Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Thực trạng tạo việc làm tại Việt Nam và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.76 KB, 39 trang )

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết theo tháp nhu cầu của Mashlow thì con người chúng ta có 4 nhu cầu
cơ bản đó là : Nhu cầu về vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại; Nhu cầu về giáo dục hay đến trường;
Nhu cầu về chăm sóc sức khỏe và nhu cầu về việc làm.Việc làm nằm trong 4 nhu cầu cơ bản
quan trọng nhất của mỗi con người. Tạo việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của mỗi quốc gia,dân tộc. Bởi có việc làm đồng nghĩa với việc thu nhập tăng, đời
sống nhân dân được cải thiện , an sinh xã hội được đảm bảo,hạn chế những tệ nạn xã hội góp
phần xóa đói giảm nghèo. Trong thời gian gần đây vấn đề về tạo việc làm cho sinh viên,thực
trạng tạo việc làm được nói đến rất nhiều : 70.000 cử nhân,thạc sĩ thiếu việc làm trong khi các
doanh nghiệp lại kêu không tìm được nhân viên phù hợp. Nhận thấy chủ đề rất gần gũi và liên
quan trực tiếp đến chính bản thân mình -nguồn nhân lực tương lai của đất nước và dưới sự phân
công của Th.S Hoàng Thị Huệ chúng em đã tìm hiểu về vấn đề ‘’ Tạo việc làm cho người lao
động và thực trạng tạo việc làm ở Việt Nam’’.


I. TỔNG QUAN VỀ VIỆC LÀM
1.Các khái niệm
1.1:Việc làm


Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: việc làm là những hoạt động lao động được trả công



bằng tiền và hiện vật.
Theo điều 13, chương II Bộ luật Lao Động, việc làm được định nghĩa như sau: “ Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm”.


Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm nếu đáp ứng hai tiêu chuẩn:
 Hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm
 Hoạt động phải đem lại thu nhập cho người lao động

Từ khái niệm trên, có thể khái quát việc làm dưới 3 hình thức:
 Hoạt động lao động để nhận tiền lương, tiền công
 Hoạt động lao động nhằm thu lợi nhuận cho bản thân
 Làm công việc cho hộ gia đình ( nông nghiệp, phi nông nghiệp) mà không được trả thù


lao dưới dạng tiền công hay tiền lương
Việc làm có thể hiểu là phạm trù chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất hoặc phương tiện sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội.
Sự phù hợp trên chiếu trên cả phương diện số lượng và chất lượng được biểu hiện cụ thể
qua tỉ lệ giữa chi phí ban đầu C và chi phí lao động L, bị ảnh hưởng rất lớn bởi tiến bộ của
khoa học kĩ thuật.
VL = C/V
Trong đó:
VL: việc làm
C: tư liệu sản xuất
V: lực lượng lao động
1.2: Tạo việc làm


Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số lượng và chất
lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao
động. Có 3 chủ thể có thể tạo ra việc làm: Nhà nước, người sở hữu lao động, bản thân người lao
động.
Các


đặc Tạo việc làm

điểm
Chủ thể tham Nhà nước, Người chủ sử dụng lao động, người lao động
gia
Chủ thể tạo

Nhà nước, người chủ sử dụng lao động

ra việc làm
Tạo ra cái gì

Tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm

Cơ chế
TT vốn, công
nghệ

Nhà nước

Giáo dục, đào tạo

Người sử
dụng lao
động

Thị trường lao động

Người lao
động


- Thiếu việc làm(hay còn gọi là bán thất nghiệp hay thất nghiệp trá hình) là những người
làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn. Thiếu việc làm được biểu hiện dưới 2 dạng: thiếu việc
làm hữu hình(người lao động không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong
tháng; thiếu việc làm vô hình( làm những công việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc
sống nên muốn làm thêm việc để có thu nhập).

2.Người có việc làm và người thiếu việc làm
- Người có việc làm là người làm việc trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra
kể cả lao động làm nghề giúp việc gia đình được trả công, hoặc tam thời nghỉ việc do ốm đau, tai
nạn, nghỉ lễ hoặc tạm thời nghỉ việc trong thời tiết xấu.


- Người thiếu việc làm là những người làm việc dưới 35h\tuần, muốn và sẵn sàng làm
thêm việc( theo quy định của Tổng cục thống kê Việt Nam); hoặc là những người có tổng số giờ
làm việc bằng số giờ theo quy định trong tuần, tháng, năm nhưng có thu nhập quá thấp nên muốn
làm thêm để có thu nhập.

3. Phân loại việc làm
a) Theo thời gian làm việc
Toàn thời gian: Là một định nghĩa chỉ một công việc làm 8 tiếng mỗi ngày, hoặc theo giờ



hành chính 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày trong tuần.
Bán thời gian: Là một định nghĩa mô tả công việc làm không đủ thời gian giờ hành chính



quy định của nhà nước 8 tiếng mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần. Thời gian làm việc có thể dao

động từ 0.5 đến 5 tiếng mỗi ngày và không liên tục.
b) Theo quan điểm triết học
VL=V/C
-

Việc làm hợp lý: Nếu V phù hợp và khai thác triệt để C .
Việc làm đầy đủ: Nếu chỉ sử dụng hết thời gian lao động cần thiết
Việc làm tạm thời: Nếu như V cố định, C nhỏ
Việc làm ổn định: Nếu tốc độ tăng của C lớn hơn tốc độ tăng của V

c) Theo Tổng cục thống kê
- Làm công: Người làm loại công việc này mang sức lao động của mình ra để đối lấy tiền
công,tiền lương, không tự ý quyết định được những vấn đề liên quan đến công việc của mình như
tiền lương,số h làm việc…
- Tự làm: Thành viên đó chi toàn bộ chi phí và thu được toàn bộ lợi nhuận trong loại hình công
việc này
- Tự làm công việc cho gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới dạng tiền lương cho
công việc đó
d) Theo ILO
`Việc làm bền vững: là năng suất công việc của cả nam và nữ trong điều kiện tự do, công bằng,
an toàn và nhân phẩm được tôn trọng. ILO


Việc làm dễ bị tổn thương: chất lượng công việc không được đảm bảo, lương thấp, thiếu các
quyền lợi và lợi ích người lao động.
e) Theo vị thế việc làm
Vị thế việc làm:
Là vị thế hay tình trạng của một người có việc làm trong mối quan hệ với người khác trong cùng
đơn vị, tổ chức mà người đó làm việc.Vị thế việc làm được phân chia thành các phần tố:
Chủ cơ sở:Là những người làm những công việc thuộc loại việc ‘’tự làm” tức là người một mình

hoặc kết hợp với những đối tác khác điều hành hoạt động của một cơ sở sản xuất, kinh
doanh,dịch vụ hoặc chuyên môn có tuyển hoặc thuê một ít nhất 1 lao động được trả công,trả
lương.
Tự làm: Là những người làm những công việc thuộc loại việc ‘’tự làm” tức là người một mình
hoặc kết hợp với những đối tác khác điều hành hoạt động của một cơ sở sản xuất, kinh
doanh,dịch vụ hoặc chuyên môn và không thuê hoặc tuyển bất kì 1 lao động được trả công,trả
lương.
Lao động làm công ăn lương: Là những người làm việc thuộc loại việc làm được trả công,tức là
những người được các tổ chức hoặc các nhân khác thuê theo hợp đồng, …để thực hiện một hoặc
một loạt các công việc để thực hiện mục đích của tổ chức hay cá nhân đó và được tổ châc cá nhân
đó trả thù lao dưới dạng tiền công hoặc tiền lương hoặc hiện vật.
Lao động gia đình: là những người làm những công việc thuộc loại việc tự làm,tức là những lao
động tự làm trong 1 cơ sở kinh tế và do ít nhất 1 người trong gia đình quản lý nhưng không được
hưởng tiền lương và tiền công.
Nhân viên hợp tác xã: là những người làm các công việc thuộc ‘’ việc tự làm’’ tức là những
người làm việc trong những hợp tác xã và đã thành lập theo Luật Hợp tác xã.
Thợ học việc: Là những người làm việc nhằm mục đích nâng cao trình độ, tay nghề.

4. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động
- Tạo việc làm cho người lao động là cần thiết nhằm giảm thất nghiệp . Trong quá trình
phát triển kinh tế , chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo
chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy, có nghề mới, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một


số nghề cũ, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một số nghề cũ, hoạt động sản xuất cũ bị
mất đi, thất nghiệp phát sinh.
- Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động, quyền có việc
làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao động.
- Tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế tiêu cực xã hội góp phần
xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội

Từ đó ta có thể thấy tạo việc làm là vấn đề cực kì quan trọng và như Phó Thủ Tướng Phạm Sinh
Hùng đã nhấn mạnh: ‘’Tạo việc làm là vấn đề mang tầm chiến lược quốc gia,đảm bảo cho sự
phát triển kinh tế - xã hội đất nước’’.
Nói tóm lại tạo việc làm cho người lao động có vai trò thực sự quan trọng nó không chỉ có lợi ích
đối với riêng người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển cho toàn xã hội.

5. Những nhân tố tác động tới tạo việc làm cho người lao động
a) Môi trường
Môi trường có ảnh hưởng rất nhiều đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Môi trường tự nhiên ở đây bao gồm: vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu đất đai,
vị trí địa lý, địa hình…Người lao động sinh sống ở những nơi có nguồn tài nguyên đa dạng và
phong phú sẽ có nhiều cơ hội tìm được việc làm hơn
Môi trường xã hội : Các chính sách của Nhà nước và địa phương có một vai trò quan trọng trong
việc tạo việc làm cho người lao động. Những địa phương nào có những chính sách khuyến khíc
đầu tư hợp lý, chính sách hành chính nhanh gọn sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư đến đầu tư từ
đó tạo ra nhiều việc làm cho hơn cho người lao động.Bên cạnh đó những nghành vùng được nhà
nước ưu tiên đầu tư cũng có nhiều cơ hội để phát triền tạo thêm nhiều việc làm hơn. Ngoài ra các
yếu tố như tuyên truyền giáo dục cho người lao động nhằm giúp họ có được định hướng nghề
nghiệp đúng đắn; Cùng với đó là các chính sách quan tâm đến người lao động của doanh nghiệp
cũng giúp số lượng việc làm tăng lên.
Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế là yếu tố quan trọng trong vấn đề tạo việc làm. Điều này
được thể hiện qua xu hướng chuyển dịch cơ cấu các nghành kinh tế cũng với đó là tình hình phát
triển kinh tế ở địa phương. Việc cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp
và tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ làm cho số lượng việc làm trong hai nghành công


nghiệp và dịch vụ tăng lên… Bên cạnh đó tình hình kinh tế có nhiều khả quan tốc độ tăng GDP
tăng cao qua các năm,các doanh nghiệp làm ăn có lãi mở rộng sản xuất,thuê thêm lao động làm
số lượng việc làm cũng có xu hướng tăng.
b) Tư liệu sản xuất

Tư liệu sản xuất ở đây bao gồm:vốn,đất đai, máy móc, nhà xưởng,công cụ kết cấu hạ tầng và
nguồn lực sinh học trong đó quan trọng nhất là vốn,đất đai còn lại các yếu tố khác đều có thể mua
bằng vốn.
Như chúng ta đã biết vốn có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vốn được hiểu rộng ra là tất cả các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh nhưng ở đây
mình xin được hiểu theo nghĩa hẹp là :tiền. Vốn giúp mua nguyên vật liệu,mở rộng nhà
xưởng,đạo tào công nhân viên… mở rộng sản xuất kinh doanh, thuê thêm nhiều nhân công lao
động.
c) Nguồn nhân lực
Khi xem xét đến yếu tố nguồn nhân lực ta cần xem xét trên hai phương diện là số lượng và chất
lượng của nguồn nhân lực
Trên phương diện số lượng : những địa phương có nguồn nhân lực dồi dào thường thì tại những
khu vực này người sử dụng lao động có thể dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm lao động
Tuy nhiên nhân tố quan trọng nhất của nguồn nhâ lực là chất lượng không phải số lượng Việc
người lao động tự nâng cao trình độ kĩ thuật, kĩ năng chuyên môn làm cho chất lượng nguồn nhân
lực tăng,đáp ứng được những nhu cầu của nhà tuyển dụng từ đó dễ dàng tìm kiếm được những
việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của bản thân


PHẦN 2- LÝ THUYẾT TẠO VIỆC LÀM

1.Lý thuyết cổ điển tạo việc làm ( tự do cạnh tranh trên thị trường linh động - mức lương
linh hoạt và sự toàn dụng lao động)
Với lí thuyết cổ điển về tạo việc làm sự thỏa dụng của cá nhân người lao động và lợi
nhuận của doanh nghiệp do cân bằng thị trường quyết định. Mức lương và việc làm trên
thị trường sẽ tuân theo quy luật cung cầu. Về phía cầu tức bên sử dụng lao động hay nhà
sản xuất họ sẽ làm thuê thêm lao động cho đến khi nào giá trị sản phẩm cận biên còn lớn
hơn tiền lương. Còn về phía bên cung tiền lương được xem là giá trị của việc nghỉ ngơi,
khi tiền lương ở mức thấp W 2 nhận thấy chi phí cơ hội của việc nghỉ ngơi còn ở mức thấp
có rất ít người lao động muốn tìm việc làm (L 1) trong khi đó mức cầu lao động là L 2 lớn

hơn L1 , vì tiền lương là linh hoạt nên nó sẽ tự tăng đến mức W 0,khi đó cung lao động
bằng cầu lao động. Ngược lại nếu tiền lương ở mức cao là W 1 chi phí cơ hội của việc
nghỉ ngơi là quá cao vì thế nhiều người lao động từ bỏ việc nghỉ ngơi và đi làm vì thế
mức cung lao động tăng mà mức cầu lao động lại giảm,tiền lương sẽ tự động được giảm


về mức W0 ở đó cung và cầu lao động cân bằng. Với mô hình này thất nghiệp không hề
xảy ra những người muốn làm việc đều kiếm được việc làm.
Hạn chế của mô hình trên là giả định tiền lương linh hoạt và mức toàn dụng về lao động.
Ở tất cả các nước khi kí kết hợp đồng lao động trong một thời gian dài thì yếu tố tiền
lương được xem là cứng nhắc. Đó là lí do vì sao thất nghiệp luôn xảy ra ở tất
cả các nước và chỉ có thể giảm được tỉ lệ thất nghiệp chứ không loại bỏ được hoàn toàn
nó.

2.Mô hình tạo việc làm của Keynes
Theo ông, trong một nền kinh tế, khi sản lượng tăng, thu nhập tăng, đầu tư tăng thì việc
làm tăng và ngược lại. Tâm lý của quần chúng là khi tổng thu nhập tăng thì cũng tăng tiêu
dùng, nhưng tốc độ tăng tiêu dùng chậm hơn so với tăng thu nhập và có khuynh hướng
tiết kiệm một phần thu nhập, làm cho cầu tiêu dùng có hiệu quả hay cầu tiêu dùng thực tế
giảm tương đối so với thu nhập dẫn đến một bộ phận hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
không có khả năng bán được. Thừa hàng hóa là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, ảnh
hưởng tới quy mô sản xuất ở chu kỳ tiếp theo, nên việc làm giảm, thất nghiệp tăng. Mặt
khác, trong nền kinh tế thị trường, khi quy mô đầu tư tư bản tăng thì hiệu quả giới hạn của
tư bản đầu tư có xu hướng giảm sút tạo nên giới hạn chật hẹp về thu nhập của doanh nhân
trong đầu tư tương lai. Doanh nhân chỉ tích cực mở rộng đầu tư khi hiệu quả giới hạn của
tư bản lớn hơn lãi suất. Còn khi hiệu quả giới hạn của tư bản nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất
thì họ không tích cực đầu tư nên quy mô sản xuất bị thu hẹp, dẫn đến việc làm giảm, thất
nghiệp tăng. Theo Keynes, để tăng việc làm, giảm thất nghiệp, phải tăng tổng cầu của nền
kinh tế. Chính phủ có vai trò kích thích tiêu dùng (tiêu dùng sản xuất và phi sản xuất) để
tăng tổng cầu thông qua tăng trực tiếp các khoản chi tiêu của chính phủ, hoặc thông qua

các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích đầu tư của tư nhân, của các tổ chức
kinh tế xã hội. Keynes còn sử dụng các biện pháp: hạ lãi suất cho vay, giảm thuế, trợ giá
đầu tư, in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách nhà nước nhằm tăng đầu tư và bù đắp
các khoản chi tiêu của Chính phủ. Ông chủ trương tăng tổng cầu của nền kinh tế bằng mọi
cách, kể cả khuyến khích đầu tư vào các hoạt động ăn bám nền kinh tế như: sản xuất vũ
khí đạn dược, chạy đua vũ trang, quân sự hoá nền kinh tế.


Ta có AD= C+I+G+NX
C: Tiêu dùng
I: đầu tư
G: chi tiêu chính phủ
NX: xuất khẩu ròng
Ban đầu,thị trường cân bằng tại điểm E 0 vơi mức giá P0 và mức sản lượng Q0. Khi chính
phủ kích cầu tiêu dùng bằng việc tăng G đường tổng cầu AD dịch chuyển sang phía phải
lúc này thị trường có điểm cân bằng mới là E 1 với mức giá P1 cao hơn P0 và mức sản
lượng Q1 lớn hơn Q0.


Lý thuyết này là cơ sở cho chính sách kích cầu của chính phủ vào năm 2008, nhưng
không đạt được kết quả đáng mong đợi, nền kinh tế vẫn trên đà tụt dốc một phần do lý
thuyết này còn có nhiều điểm hạn chế :
-Trong mô hình, Keynes đã đồng nghĩa việc tăng sản lượng với việc tăng việc làm.Với
thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay thì tăng sản lượng không đồng nghĩa
với việc tăng số lượng lao động, thậm chí số lượng lao động có thể giảm khi sản lượng
tăng. Ví dụ một cái máy gặt một người điều khiển nhưng lại có năng suất lao động bằng
10 người gặt tay
-Việc khuyến khích cả những hoạt động ăn bám nền kinh tế không những làm cho nên
kinh tế không thể phát triển mà còn gây bội chi ngân sách dẫn đến gánh nặng nợ nần hay
lạm phát ( do nhà nước phát hành tiền).

-Bên cạnh đó những chính sách kích cầu của chính phủ chịu sự chi phối của rất nhiều mặt
đặc biệt là sự quản lý của cơ quan nhà nước…nếu cơ quan quản lý Nhà nước không hoạt
động có hiệu quả việc kích cầu của chính phủ sẽ không thể đạt được mục tiêu đề ra gây
lãng phí tài nguyên.

3) Mô hình tập trung vào mối quan hệ giữa tích lũy vốn, phát triển công nghệ và
tạo công ăn việc làm
Trường phái Tân cổ điển đã phát triển mô hình của Keynes đã trung vào những chính sách nhằm
tăng nhanh sản lượng quốc dân thông qua tích lũy vốn.
Tăng trưởng kinh tế là kết quả tổng hợp của tích lũy vốn (mức tiết kiệm) và tỉ lệ vốn/sản lượng
( mức tăng năng suất vật chất của việc đầu tư vốn).Với một tỉ lệ vốn/ sản lượng nhất định, tốc độ
tăng sản lượng quốc dân và việc làm có thể tối đa hóa bằng cách tối đa hóa mức tiết kiệm và đầu
tư.
Vì là phát triển lí thuyết của Keynes lên lí thuyết này cũng mắc phải những hạn chế tương tự:
Mô hình không đề cập đến yếu tố khoa học công nghệ , yếu tố làm tăng năng suất lao
động từ đó đưa ra giả định sai lầm là năng suất lao động không đổi.
Bên cạnh đó việc tăng sản lượng quốc dân qua việc tăng tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư có thể
làm giảm tiêu dùng của một quốc gia, đi ngược lại với mục tiêu của tăng trưởng kinh tế là
tăng chất lượng cuộc sống của con người


Tăng trưởng chỉ dựa vào vốn là tăng trưởng theo chiều rộng, không bền vững gây lên
những hậu quả cho thế hệ sau.

4) Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp khuyến khích giá , tạo việc làm
Quan điểm cơ bản của mô hình này cho rằng đếản xuất ra mức sản lượng mog muốn, các nhà sản
xuất phải đứng trước hai sự lựa chọn:
Một là, có nhiều mức giá khác nhau để mua vốn, lao động, nguyên vật liệu…phải lựa chọn các
nhân tố sao cho mức chi phí thấp nhất.
Hai là, để tối ưu hóa lợi nhuận, các nhà sản xuất phải lựa chọn công nghệ phù hợp – công nghệ sử

dụng nhiều vốn hay công nghệ sử dụng nhiều lao động.
Do đó nếu giá vốn quá cao so với giá nhân công thì nhà sản xuất sẽ lựa chọn công nghệ sử dụng
nhiều lao động. Còn ngược lại, nếu giá công nhân tương đối cao thì nhà sản xuất sẽ lựa chọn
công nghệ sử dụng nhiều vốn.


Trong bối cảnh của các nước đang phát triển thường có nguồn lao động dồi dào, nhưng lại ít vốn
lên thiên về các nghành dùng nhiều lao động nhằm tận dụng tối đa nguồn nhân lực dồi dào đó.
Do đó, các chính sách nhằm điều cnh lại giá cả, thông qua việc hạ thấp giá nhân công sẽ góp
phần không chỉ tạo thêm nhiều việc làm hơn mà còn sử dụng tốt hơn các nguồn vốn khan hiếm
nhờ sử dụng công nghệ phù hợp,. Kết quả cho thấy đối với hầu hết các nước chậm phát triển và
đang phát triển, việc giảm mức lương xuống một cách tương đối hoặc giữ mức lương tối thiểu
trong khi để cho giá vốn tăng , sẽ làm tăng việc làm từ 5 đến 10%. Do đó, các chính sách nhằm
loại bỏ những cái nhìn sai lệch về vốn, giá nhân công thực sự đóng vai trò quan trọng trong các
chiến lược phát triển định hướng việc làm.
5) Lý thuyết dư thừa lao động của Lewis
Theo Lewis nền kinh tế ở các quốc gia kém phát triển hay thế giới thứ 3quan hệ kinh tế
cung cầu còn nhiều hạn chế vì vậy những lí thuyết kinh tế thị trường rất khó khăn khi áp dụng tại
các quốc gia này. Từ đó Lewis đã đưa ra một lí thuyết kinh tế dành riêng cho các quốc gia này,cụ
thể như sau:
Nền kinh tế của các quốc gia này tồn tại song song hai khu vực kinh tế song song đó là
khu vực kinh tế truyền thống và khu vực kinh tế hiện đại ( hay nhập hay khu vực TBCN tiên tiến)
Với khu vực kinh tế truyền thồng ông cho rằng đây là khu vực trì trệ tuyệt đối với đặc
trưng là năng suất lao động thấp đất đai ,không hề tăng lên nhưng dân số lại càng ngày càng tăng
dẫn đến dư thừa lao động.Vì thế lượng lao động dư thừa này sẽ tự động chuyển sang khu vực
kinh tế hiện đại


III. THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM
1 Tổng quan về Tạo việc làm ở Việt Nam:

Tính đến năm 2013, cả nước ta có 68.687 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó 53.246
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động. Số lao động có việc làm đạt 52.2
triệu người, chiếm 98% lực lượng lao động, số lao động thất nghiệp chiếm 2%. Tuy tỉ lệ số
lao động có việc làm cao, song tỉ lệ lao động thiếu việc làm, điều kiện lao động thấp và thu
nhập bấp bênh còn ở ngưỡng cao. Mặc dù, quá trình đô thị hóa diễn ra rộng khắp, ngay tại
khu vực nông thôn song tỉ lệ lao động có việc làm ở nông thôn vẫn cao hơn ở thành thị. Bên
cạnh đó, tỉ lệ lao động có việc làm của nam nữ cũng có sự chênh lệch đáng kể, tỉ lệ lao động
nữ có việc làm thấp hơn tỉ lệ lao động nam có việc làm trên tổng dân số là 2.8%.




So sánh theo năm

-Số lượng lao động có việc làm ở nước liên tục tăng qua các năm từ năm 2005 đến 3 quý đầu
năm 2014, mức tăng trung bình khoảng 1 triệu lao động trên một năm. Năm 2013, số lao động
có việc làm ở nước ta đạt 52.208 triệu người, tăng gần 10 triệu lao động so với năm 2005.
-Vào các năm 2008, 2009, 2010, nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng không nhỏ bởi khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, song số lao động có việc làm vẫn ở mức cao, không những không
giảm, mà còn có chiều hướng tăng mạnh.
Một số nguyên nhân có thể kể đến để đem lại các kết quả trên:
+ Các chính sách về lao động và việc làm của Nhà nước ta ngày càng được nâng cao
và cải thiện về tính ứng dụng, thực tiễn, góp phần tăng hiệu quả không nhỏ trong việc tìm
kiếm và tạo việc làm cho người lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động
+Dân số nước ta cao, lại đang trong thời kì dân số vàng nên lực lượng lao động luôn
ở mức cao, và tăng qua các năm, dẫn đến nhu cầu tìm kiếm việc làm không ngừng tăng.
+Thị trường lao động phi chính thức( thất nghiệp trá hình) còn phổ biến ở cả thành
thị và nông thôn là một trong những lí do khiến số lao động có việc làm ở nước ta lại ở mức
cao, số thất nghiệp rất thấp



So sánh theo quý:

Số lao động có việc làm năm 2013
Quý 1

Quý 2

Quý 3

Quý 4


51.910

52.402

52.737

52.793

Xu hướng tăng số lao động có việc làm không chỉ được thể hiện qua bảng so sánh qua các
năm, mà còn thể hiện ở các quý trong cùng một năm. Càng về các quý sau, số lao động có
việc làm càng tăng. Nguyên nhân có thể do, đây là thời điểm nhiều học sinh, sinh viên tốt
nghiệp ra trường và bắt đầu tìm kiếm việc làm, đồng thời, vào thời điểm càng sát cuối
năm, cầu và cung lao động đều tăng đột biến để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, sắm sửa vào
dịp lễ tết.


2. Cơ cấu lao động có việc làm


2.1: Cơ cấu lao động có việc làm theo nhóm ngành kinh tế.
2.1.1 Xét trong cả nước
Đơn vị : %
Công nghiệp và xây
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

Nông, lâm, thủy sản
62.2
60.3
58.6
57.2
56.1
55.1
54.3
52.9

52.3
51.5
49.5
48.4
47.4
46.8

dựng
13.0
14.5
15.4
16.8
17.4
17.6
18.2
18.9
19.3
20.0
21.0
21.3
21.2
21.2

Dịch vụ
24.8
25.2
26.0
26.0
26.5
27.3

27.6
28.1
28.4
28.4
29.5
30.3
31.4
32.0

-Trong giai đoạn 2000-2013, tỉ lệ lao động có việc làm trong khu vực nông lâm thủy sản
giảm đều qua các năm, tỉ lệ lao động có việc làm trong khu vực công nghiệp, dịch vụ liên
tục tăng, tuy nhiên, các mức độ tăng giảm này còn khá chậm. Cụ thể, sau 13 năm, lao động
có việc làm trong khu vực nông lâm thủy sản giảm 15.4 điểm phần trăm, công nghiệp và
xây dựng tăng 8.2% và dịch vụ tăng 7.2%. Điều này cho thấy, tuy tỉ lệ tăng giảm theo đúng
chiều hướng tích cực, song mức tăng giảm còn thấp, và chưa tương xứng với chuyển dịch
cơ cấu khu vực kinh tế.
-Trong 3 khu vực kinh tế trên, tỉ lệ lao động có việc làm trong khu vực nông lâm thủy sản
vẫn rất cao, trung bình cả giai đoạn 2000-2013 trên 50%. Xếp thứ 2 là khu vực dịch vụ và
thấp nhất là khu vực công nghiệp, xây dựng.
Có thể nhận thất rằng, mặc dù quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra ngày một nhanh,
nhiều khu đô thị, thành phố lớn, nhưng nước ta vẫn là một quốc gia nặng nề về nông
nghiệp, nông thôn, do đó, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng nhất và lao động ở


ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng việc làm lớn nhất. So với nhiều năm trước, lao động
có việc làm trong khu vực nông lâm thủy sản có xu hướng giảm, tuy nhiên, tình chất nông
thôn và sự phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp phản ánh thị trường lao động và việc làm ở
nước ta vẫn đứng trước nguy cơ thiếu việc làm bền vững.

-


Nhóm ngành Nông lâm ngư nghiệp mặc dù chiếm tỉ trọng lao động cao nhất, song lại
có mức đóng góp và GDP thấp nhất. Bởi vì, nhóm ngành này tạo ra giá trị gia tăng
thấp, đồng thời, năng suất lao động thuộc nhóm ngành này cũng rất thấp( chủ yếu là
lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo, công cụ- thiết bị lạc hậu, cơ sở hạ tầng phục vụ
cho nông nghiệp còn nhiều yếu kém, sản xuất phân tán nhỏ lẻ nên không phát huy được

-

lợi thế kinh tế theo quy mô
Nhóm ngành dịch vụ có tỉ trọng số lao động cao hơn 10% so với nhóm công nghiệpdịch vụ và được đề cao là ngành mũi nhọn, song đóng góp của dịch vụ vào GDP chưa
thật đột phá. Cụ thể, qua bảng cơ cấu GDP trong 3 năm trên, dịch vụ có mức đóng góp
cao hơn công nghiệp- xây dựng khoảng 4-5%. Nguyên nhân: mặc dù, cơ cấu nhóm
ngành dịch vụ rất phong phú với 12 ngành( bao gồm 155 tiểu ngành) nhưng nước ta
mới chỉ tập trung ở việc khai thác những dịch vụ thông thường như bán lẻ, vận tải
đường bộ, sửa chữa…Đây là những dịch vụ cần sử dụng nhiều lao động, hàm lượng
chất xám ít dẫn đến năng suất lao động của nhóm ngành dịch vụ chưa cao, chỉ gấp
nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp gần 3,5 lần( trong khi đó nhóm ngành công
nghiệp- xây dựng gấp trên 4,6 lần)

2.1.2 Xét theo từng vùng kinh tế


Cơ cấu lao động đang làm việc của khu vực và vùng kinh tế năm 2013
-Cơ cấu lao động của Tp Hồ Chí Minh phát triển nhất cả nước: tỉ trọng ngành dịch vụ
cao nhất cả nước chiếm 64,4%, công nghiệp chiếm 33,0%, nông nghiệp chiếm tỉ trọng
rất thấp chỉ 2,6%. Tỉ trọng cơ cấu ngành ở Tp Hồ Chí Minh nhìn chung tương xứng với
trình độ phát triển của khu vực này, khu vực kinh tế năng động và phát triển nhất cả
nước
-Cơ cấu lao động trong ngành nông, lâm, thủy sản ở 3 khu vực Tây Nguyên, Trung du

và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung cao nhất cả nước lần
lượt 71,7%;69,4%;54,5%. Tỉ lệ này thể hiện cơ cấu phát triển của các khu vực này còn
thấp, chậm, lao động vẫn chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nhìn chung, cơ cấu lao động có việc làm phân theo khu vực kinh tế ở nước ta có sự
chênh lệch rõ rệt giữa các vùng, cơ cấu lao động chưa phát triển. Tuy nhiên, việc phân
cơ cấu ngành theo khu vực kinh tế này giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về trình độ
lao động của các vùng trên cả nước.
2.2. Cơ cấu lao động có việc làm phân theo khu vực

Lực lượng lao động có việc làm tập trung chủ yếu ở 3 khu vực chính Đồng bằng sông
Hồng, Bắc Trung Bộ và DH miền Trung, Đồng Bằng sông Cửu Long. Đây là 3 khu vực có
điều kiện tự nhiên thích hợp cho phát triển nông nghiệp và ngư nghiệp( ĐB sông Hồng


và ĐB sông Cửu Long là 2 vựa lúa lớn nhất cả nước, Bắc Trung Bộ và DH miền Trung
với vị trí giáp biển rất thích hợp cho nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản)
2.3. Cơ cấu lao động có việc làm theo nghề nghiệp
Năm 2013

-Năm 2013, cả nước ta có 21,326 triệu lao động giản đơn chiếm 40,8% tổng số lao động có
việc làm. Các nhóm nghề cơ bản khác bao gồm: “ Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng”
chiếm 16,2%, “LĐ có kĩ thuật trong nông, lâm và ngư nghiệp và thợ thủ công và các thợ
khác” có liên quan chiếm 12,0%. Lao động có CMKT bậc trung và bậc cao chiếm tỉ lệ khá
khiêm tốn lần lượt là 3,3% và 5,7%. Như vậy, cơ cấu lao động phân theo nghề nghiệp ở
nước ta chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là lao động cơ bản và lao động giản đơn, điều đó cho thấy
trình độ lao động ở nước ta còn ở mức thấp.
-Tỉ trọng lao động nam nữ phân theo nghề nghiệp cũng có sự chênh lệch. Tỉ trọng lao động
nữ cao hơn lao động nam trong các ngành: lao động giản đơn, dịch vụ cá nhân bảo vệ và
bán hàng, CMKT bậc cao và bậc trung; trong nhóm nghề lãnh đạo, nữ giới chỉ chiếm tỉ lệ
rất khiêm tốn 24,4%. Như vậy, rõ ràng, trình độ lao động của nữ giới có nhiều chênh lệch,

và nữ giới chưa thực sự có nhiều đóng góp trong các công việc đòi hỏi sự lãnh đạo
2.4. Cơ cấu lao động phân theo trình độ học vấn


-Tỉ trọng lao động chưa bao giờ đi học và chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm lần lượt 3,8% và
11,6%, con số này đã giảm so với năm 2012( lần lượt là 3,9% và 11,7%). Phần đông lao động
vừa tốt nghiệp THCS đã tham gia vào lực lượng lao động, chiếm gần 1/3 số lao động có việc
làm. Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa cao chiếm 17,9%. Như vậy, có thể nhận
thấy, lao động nước ta chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, trình độ tay nghề và chuyên môn kí
thuật còn thấp.
-Tỉ lệ lao động nam và nữ trong từng trình độ học vấn có nhiều chênh lệch, đặc biệt số lao
động chưa đi học và chưa tốt nghiệp tiểu học ở nữ chiếm tỉ trọng cao hơn rõ rệt, lần lượt là
62,3% và 54,8%. Ở trình độ học vấn càng cao, tỉ lệ lao động nữ càng tỏ ra “lép vế” so với nam.
Điều này thể hiện rằng, vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giới trong giáo dục phổ thông của
lực lượng lao động ở nước ta.
2.5. Cơ cấu lao động phân theo vị thế việc làm

-

Tỉ trọng lao động tự làm cao nhất, thấp nhất là xã viên hợp tác xã. Tỉ trọng lao động tự
làm có nhiều biến động qua các năm, năm 2009 chiếm 44,6%, năm 2011 giảm xuống
43,9%, năm 2013 lại tăng lên 45,5%. Tỉ trọng lao động là xã viên hợp tác xã rất thấp,
gần như bằng 0


-

Tỉ trọng lao động làm công ăn lương có xu hương tăng, mức tăng còn thấp. Năm 2013
tăng 1,4% so với năm 2009. Điều này cho thấy, thị trường lao động ở nước ta đang
chuyển dịch ngày càng tích cực, tuy nhiên cũng cần nhận ra một thực tế, trình độ lào

động ở nước ta vẫn thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực và nhiều nước trên thế

-

giới.
Trong nhóm lao động gia đình, lao động nữ vẫn giữ vai trò chủ đạo( chiếm 64,0%), con
số này không có nhiều biến động qua các năm, và không thấy được xu hướng giảm.
Như vậy, lao động nữ vẫn còn gắn chặt đối với lao động tại gia, là lao động chịu yếu
thế, ít tiếp xúc với kinh tế bên ngoài, công việc và thu nhập bấp bênh, và không được
hưởng bất kì một loại hình bảo hiểm xã hội nào.

2.6: Cơ cấu lao động phân theo loại hình kinh tế

Bảng trên phản ánh số lượng và cơ cấu lao động có việc làm theo loại hình kinh tế năm 2009,
2011, 2013.
-Loại hình kinh tế cá nhân/ Hộ SXKD cá thể còn chiếm tỉ lệ cao, cụ thể trong cả 3 năm 2009,
2011, 2013 loại hình này đều chiếm trung bình 78%. Điều đó cho thấy, lao động ở nước ta vẫn
tập trung nhiều trong loại hình kinh tế phân tán, nhỏ lẻ, manh mún; điều kiện lao động trong
loại hình này còn thấp và không có bất kì một loại hình bảo hiểm, quy chuẩn an toàn lao động
nào cho người lao động thuộc khu vực này.
-Loại hình kinh tế Nhà nước ở nước ta chiếm tỉ lệ cao hơn so với loại hình kinh tế tư nhân mặc
dù loại hình kinh tế tư nhân tạo mức đóng góp GDP cao hơn loại hình kinh tế Nhà nước. Như
vậy, loại hình kinh tế Nhà nước, nhận định chung có tình trạng lãng phí trong việc sử dụng lao
động. Tuy nhiên, về quy mô của loại hình kinh tế nhà nước vẫn liên tục tăng, năm 2009 gần 4,8
triệu người, năm 2013 hơn 5,3 triệu người, tăng hơn nửa triệu lao động. Nguyên nhân chính


do chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã góp phần mở rộng, tăng quy mô
doanh nghiệp, đây là một trong những “ nước cờ” để cứu cánh doanh nghiệp Nhà nước, góp
phần tăng năng lực sản xuất kinh doanh của loại hình kinh tế này. Nguyên nhân tiếp theo có

thể kể đến: các doanh nghiệp Nhà nước được chú trọng đầu tư, và có nhiều ưu tiên hơn các
loại hình kinh tế khác.
- Loại hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong những năm qua, đã tạo công ăn việc làm
cho trên 1,7 triệu lao động, góp phần không nhỏ trong việc tạo công ăn việc làm ở nước ta.
Qua 3 năm trên bảng phân tích trên, cho thấy, tỉ trọng lao động đang làm việc trong khu vực
tư nhân có xu hướng tăng nhưng tỉ lệ tăng chưa cao
- Loại hình kinh tế tập thể có số lao động liên tục giảm về quy mô và tỉ trọng qua các năm, năm
2013 chỉ còn 0,2% tỉ trọng. Đây là loại hình kinh tế chủ đạo trước thời kì đổi mới, có những
đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Xét về tỉ trọng sử dụng lao động theo giới tính của các loại hình kinh tế:

Nhận thấy, trong số 5 loại hình kinh tế trên, chỉ có khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có
tỉ lệ lao động nữ cao hơn nam, lao động nữ chủ yếu làm việc trong ngành công nghiệp chế biến
như dệt may, làm các công đoạn đơn giản trong dây chuyền sản xuất …
2.7. Cơ cấu lao động có việc làm đã qua đào tạo:
Đơn vị tính: %


Biểu đồ Thể hiện phân bố số người có việc đã qua đào tạo làm theo giới tính và vùng năm
2013
-Năm 2013, cả nước có hơn 9,3 triệu lao động, tương ứng với 17,9% đã được đào tạo. Tỉ lệ
này thấp cao hơn năm 2012 là 16,6%, năm 2011 là 15,4%. Như vậy, lao động ở nước ta đã
ngày càng được được chú trọng về chất lượng, song con số này vẫn còn khá khiêm tốn với các
quốc gia phát triển hơn. Có sự chênh lệch rõ rệt về tỉ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo
giữa thành thị và nông thôn, mức chênh lệch này mà 22,5%, trong đó thành thị là 33,7% và
nông thôn là 11,2%. Mức chênh lệch này có chiều hướng cao hơn so với năm 2011( thành thị:
30,9%; nông thôn: 9,0%) và năm 2012( thành thị: 31,7%; nông thôn:10,1%). Điều đó, chứng
tỏ, có sự chênh lệch về trình độ lao động giữa thành thị, nông thôn, cũng như chỉ ra mặt hạn
chế trong việc đào tạo lao động ở nông thôn.
- Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai vùng có tỉ lệ qua đào tạo cao nhất cả nước, Tây

Nguyên và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Điều này cũng phản ánh đúng trình độ lao
động thực tế của các khu vực trên, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên là hai
trong số nhiều vùng của nước ta vẫn gắn chặt với cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp, lao động
trong khu vực này tập trung chủ yếu sản xuất nông nghiệp, ít điều kiện được đào tạo và nâng
cao kĩ năng nghề nghiệp.
-Tỉ lệ lao động nam cao hơn nữ. Năm 2013, tỉ lệ nam là 20,3%, nữ: 15,4%, có sự chênh lệch
trong các loại hình đào tạo.


- Tỉ lệ lao động trong các loại hình đạo tạo còn chưa cân xứng, tỉ lệ lao động từ đại học trở lên
cao hơn so với các loại hình khác, chiếm hơn 1/3 số lao động đã qua đào tạo, điều đó phản ánh
tình trạng “ thừa thầy thiếu thợ” ở nước ta.
Tóm lại, lao động qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp, cho thấy chất lượng lao đông Việt Nam
còn chưa cao, và không đồng đều giữa thành thị, nông thôn, giữa các vùng miền, thiếu sự cân
bằng trong giới tính.
2.7. Việc làm thanh niên
Xét xét độ tuổi thanh niên: từ 15-24 tuổi
Năm 2013, có khoảng 7,4 triệu thanh niên đang làm việc, chiếm 14,2% lực lượng lao
động có việc làm. Hơn ¾ số thanh niên làm việc ở khu vực nông thôn, trong đó tập trung khá
lớn ở Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và DH miền Trung, Đồng bằng sông Cửu
Long. Khi xét theo vị thế việc làm, thanh niên là lao động gia đình chiếm chủ yếu (34,1%), rất ít
thanh niên làm chủ cơ sở hay tự làm. ( nguồn: Tổng cục Thống kê ). Điều này cho thấy trình độ
lao động trẻ ở nước ta còn chưa cao, đây là lực lượng đã, đang và sẽ làm chủ đất nước song
chưa được chú trọng nhiều về chất lượng.
Theo cuộc điều tra phối hợp của Tổng cục Thống kê và Tổ chức lao động quốc tế ILO,
thanh niên Việt Nam mất trung bình 6 năm để tìm kiếm công việc ổn định hoặc làm hài lòng.
Mặc dù, cuộc điều tra chỉ tập trung vào các đối tượng học sinh, sinh viên đang trong quá trình
chuyển tiếp từ trường học tới việc làm, song con số này cũng phản ánh một phần không nhỏ
trong việc chậm và thiếu định hướng nghề nghiệp, việc làm tương lai cũng như sự trang bị
kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc còn nhiều hạn chế


2.8. Hệ số co giãn việc làm
Năm
2006
2007
2008
tố độ 8.17
8.5
6.23
tăng

2009
5.32

2010
6.7

2011
5.89

2012
5.03

2013
5.42


×