm xoay sở để giải quyết khó khăn kinh tế trong nước.Nợ
công của Bồ Đào Nha đã tăng từ 200 tỉ USD (năm 2010) - tương đương
83,3% GDP, cao hơn giới hạn nợ công cho phép theo quy định của EU đối

với Khu vực đồng Euro (60% GDP) - lên tới 286 tỷ USD (tháng 4/2011).
Trong đó bao gồm nợ Tây Ban Nha 86 tỷ USD, nợ Đức 47 tỷ USD, nợ Pháp
45 tỷ USD và nợ Anh 24 tỷ USD. Dự báo nợ công của Bồ Đào Nha sẽ vào
khoảng gấn 100% GDP vào năm 2020.
Nợ công cao trong khi nền kinh tế lại đang rơi vào tình trạng suy
thoái và tỷ lệ thất nghiệp tăng 11,1% - mức cao nhất trong hơn 10 năm qua.
Biện pháp duy nhất để Bồ Đào Nha thoát khỏi vòng xoáy tồi tệ này là tăng
cường xuất khẩu. Tuy nhiên, chính sách xuất khẩu lại vấp phải giới hạn tiếp
cận vốn, điều kiện vay mượn khó khăn... Bồ Đào Nha thừa nhận không thể
chịu đựng mức lãi suất cao kéo dài nếu EU không hành động nhanh chóng.
Mặc dù thâm hụt ngân sách của Bồ Đào Nha năm 2010 ở mức 80%
GDP, không cao như của Hy Lạp (130% GDP) và giới hạn có thể chấp nhận
19


được nhưng những yếu tố bất lợi trên cùng với 70% các khoản nợ là nợ nước
ngoài và tăng trưởng kinh tế chậm (yếu nhất trong khu vực Châu Âu) và khả
năng cạnh tranh thấp (nếu so sánh với Đức) khiến cơ hội huy động lượng tiền
cần thiết để tái tài trợ cho các nghĩa vụ quốc gia trở nên vô cùng khó khăn. Bồ
Đào Nha khó có thể xoay xở hay trì hoãn nợ đáo hạn. Vì vậy, chính phủ luôn
phải đi vay mượn – chủ yếu là vay tiền của các nước trong khối euro – để
thanh toán các khoản chi tiêu. Do vậy, mục tiêu giảm mức bội chi của Bồ Đào
Nha đặt ra từ 10% GDP (2010) xuống còn vào khoảng 4% (2011) khó có thể
thực hiện được.
c. Italia
Nếu như nguy cơ khủng hoảng nợ công Hy Lạp làm chấn động châu
Âu thì nguy cơ khủng hoảng nợ công Italia thậm chí có khả nưng dẫn đến “
phá sản hệ thống đồng tiền Euro”. Vì sao Italia – một trong bảy nền công
nghiệp hàng đầu thế giới lại rơi vào thảm cảnh rủi ro như vậy?
Sau cơn bão ‘tài chính” năm 2008, các chuyên gia kinh tế nhận định

kinh tế Italia bị lùi lại một thập kỷ và đà phục hồi kinh tế Italia hiện vẫn rất
mong manh. Tỷ lệ thất nghiệp ở Italia đã tăng lên mức cao nhất trong vòng 5
năm qua do thị trường lao động bị ảnh hưởng lớn bởi những tác động của
cuộc suy thoái nghiêm trọng kể từ năm 1993 với mức thất nghiệp tăng lên
8,5% (cao nhất châu Âu). Đặc biệt thất nghiệp trong giới trẻ ở độ tuổi từ 15
đến 24 đã tăng vọt lên tới 28,6%.
Hơn nửa triệu người Italia dưới 30 tuổi bị thất nghiệp sao khủng
hoảng tài chính toàn cầu. ISTST cảnh báo, khoảng ¼ dân số Italia đối mặt với
nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo khổ. Italia chìm đắm trong tình trạng nợ nần
từ nhiều năm nay và sự ảm đạm này đã gây nên một cơn hoảng loạn cho các
nhà đầu tư trong quí II/2011 do những dấu hiệu báo động về sự tăng vọt trong
tỷ lệ lãi suất nợ công và dự trữ của các ngân hàng quốc gia có nền kinh tế lớn
20


thứ 7 thế giới. Nợ công của Italia lên tới con số khổng lồ gần 1.900 tỉ euro,
(khoảng 120% GDP) và trở thành quốc gia có tỉ lệ nợ chỉ thua Mỹ, Nhật Bản
và Đức. Trung bình hàng năm Italia phải trả 75 tỉ euro tiền lãi cho các chủ nợ
(năm 2010 Italia phải dành 10% nguồn thu từ thuế để trả lãi nợ. Con số này
có thể sẽ tăng lên mức 12% trong vòng 5 năm tới) và phải đi vay tín dụng với
lãi suất cao chưa từng thấy kể từ năm 1999. Với mức vốn vay 10 năm, lãi suất
lên tới 6,18% - mức cao kỷ lục kể từ khi đồng euro được hình thành (cao gấp
2,5 lần so với Đức), trong khi chỉ số chứng khoán giảm 3,5%, thâm hụt ngân
sách nhà nước trong năm tài khóa 2010 lên tới 4,6% tổng sản phẩm nội địa.
Các nhà đầu tư đang bán tống, bán tháo trái phiếu của Italia do lo ngại các
khó khăn về nợ công của nước này sẽ trầm trọng thêm vì kinh tế tăng trưởng
chậm. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Italia chiếm 12% GDP tòan bộ
khối liên minh châu Âu, nhưng hiện Italia là quốc gia có mức tăng trưởng
thấp nhất châu Âu (chỉ đạt khoảng 0,2% GDP giai đoạn 2001 - 2010) và thậm
chí đạt 0,1% GDP trong quí I/2011 so với mức tăng trưởng chung 0,8% GDP

của khu vực đồng tiền chung châu Âu. Khó khăn về kinh tế và tài chính của
Italia khiến sự cách biệt về giá trị trái phiếu của Italia so với giá trị trái phiếu
của Đức lên tới 250 điểm. Chênh lệch khoảng cách trái phiếu càng tăng thì
khả năng thanh toán của Italia càng giảm. Nếu Italia mất khả năng thanh toán
sẽ là thảm họa khôn lường đối với châu Âu bởi Italia là một trong những nền
kinh tế đứng hàng đầu của khối euro và trọng lượng kinh tế của Italia lớn gấp
đôi so với ba nước Hy Lạp, Ailen và Bồ Đào Nha cộng lại. Bên cạnh những
bất ổn về kinh tế, tình hình chính trị Italia cũng đang khiến nhiều người lo
ngại, đặc biệt sau khi Thủ tướng Italia Romano Prodi đệ đơn từ chức lên Tổng
thống Giorgio Napolitano. Động thái này đã đẩy Italia rơi vào cuộc khủng
hoảng chính trị mới.

21


Giải pháp ứng phó : Châu Âu đang cố níu kéo để tránh vỡ nợ cho
Italia. Lý do là vì kinh tế của Italia quá lớn (đứng thứ 3 Châu Âu và là thành
viên của nhóm những nước có sức mạnh kinh tế vượt trội G20), đầu tư của
nước ngoài vào thị trường Italia quá nhiều (Mỹ đầu tư gấn 30 tỉ USD vào các
khoản nợ của Itatia, trong khi Đức và Pháp có tổng các khoản đầu tư vào
Italía là 150 tỉ USD so với khoảng 36 tỉ USD vào trái phiếu chính phủ của Hy
Lạp). Italia là thị trường trái phiếu lớn nhất ở Châu Âu có nguy cơ tạo ra một
hiệu ứng domino lớn hơn rất nhiều so với Hy Lạp. Dư nợ của Italia đạt 1,8
nghìn tỷ Euro so với 340 triệu euro của Hy Lạp (12/2010). Nếu Italia bị vỡ nợ
thì hệ lụy sẽ đổ lên đầu toàn bộ liên minh châu Âu và hệ thống đồng tiền
Euro, Italia đã tránh được cuộc khủng hoảng nợ. Thực tế, Italia đã bị vỡ nợ
(1992) khi đó chưa có đồng Euro.
Theo đánh giá của Ngân hàng Quốc gia Italia, nước này cần khoảng
hơn nửa năm để trở lại với mức phát triển như trước khủng hoảng, và kinh tế
Italia có thể tăng từ mức 1% (năm 2010) lên mức 1,5% (năm 2011) và 1,3%

(năm 2012).
d. Tây Ban Nha
Theo số liệu báo cáo từ Ngân hàng Trung ương Tây Ban Nha, tỷ lệ nợ
công năm 2011 của quốc gia này đang chiếm tới 68,5% GDP, vượt xa con số
67,3% như dự báo.
Ngày 2 tháng 3 vừa qua, Thủ tướng Tây Ban Nha Mariano Rajoy đã
gây hoang mang cho giới đầu tư khi ông bất chấp sự phản đối của những
người đồng sự tại châu Âu mà tiếp tục nới lỏng mục tiêu thâm hụt cho năm
2012 trong bối cảnh cuộc suy thoái kinh tế thứ hai kéo dài trong suốt nhiều
năm.
Mặc dù, các khoản cho vay của Ngân hàng Trung ương châu Âu đối
với các ngân hàng thương mại đã giúp thúc đẩy nhu cầu đối với trái phiếu Tây
22


Ban Nha thì chi phí đi vay của nước này vẫn tăng 30 điểm cơ bản kể từ sau
tuyên bố của ông Rajoy.
1.3 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
1.3.1 Nguyên nhân bên trong
a. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Hy Lạp
Như trình bày ở trên, chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm từ việc thông
báo những số liệu sai lệch trong nhiều năm , chỉ chi chứ không thu, dẫn đến
nợ nần ngày càng tăng. Mất đi niềm tin, bất cứ quyết định nào của chính phủ
Hy Lạp đều bị hoài nghi, do đó càng khó giải quyết khủng hoảng. Ngoài việc
vốn chạy khỏi Hy LẠp, khoảng 30% nền kinh tế của nước này là gian lận
nhằm trốn thuế. Bên cạnh đó, chính phủ Hy Lạp coi công nhân là nhân tố bảo
hộ chứ không phải động lực của nền kinh tế. Một vấn đề liên quan đến tài
chính khác của Hy Lạp là việc Nhà thờ, một trong những chủ sở hữu đất lơn
nhất quốc gia này, lại không phải trả một khoản thuế nào. Mặc dù chính phủ
đã yêu cầu Nhà thờ phải trả thuế như những người khác, tuy nhiên vẫn chưa

có biện pháp nào được đưa ra áp dụng.
b. Các chính phủ thu không đủ chi
Các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng hoảng nợ công châu Âu là
do chi tiêu của các chính phủ quá lớn, thậm chí còn cho rằng, những chính
phủ đó không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh
tế và tăng trưởng kinh tế của đất nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra
thậm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công ( lương cao cho các nhà chính
trị, công chức, hệ thống an ninh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm )
c. Vấn đề tổ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU
Do vấn đề về cơ cấu nên EU có hạn chế về điều hành nền kinh tế của
Khối, các chính sách tiền tệ không đi cùng với cải cách thuế và lao động. EU
và ngân hàng Trung ương Châu Âu ECB cũng phản ứng chậm với các nền
23


kinh tế khi gặp khủng hoảng. Nhà kinh tế đoạt giait Nobel kinh tế năm 2001,
Joseph Stiglitz, cho rằng, các biện pháp của các chính phủ hiện nay tập trung
vào giảm thâm hụt ngân sách nên có thể đây cũng là nguyên nhân tăng rủi ro
d. Áp lực của các nhóm tài phiệt
Các nhà đầu cơ, cá tổ chức tài chính lớn và các trung tâm quyền lực kinh
tế đã thuyết phục được các chính phủ chỉ điều chỉnh kinh tế chứ không áp
dụng các biện pháp cải cách thể chế. Chính phủ các nước phải tốn nhiều tỷ
Euro hỗ trợ các ngân hàng và cho các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế
nhằm cứu các ngân àng và nền kinh tế không bị đổ vỡ. Điều này không tránh
khỏi việc nợ công gia tăng. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân nhận tiền với
lãi suất thấp, khoảng 1% , từ các ngân hàng trung ương với mục đích cung
cấp tài chính cho các doanh nghiệp và tư nhân phát triển sản xuất nhưng lại
dung tiền đó để mua nợ cua các chính phủ với lãi suất 4% hoặc 5%
e. Vấn đề chính sách tự do mới
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng hiện nay là do

chính sách kinh tế tự do gây ra. Do vậy các quốc gia muốn thoát khỏi cần phải
thoát khỏi chính sách kinh tế tự do mới và chuyển sang chính sách kích cầu
của Keynes.
1.3.2 Nguyên nhân bên ngoài
a. Chiến dịch tấn công làm suy yếu đồng EURO
Giới đầu cơ đang thực hiên các chiến dịch nhằm hạ thấp đồng Euro và
kiếm lời. Họ chủ yếu đầu cơ trong ngắn hạn. Cũng có một số nhà kinh tế cho
rằng cuộc khủng hoảng này là do Anh và Mỹ tạo ra nhằm hạ đồng Euro. Bởi
theo họ, Anh luôn khó chịu với đồng Euro , còn Mỹ thì cảm thấy bị đồng
Euro đe dọa, việc tấn công đồng Euro cũng để chuyển hướng dư luận về sự
yếu kém của USD và GBP.

24


b. Các cơ quan đánh giá rủi ro trái phiếu và thị trường tài chính
Thị trường tài chính đóng vai trò gây bất ổn tình hình kinh tế vừa
qua. Chỉ một năm trước đây, lãi suất dài hạn của các trái phiếu thấp ở mức kỷ
lục tại thời điểm các chính phủ phát hành trái phiếu mới, nhưng chỉ trong vài
tuần, thị trường trái phiếu đã thay đổi mạnh. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng nợ
ở Dubai, các cơ quan đánh giá rủi ro phát hiện có một cuộc khủng hoảng và
hạ thấp trái phiếu ở Dubai, thị trường tài chính Dubai chao đảo và giới tài
phiệt đầu cơ thu được lời. Tiếp đó, các cơ quan đánh giá rủi ro tiếp tục đi tìm
các khoản nợ khác và họ đã nhắm tới các nước Châu Âu, đầu tiên là Hy Lạp
với nền kinh tế có mức nợ công cao. Các cơ quan này mở rộng gây bất ổn trên
thị trường tài chính. Các cơ quan đánh giá bắt đầu đánh giá nợ của Hy Lạp, hạ
thấp trái phiếu của nước này thành phiếu rác. Kể từ đó, lãi suất trái phiếu
chính phủ Hy Lạp không ngừng tăng, thị trường chứng khoán liên tục giảm.
Sự tấn công mạnh mẽ và chủ động này khiến cho một quốc gia vốn đã không
vững như Hy Lạp không thể chống đỡ nổi, liên tiếp sau đó là hàng loạt quốc

gia châu Âu rơi vào khủng hoảng nợ công tương tự.
c. Hoạt động đầu cơ tài chính
Sau Hy Lạp, các nhà đầu cơ quay sự chú ý và Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha. Thực tế, nợ công được thương lượng thông qua các ngân hàng tư
nhân và giá do các ngân hàng này ấn định. Các tổ chứng tài chính như Alpha
Bank, Bank of America – Merrill Lynch, Ngân hàng Thương mại, ING và
Société Genérale có nhiều cơ hội đầu cơ.
d. Môi trường quốc tế không thuận lợi
Mỹ đe dọa đưa ra các số liệu tiêu cực của các doanh nghiệp làm cho
thị trường chứng khoán Mỹ giảm. Tập đoàn Đầu tư và đánh giá Moody’s lại
them dầu vào lửa khi cảnh báo tài chính công của Mỹ và Anh đang xấu đi.
Vốn đầu tư liên tiếp bị rút khỏi Hy Lạp, và các quốc gia nợ công cao khác,
25


×