Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đặc điểm hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.76 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn. Trong giai
đoạn độc quyền chủ nghĩa, một biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản là sự
ra đời của các tổ chức độc quyền. Khi các tổ chức này bành trướng các hoạt động
của mình ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia, chúng trở thành các tổ chức
độc quyền quốc tế, hay tổ chức độc quyền xuyên quốc gia.
Ngày nay, các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức
mới, các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này có vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế thế giới và ngày càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành nền kinh
tế thế giới. Chính vì vậy các công ty xuyên quốc gia đã trở thành chủ đề thu hút
sự quan tâm của không chỉ các học giả, mà cả các doanh nhân và giới chính
khách của hầu hết các quốc gia.
Tại Việt Nam, các công ty xuyên quốc gia chỉ bắt đầu hoạt động kể từ khi
nước ta ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tháng 12-1987. Qua hơn 15
năm, các công ty xuyên quốc gia đã có đóng góp đáng kể vào sự phát triển nền
kinh tế nước ta. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia là một nhân tố quan trọng
trong quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế nước ta trong thời gian qua.
Thông qua việc nghiên cứu về hoạt động của các công ty xuyên quốc
gia tại Việt Nam, chúng ta sẽ thấy cụ thể vai trò và tác động của chúng tới nền
kinh tế Việt Nam và qua đó có các giải pháp đúng đắn để phát triển nền kinh tế
nước ta.

1


1. Đặc điểm hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam
a) Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ các
nước châu Á.
Có thể nhận biết nguồn gốc các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt
Nam thông qua nguồn vốn FDI. Từ số liệu năm 2002, cả nước có 669 dự án FDI
được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí 1,333 tỉ USD. Số dự án và vốn nhiều


nhất thuộc về khu vực Đông Á ( 0,94 tỉ USD ), sau đó đến châu Âu ( 0,2 tỉ
USD ) và Mỹ ( 0,14 tỉ USD ). Như vậy, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào
Việt Nam có nguồn gốc chủ yếu từ các nền kinh tế châu Á.
Các công ty xuyên quốc gia châu Á thường có đặc điểm là thuộc các nước
đang phát triển hoặc không phải xuất phát từ công ty mẹ mà là các công ty thuộc
thế hệ thứ hai, nghĩa là từ các công ty chi nhánh ở nước thứ hai đầu tư vào nước
thư ba.
Việc các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đến từ
các quốc gia châu Á đã tạo ra một số thuận lợi do sự gần gũi về mặt văn hóa,
chính trị và địa kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có một số khó khăn trong
việc xử lý các quan hệ lợi ích khi cả đôi bên đều rất hiểu nhau.
b) Các công ty xuyên quốc gia hoạt động ở Việt Nam phần lớn đều thuộc
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
Xét trên các chỉ tiêu về quy mô vốn, trình độ công nghệ, phạm vi ảnh
hưởng trên thị trường thế giới… thì ở Việt Nam hiện nay số công ty xuyên quốc
gia lớn vẫn còn ít so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Phần lớn
các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam là vào các ngành điện tử, dệt
may, nông lâm hải sản chế biến, dịch vụ du lịch và khách sạn…Điều này do một
số nguyên nhân :
+ Lợi thế của Việt Nam chủ yếu là lao động rẻ, giá nguyên vật liệu rẻ và
thị trường rộng lớn thích hợp với các ngành vừa kể trên.
+ Do các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các
công ty xuyên quốc gia châu Á với nguồn vốn và công nghệ còn thấp ( trừ các
công ty Nhật Bản).

2


+ Do hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém chưa đủ điều kiện
để tiếp nhận công nghệ cao. Đồng thời hệ thống chính sách thu hút đầu tư nước

ngoài của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.
+ Việt Nam mới đang ở những bước đầu tiên của tiến trình hội nhập quốc
tế vì vậy sự ưu tiên chủ yếu vẫn dành cho các công ty xuyên quốc gia trong khu
vực.
c) Các lĩnh vực đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam ngày
càng được mở rộng.
Với sự gia tăng các công ty xuyên quốc gia tham gia hoạt động tại Việt
Nam, các lĩnh vực đầu tư của các công ty này ngày càng được mở rộng.
Trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí, Việt Nam đã thu hút được các
công ty hàng đầu thế giới như Shell (Anh- Hà Lan), Mobil Oil (Mỹ), Total
(Pháp), Petronas (Malaysia) với các dự án đầu tư lên đến hàng tỉ đôla.
Lĩnh vực khách sạn và du lịch cũng là một đối tượng hấp dẫn các công ty
xuyên quốc gia khi ngành khách sạn và du lịch của Việt Nam ngày càng khởi sắc
sau khi thực hiện mở cửa nền kinh tế.
Ngành bưu chính, viễn thông là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ở
Việt Nam hiện nay. Với sự tham gia của các công ty xuyên quốc gia khổng lồ
như Motorola (Mỹ), Nokia (Phần Lan), Telstra ( úc), Samsung (Hàn Quốc)… thị
trường công nghệ thông tin của Việt Nam đang ngày một lớn mạnh. Các công ty
này đang là những nhà cung cấp dịch vụ viễn thông chủ yếu trên thị trường Việt
Nam. Đồng thời với các công nghệ hiện đại mà các công ty này đem lại, ngành
bưu chính, viễn thông của Việt Nam đang cố gắng bắt kịp các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Ngoài các ngành trên một số ngành khác cũng có sự đóng góp không nhỏ
của các công ty xuyên quốc gia. Đó là các ngành điện tử, công nghiệp ôtô, xe
máy, công nghiệp chế biến, dệt may, giày dép… Các ngành này ngoài việc đem
lại đóng góp đáng kể vào GDP còn giải quyết được vấn đề việc làm và thu nhập
cho người lao động.
Tuy nhiên, một lĩnh vực quan trọng là tài chính- tiền tệ- ngân hàng vẫn
còn chưa thu hút được các công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới. Điều này do


3


một số chính sách của nước ta chưa phù hợp với sự phát triển của ngành này do
một số e ngại của các công ty xuyên quốc gia.
d) Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam tồn tại chủ yếu dưới hình thức
liên doanh và đối tác liên doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước.
Trong 10 năm 1988-1998 hình thức liên doanh đã chiếm 61% số dự án và
70% tổng số vốn cam kết đầu tư. Hình thức này có ưu điểm là các công ty xuyên
quốc gia sẽ bớt được chi phí cho quyền sử dụng đất và một số nhà xưởng. Phía
nước ngoài đóng góp bằng tiền mặt và các trang thiết bị nhập khẩu. Do vậy, sự
hoạt động của liên doanh gần như do phía nước ngoài quyết định.
Hình thức này có một số thuận lợi như việc chuyển giao công nghệ, giải
quyết được công ăn việc làm cho người lao động, giúp các doanh nghiệp trong
nước học hỏi kinh ngiệm quản lý của người nước ngoài. Tuy nhiên nó vẫn còn
những hạn chế như những bất đồng trong ban lãnh đạo công ty, những bất đồng
về chiến lược giữa doanh nghiệp trong nước và công ty nước ngoài, hiệu quả
kinh doanh vẫn còn kém, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, giải thể… Chính vì vậy,
hiện nay đang có một xu hướng là các công ty nước ngoài thành lập hẳn những xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài.
e) Việt Nam đang từng bước tạo dựng môi trường đầu tư nhằm thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài bằng việc mở rộng mạnh mẽ các khu công nghiệp,
khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Cùng với việc mở rộng các chính sách khuyến khích các công ty xuyên
quốc gia đầu tư vào Việt Nam, nước ta còn đang từng bước xây dựng các khu
công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao để khắc phục những yếu kém về
cơ sở hạ tầng và tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các công ty nước ngoài. Các
khu công nghiệp Nam Thăng Long, Biên Hòa hay khu kinh tế mở Chu Lai…
đang ngày càng được hiện đại hóa để không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong
nước mà còn hướng ra xuất khẩu. Các khu công nghiệp này ra đời đã giúp cho

việc chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia trở nên thuận lợi hơn
đồng thời cũng giúp nước ta tiếp cận với các công nghệ hiện đại của thế giới một
cách dễ dàng hơn.

4


f) Các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam đang từng bước tạo dựng hình
ảnh và tăng cường sự hiểu biết thị trường Việt Nam thông qua các hoạt
động hỗ trợ văn hóa và phát triển khoa học.
Với tiềm năng tài chính của mình, các công ty xuyên quốc gia đã không
ngừng có những hoạt động ngoài kinh doanh với cai trò như các tổ chức phi
chính phủ ở Việt Nam. Có rất nhiều các hoạt động nghiên cứu khoa học ở các
trường đại học, các viện khoa học, các học bổng đào tạo ở nước ngoài được tài
trợ bởi các công ty xuyên quốc gia. Ngoài ra các hoạt động giao lưu văn hóa, các
hoạt động xã hội mang tính nhân văn cũng có đóng góp không nhỏ của các công
ty xuyên quốc gia. Chính động thái này đã làm thay đổi cách nhìn của người Việt
Nam đối với các công ty nước ngoài. Các hoạt động này tất nhiên để phục vụ cho
lợi ích của các công ty này nhưng nó cũng đem lại lợi ích đáng kể cho Việt Nam.
2. Tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt
Nam
a) Những tác động tích cực
- Các công ty xuyên quốc gia cung cấp nguồn vốn quan trọng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước.
Nguồn vốn của các công ty xuyên quốc gia là một nguồn lực quan trọng
trong việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta. Nhưng điều quan
trọng hơn của nguồn vốn này lại ở chỗ khác. Nhờ có nó, nhiều nguồn lực trong
nước ngày càng giữ vai trò quan trọng trong tổng đầu tư xã hội : vốn đầu tư nước
ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong nước và nhàn rỗi của dân cư theo hiệu
ứng dây chuyền có thể khơi dậy để đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngay

trên thị trường nội địa, hoặc để phát triển các lĩnh vực sản xuất- dịch vụ đáp ứng
yêu cầu của doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoặc của người tiêu dùng nước
ngoài.
- Các công ty xuyên quốc gia đóng góp tích cực trong việc dịch chuyển
cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự tiến bộ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời
gian qua có đóng góp không nhỏ của các công ty xuyên quốc gia. Cho đến nay
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra gần 35% giá trị sản xuất

5


toàn ngành công nghiệp. Rõ ràng, các công ty xuyên quốc gia đã chiếm một tỉ
trọng cao trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp. Đồng thời, các công ty xuyên
quốc gia đã góp phần tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới mà trước kia Việt
Nam chưa có. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các ngành sản
xuất và cung cấp dịch vụ cũng được phát triển theo. Có thể nói, các công ty
xuyên quốc gia không chỉ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia vào sự
phân công lao động quốc tế mới mà còn giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam
thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập
quốc tế.
- Các công ty xuyên quốc gia tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ
tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng doanh
thu ngân sách.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới mọi hình thức đều có
tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kì Việt Nam chịu sự tác động nặng nề của cuộc
khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực. Chúng đã đóng góp đáng kể vào tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao và ổn định và làm cho Việt Nam trở thành một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực châu Á- Thái Bình Dương
trong thời gian qua.

Đối với kim ngạch xuất khẩu, các công ty xuyên quốc gia có đóng góp
ngày càng tăng. Nếu năm 1991 mức độ đóng góp chỉ là 52 triệu USD thì đến
năm 1999, con số này đã là 2200 triệu USD và chiếm 21,6% kim ngạch xuất
khẩu.
Đối với nguồn thu ngân sách cũng vậy.Nếu như năm 1994 đóng góp của
khu vực này ( không kể dầu khí ) chỉ là 28 triệu USD thì đến năm1998 là 316
triệu USD, chiếm khoảng 6-7% nguồn thu ngân sách hàng năm.
- Các công ty xuyên quốc gia góp phần giải quyết việc làm, tham gia
phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.
Tính đến cuối năm 1999 đã có gần 30 vạn người lao động Việt Nam làm
việc trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đa số
họ là những công nhân, cán bộ quản lý có tay nghề, có kĩ năng và kỉ luật cao. Họ
sẽ được đào tạo nâng cao tay nghề, nắm được công nghệ, thậm chí còn học được

6


bí quyết về kĩ thuật và kinh doanh khi tham gia lao động trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là một nguồn nhân lực đầy tiềm năng để
phát triển nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra, với sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia, thu nhập của
người lao động cũng được cải thiện đáng kể. Mức thu nhập trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn so với các doanh nghiệp trong
nước đã thu hút những người lao động trong các doanh nghiệp trong nước. Điều
này cũng khiến cho các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực trong việc thực hiện
chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với người lao động. Mặt khác, sự cạnh tranh
này cũng khiến cho thị trường lao động phát triển và có khả năng thích nghi cao
nhất đối với mọi biến động của tình hình kinh doanh ở trong và ngoài nước.
- Các công ty xuyên quốc gia là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế của Việt Nam.

Việc các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam cũng đồng nghĩa
với việc xác lập và tăng cường quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia,
lãnh thổ có các công ty này. Xuất phát từ lợi ích của các công ty xuyên quốc gia
nước mình, chính phủ các nước đã kí nhiều hiệp định về đầu tư, hiệp định tránh
đánh thuế hai lần… nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho các hoạt
động của các công ty xuyên quốc gia. Do đó, quan hệ hợp tác kinh tế song
phương giữa Việt Nam các nước được xúc tiến và mở rộng hơn.
Ngoài ra, một nước nào đó muốn thu hút được vốn và công nghệ từ các
công ty xuyên quốc gia thì nhất thiết nền kinh tế của họ phải là nền kinh tế hội
nhập thực sự vào thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, sự có mặt của các công
ty xuyên quốc gia ở Việt Nam ngoài ý nghĩa khẳng định sự chuyển đổi tích cực
sang kinh tế thị trường nhằm thích ứng với toàn cầu hóa, khu vực hóa của nền
kinh tế Việt Nam, còn là điều kiện tạo thế và lực cho nền kinh tế Việt Nam mở
rộng các quan hệ chính trị và kinh tế đối ngoại, cho sự hội nhập của Việt Nam
vào ASEAN, APEC, AFTA và tiến tới vào WTO.

7


b) Một số nhược điểm và tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia
ở Việt Nam
- Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia thường xuyên mâu thuẫn với
mục tiêu, chiến lược chung về phát triển kinh tế, xã hội ở nhà nước ta.
Mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, thị phần, doanh số,
ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn định. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục
tiêu chiến lược chung về phát triển kinh tế- xã hội của nhà nước ta là tăng trưởng
đồng đều, cao và bền vững.
Do mục đích của mình là tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, các công ty xuyên
quốc gia thường đầu tư vào các thành phố, trung tâm lớn như Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… Điều này mâu thuẫn với chính sách phát triển đồng

đều giữa các địa phương của nhà nước ta. Nhà nước ta cũng đã có những chính
sách khắc phục nhược điểm này bằng cách xây dựng mới nhiều khu công nghiệp
cùng với những chính sách ưu đãi.
Các công ty xuyên quốc gia thường tập trung đầu tư vào các ngành như
khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, dệt may, giày dép… Điều này góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nước ta nhưng đồng thời cũng gây ra sự phát
triển mất cân đối giữa các ngành. Vì vậy nước ta cần có những biện pháp khuyến
khích đầu tư vào các ngành yêu cầu vốn đầu tư dài hạn, chuyển vốn chậm, lãi
suất thấp.
- Các công ty xuyên quốc gia lớn, nhất là các công ty đến từ châu Âu và
châu Mỹ, còn dè dặt trong việc đầu tư vào Việt Nam
Thị trường Việt Nam vẫn chưa thu thút được các công ty xuyên quốc gia
lớn đến từ Mỹ và châu Âu. Điều này do một số lý do :
+ Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường còn chưa lâu nên vẫn
còn bỡ ngỡ với môi trường đầu tư nước ngoài. Vì vậy vẫn chưa hấp dẫn đối với
các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và châu Âu so với các thị trường truyền
thống của các công ty này.
+ Việt Nam chưa kí kết được với nhiều nước châu Âu và đặc biệt với Mỹ
hiệp định thương mại song phương.

8


+ Hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn chưa chặt chẽ làm cho các công
ty này nghi ngờ về môi trường, tính khả thi của những dự án đầu tư đã kí kết.
- Một số công ty xuyên quốc gia lạm dụng các ưu thế về vốn, công nghệ
để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh, thậm chí gây sức ép với cơ
quan quản lý nhà nước
Trong một số liên doanh, các công ty xuyên quốc gia nước ngoài đã sử
dụng các ưu thế của mình để chèn ép các doanh nghiệp trong nước, hướng tới

độc quyền trong nền kinh tế tự do hóa hiện nay. Vì vậy Việt Nam cần phải cảnh
giác với sự liên kết của các công ty xuyên quốc gia với các doanh nghiệp nhà
nước, tránh để xảy ra những tiêu cực.
- Một số yếu kém trong hoạt động của các công ty xuyên quốc gia còn
do công tác chuẩn bị và vai trò hỗ trợ của các cơ quan quản lý nhà nước.
Trong một số lĩnh vực, công tác quản lý của chúng ta còn kém đã gây ra
một số tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, tình trạng độc quyền …, đồng
thời vẫn chưa phát huy được tối đa hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Nếu không sửa chữa được những yếu kém này, Việt Nam sẽ dễ bị
rơi xuống hàng những quốc gia có môi trường đầu tư kém hấp dẫn nhất trong khu
vực.
3. Những vấn đề đặt ra hiện nay đối với hoạt động và thu hút các công
ty xuyên quốc gia tại Việt Nam
- Sự cần thiết phải thống nhất quan điểm đối với các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia
Cần có những cái nhìn mới đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các công ty xuyên quốc gia và phải thẳng thắn nhìn nhận những mặt
tích cực và tiêu cực của chúng. Các công ty xuyên quốc gia cũng là sự hiện thân
của lợi ích một quốc gia nào đó. Cho nên, Việt Nam cũng cần tính đến những
quốc gia có các công ty đó.
- Công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn
chậm, chưa rõ ràng và chất lượng chưa cao
Thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút vốn đầu tư nước ngoài là biểu
hiện bao trùm trong bức tranh chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động

9


của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. Vì thế, một số ngành đã không thu
hút được các dự án đầu tư đáng kể trong khi rất nhiều ngành đã đầu tư quá mức,

vượt quá nhu cầu trong nước và khó tìm được thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, đối với một số dự án chúng ta còn quá dễ dãi, chấp nhận một
cách tràn lan nên số lượng các dự án không có tính khả thi còn nhiều, vừa gây
mất thời gian, vừa tiêu tốn nhiều chi phí xem xét, thẩm định và phê duyệt dự án.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nâng cao hiệu quả của công tác hoạch định
chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài còn thấp
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số doanh nghiệp có lãi
chưa nhiều. Bên cạnh những doanh nghiệp thua lỗ vì rủi ro trong kinh doanh, vẫn
còn khá nhiều các công ty xuyên quốc gia thực hiện bán phá giá sản phẩm, nâng
chi phí quảng cáo, tiếp thị và quản lý vượt quá mức cho phép nhằm mục tiêu
chiếm lĩnh thị trường hoặc để loại bỏ các đối tác Việt Nam trong liên doanh. Vì
vậy, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật kinh tế để loại bỏ những biểu hiện
cạnh tranh không lành mạnh của các công ty này
- Hệ thống luật pháp, chính sách thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo tính rõ
ràng và khả năng dự đoán được cho các nhà đầu tư
Nước ta chưa có một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện nên việc bảo
vệ lợi ích của các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, cũng như quy định nghĩa
vụ, trách nhiệm của họ chưa được xác định nhất quán.
Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Trong nhiều trường
hợp, luật pháp và chính sách thay đổi đột ngột đã làm đảo lộn các phương án
kinh doanh của các nhà đầu tư.
- Công tác quản lý của nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn chưa có tác động thúc đẩy hứng khởi đầu tư của các công ty xuyên quốc
gia
Việc cấp giấy phép trong những năm đầu ban hành luật đầu tư trực tiếp
nước ngoài còn thiên về các dự án thay thế nhập khẩu để đáp ứng yêu cầu tiêu

10



dùng của thị trường.Công tác thẩm định và phê duyệt dự án này có phân cấp,
nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa chặt chẽ. Hành
vi sách nhiễu của một số cán bộ thừa hành đã làm biến dạng chính sách, chủ
trương của Nhà nước, làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài.
- Vấn đề đội ngũ cán bộ quản lý, công chức và công nhân kĩ thuật chưa
đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Một số cán bộ quản lý, công chức và công nhân kĩ thuật trong các liên
doanh còn yếu về trình độ chuyên môn, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế.
Một số cán bộ trong các liên doanh chỉ chú ý đến thu nhập và lợi ích cá
nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích của tập thể và đất nước.

11


KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia, hay ngày
nay là các công ty xuyên quốc gia đã và đang có vai trò quan trọng trong nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế thế giới. Ngày nay, với xu hướng khu vực hóa, toàn cầu
hóa mà các công ty xuyên quốc gia là một lực lượng thúc đẩy, đã mở ra nhiều
khả năng mới để mỗi quốc gia tranh thủ sử dụng nguồn lực quốc tế . Do vậy, việc
hợp tác với chúng là điều tất yếu. Tuy nhiên, vai trò, tác động của các công ty
xuyên quốc gia ngoài mặt tích cực cũng có một số mặt tiêu cực đối với các quốc
gia mà chúng tác động. Vì vậy, đòi hỏi nước chủ nhà cần phải có chiến lược phù
hợp, sử dụng được những đóng góp của chúng một cách có hiệu quả và hạn chế
tối đa những mặt tiêu cực mà chúng gây ra.
Đối với Việt Nam, là một nước mới chuyển sang cơ chế thị trường chưa

lâu thì những đóng góp của các công ty xuyên quốc gia lại càng quan trọng bằng
việc cung cấp vốn và công nghệ. Vì thế, Việt Nam cần phải có những chính sách
thích hợp để thu hút các công ty xuyên quốc gia đồng thời vẫn giữ được an ninh,
chính trị và một nền kinh tế độc lập, không bị phụ thuộc. Đây là một nhiệm vụ
quan trọng trong giai đoạn mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay
của nước ta.

12


Tài liệu tham khảo
-

PGS.TS Phùng Xuân Nhã, Các công ty xuyên quốc gia - Lý thuyết và
thực tiễn, Đại học Quốc gia Hà Nội, chương 6

-

Web : vietbao.vn; thuvien.ou.edu.vn

13


14







×