Phần thứ nhất: GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lời nói đầu
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền hành chính nhà nước Việt
Nam, chính quyền cấp cơ sở luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Chính quyền cơ sở là nền tảng của toàn bộ hệ thống chính quyền, là
cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của hoạt động quản lý
nhà nước trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm bảo cho chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, chính
quyền cơ sở không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hiệu lực và hiệu
quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở có đủ trình độ để đảm nhận
công việc được giao. Cũng như nhân tố con người trong mọi tổ chức khác, đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở chính là hạt nhân, là nhân tố quyết định đến chất
lượng hoạt động của chính quyền cơ sở nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống chính
trị cơ sở nói chung. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cơ sở luôn
là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm.
2. Tên đề tài
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô,
tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay
3. Chủ nhiệm đề tài và các thành viên nghiên cứu
Chủ nhiệm đề tài: Ths. Lê Bá Lộc – Trưởng khoa lý luận cơ sở
ĐT: 0984.724.123. Gmail.
Các thành viên nhiên cứu: Ths. Nguyễn Văn Tranh; Ths. Trần Viết Dương; CN.
Phạm Ngọc Yến; CN. Thái Thị Bích Hồng; CN. Nguyễn Thị Ninh
Địa chỉ: Khoa lý luận cơ sở, Trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc, Số 3 đường Hai Bà
Trưng , phường Khai Quang thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc.
1
4. Cơ quan thực hiện đề tài
Khoa lý luận cơ sở Trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
5. Cơ quan quản lý đề tài
Trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
6. Cơ quan phối hợp thực hiện đề tài
Huyện ủy, UBND huyện Sông Lô và Đảng ủy, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Sông Lô
7. Thời gian thực hiện
12 thàng (từ thàng 01 năm 2013 đến tháng 12 năm 2013)
8. Kinh phí thực hiện
15.000.000đ (Mười năm triệu đồng chẵn).Nguồn từ kinh phí nghiên cứu khoa học
của Trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.
9. Lý do chọn đề tài
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thể hiện trực tiếp và
cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thị trấn, nhất là đội ngũ
cán bộ chuyên trách có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có ý
nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của cơ sở xã, phường, thị trấn, Hội nghị lần
thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, đã ra Nghị quyết số 17-NQ/TW,
ngày 18-3-2002, về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị
cơ sở xã, phường, thị trấn”. Ban Bí thư (khóa IX) đã ban hành các Quy định số 94,
95-QĐ/TW, ngày 3-3-2004, về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã,
phường, thị trấn. Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, ngày
10-10-2003, số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21-10-2003, về cán bộ và chế độ, chính
sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày
2
22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ,chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thị
trấn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ
thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong
sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập theo Nghị định 09/NĐ-CP
ngày 23/12/2008 của Chính phủ trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính huyện
Lập Thạch, chính thức đi vào hoạt động từ 1/4/2009. Sông Lô là huyện miền núi
của tỉnh Vĩnh Phúc có 15.031,77ha diện tích đất tự nhiên và 93.980 nhân khẩu, có
17 đơn vị hành chính cấp cơ sở. Là huyện miền núi cơ sở hạ tầng còn nhiều khó
khăn về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công việc; đội ngũ cán bộ,
công chức mỏng, biên chế còn thiếu, một số cán bộ trẻ kinh nghiệm trong công
việc chưa nhiều đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô đáp ứng yêu
cấp phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới là yêu cầu, nhiệm vụ mang tính
cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Do đó, để góp phầm vào việc nâng cao, củng cố
hệ thống chính trị cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc nói chung, nâng cao củng cố hệ
thống chính trị cấp cơ sở huyện Sông Lô nói diêng tác giả chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khoa học. Việc nghiên cứu đề sẽ góp phần
hoàn thiện và bổ xung lý luận về đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở; đánh giá
thực trạng về đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc.
Từ đó, các giảng viên trong nhà trường tham mưu, đề xuất với Đảng uỷ, Lãnh đạo
nhà trường các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô nói riêng, tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
10. Tình hình nghiên cứu về đề tài
3
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở, Đảng, Nhà
nước ta đã có nhiều Nghị quyết, văn bản pháp quy và nhiều nhà khoa học đã có
công trình nghiên cứu tiếp cận dưới những góc độ khác nhau.
- Trên phương diện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật,
chính sách của Nhà nước, trong 10 năm qua đã có các văn bản sau:
Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18-3-2002, về đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, ngày 10-10-2003, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP,
ngày 21-10-2003, về cán bộ, công chức và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn.
Qui định của TW Đảng 94, 95-QĐ/TW, ngày 3-3-2004, về chức năng, nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn.
Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch
HĐND, UBND xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số
chế độ,chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Các văn bản Nghị quyết và quy định của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Vĩnh Phúc.
Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 25/04/1998 của tỉnh Vĩnh Phúc về công tác cán bộ
đến năm 2010.
Kế hoạch số 04-KH/TU ngày 05/ 05/ 1998 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở đến năm 2010 BCH Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc.
Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 25/02/2008 của Tỉnh uỷ Vĩnh phúc về Phát triển
nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH tỉnh Vĩnh Phúc.
Nghị quyết số 16/2008/ NQ - HĐND ngày 25/10/2008 của HĐND tỉnh Vĩnh phúc
về chế độ, thu hút, tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH tỉnh
Vĩnh Phúc.
4
UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Công văn đôn đốc số 3379/UBND-NV1 ngày
29 tháng 07 năm 2008 về chuẩn hoá CB, CC cấp xã.
Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở, Đảng, Nhà nước ta đã có
nhiều Nghị quyết, văn bản pháp quy và nhiều nhà khoa học đã có công trình
nghiên cứu tiếp cận dưới những góc độ khác nhau
- Trên phương diện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước, trong 10 năm qua đã có các văn bản sau:
Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18-3-2002, về “Đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”.
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, ngày 10-10-2003, Nghị định số 121/2003/NĐCP, ngày 21-10-2003, về cán bộ, công chức và chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
Nghị quyết số 42 – NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ chính trị về công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH , HĐH đất nước.
Quyết định số 31/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng Chủ tịch
HĐND, UBND xã, phường, thị trấn.
Nghị định số 92/2009/NĐ – CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số
chế độ,chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Các văn bản Nghị quyết và quy định của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Vĩnh Phúc
Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 25/04/1998 của tỉnh Vĩnh Phúc về công tác cán bộ
đến năm 2010.
Kế hoạch số 04 - KH/TU ngày 05/ 05/ 1998 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở đến năm 2010 BCH Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc.
5
Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 25/02/2008 của Tỉnh uỷ Vĩnh phúc về Phát triển
nguồn nhân lực phục vụ CNH , HĐH tỉnh Vĩnh Phúc.
Nghị quyết số 16/2008/ NQ - HĐND ngày 25/10/2008 của HĐND tỉnh Vĩnh phúc
về chế độ, thu hút, tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH tỉnh
Vĩnh Phúc
UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã ban hành Công văn đôn đốc số 3379/UBND-NV1 ngày
29 tháng 07 năm 2008 về chuẩn hoá CBCC cấp xã.
- Trên phương diện nghiên cứu khoa học, có thể kế đến các công trình nghiên cứu
phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của một số tác giả.
Phát triển nguồn nhân lực – kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở nước ta, của tác giả
Trần Văn Tùng và Lê Ái Lân, năm 1996
Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực Kinh nghiệm thế giới, của Tác
giả Trần Văn Tùng, năm 2005
Trần Văn Tuấn, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ “ Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy Nhà
nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong tình hình hiện nay ” Tạp chí
Cộng sản Số 22 (166) năm 2008
Giáo trình quản trị nguồn nhân lực của tác giả Phan Bá Thịnh, năm 2008
Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của tỉnh Vĩnh Phúc
11. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông
Lô, tỉnh Vĩnh Phúc
- Tham mưu với Đảng ủy, Lãnh đạo nhà trường các giải pháp về đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô
nói riêng tỉnh Vĩnh Phúc nói chung
- Nghiên cứu, đề xuất có căn cứ lý luận và thực tiễn về phương hướng, giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô nói riêng,
6
tỉnh Vĩnh Phúc nói chung đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
huyện trong thời kỳ mới.
12. Đối tượng, nội dung và phạm vị nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở của huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ mới.
- Chủ trương, cơ chế, phát luật, chính sách giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở của Đảng, Nhà nước và của huyện Sông Lô, và tỉnh Vĩnh Phúc
* Nội dung nghiên cứu của đề tài
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là vấn đề rộng,
phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Do sự hạn chế về điều kiện,
thời gian nên nội dung nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào công tác quy
hoạch, thực hiện kế hoạch và công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở của huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc và nhưng vấn đề liên quan.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc
- Về thời gian: Từ 2002 đến nay và phương hướng đến năm 2020
13. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh;
chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cấp cơ sở. Những chủ trương và quy định
của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Sông Lô về phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
* Phương pháp nghiên cứu
Để có kết quả nghiên cứu chính xác, tin cậy, khách quan và khoa học. Trong
quá trình nghiên cứu đề tài chủ nhiệm đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
7
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh, phân
tích, tổng hợp, gắn với khảo sát thực tiễn một số điểm trên địa bàn huyện Sông Lô.
14. Tiến độ thực hiện đề tài
Từ 01/01/2013 đến 30/01/2013 xây dựng thuyết minh đề tài
Từ 01/3/2013 đến 30/3/3013 hoàn thành đề cương chi tiết đề tài
Từ 01/4/2014 – 31/8/2014 xây dựng dự thảo đề tài
Từ 01/9/2013 đến 30/10/2013 tổ chức hội thảo lần thứ nhất đề tài
Từ 01/11/2013 đến 31/12/2013 bảo vệ nghiệm thu đề tài
15. Những đóng góp về khoa học của đề tài
Đề tài nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông
Lô, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay hoàn thành là tài liệu để các giảng viên
nắm bắt được thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở huyện Sông Lô nói riêng
và tỉnh Vĩnh Phúc nói chung. Từ đó, tham mưu cho Đảng uỷ, Lãnh đạo nhà trường các
giải pháp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công, chức cấp cơ sở
của huyện Sông Lô nói riêng, tỉnh Vĩnh Phúc nói chung.
Đề tài hoàn thành là tài liệu để các cơ quan, ban ngành của huyện Sông Lô
nghiên cứu triển khai các cơ chế, chính sách, giải pháp để nâng cao đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở của huyện.
16. Sản phẩm giao nộp
Tập tài liệu đánh giá nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay
8
Phần thứ hai: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ
SỞ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ
1.1.1. Khái niệm về đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở.
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp cơ sở
Văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay đã sử dụng đồng thời cả ba
thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức; tại Điều 8 của Hiến Pháp năm 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001) không sử dụng thuật ngữ công chức, mà sử dụng thuật
ngữ cán bộ, viên chức “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn
trọng nhân dân, tân tụy phục vụ nhân dân”. Theo quy định của Hiến pháp, những
người phục vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ và viên chức. Cán bộ
là những người được bầu để đảm nhiệm các chức vụ theo nhiệm kỳ trong bộ máy nhà
nước, còn viên chức gồm những người được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy, điều hành
những người phục vụ Nhà nước bằng một chuyên môn nhất định (hoạt động của họ
có tính nghề nghiệp); những đối tượng mà quan hệ công vụ của họ được hình thành
trên cơ sở hợp đồng hành chính (hợp đồng lao động) trong các cơ quan, tổ chức nhà
nước; những đối tượng thuộc bộ phận lãnh đạo trong các tổ chức nhà nước, tổ chức
kinh tế và đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Để cụ thể hoá và thực thi Hiến pháp, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, theo đó khái niệm cán bộ, công chức tại
Điều 1 của Pháp lệnh đã quy định chung như sau: Cán bộ, công chức là công dân
Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà
nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
9
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một
ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức
và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên
làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị
thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Để phân biệt được rõ cán bộ, công chức làm cơ sở cho việc quản lý cán bộ,
công chức hiệu quả, Chính phủ đã ban hành Luật công chức năm 2008 và Nghị định
số 24/2010/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức; Nghị định
số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã Nghị định này chỉ rõ: Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Chủ tịch Hội Nông dân; (áp dụng đối với
xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội
Nông dân); Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Công chức là thuật ngữ sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây
là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và
tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Ở nước ta khái niệm công chức được hình
thành và ngày càng phát triển sâu rộng cùng với sự phát triển của nền hành chính nhà
10
nước. Mở đầu quá trình đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 76/SL,
ngày 20-5-1950 về Quy chế công chức. Theo quy chế này, phạm vi công chức rất hẹp,
chỉ gồm những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các hệ
thống cơ quan Chính phủ - nay là đội ngũ công chức hành chính nhà nước.
Từ khi có Pháp lệnh CB, CC năm 1998 đến nay, quan niệm về công chức nhà
nước ở nước ta có những thay đổi nhất định. Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức
1998, Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17- 11- 1998 của Chính phủ về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý công chức, theo Điều 1 của Nghị định này, công chức bao gồm
những đối tượng được quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 1 của Pháp lệnh, Nghị định
đã chỉ rõ: Công chức nhà nước là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên... được phân theo trình độ đào tạo, ngành
chuyên môn; được xếp vào ngạch hành chính, sự nghiệp; trong biên chế và hưởng
lương tư ngân sách nhà nước.
Để làm rõ hơn nội hàm khái niệm công chức, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một
số điều của Pháp lệnh CB, CC năm 2003 tại khoản 1 Điều 1 đã đưa ra quan niệm mới
về CB, CC.Trong đó, mở rộng phạm vi điều chỉnh thêm các đối tượng (mục g, h) gồm
những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (cán bộ chuyên trách
cấp xã) và những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã (công chức cấp xã) và có sự phân biệt rõ đối tượng
công chức ngạch hành chính và ngach sự nghiệp. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 -10-2003 của Chính phủ về CB, CC, xã;
Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 về tuyển dụng, sử dụng quản lý CB,
CC trong các cơ quan nhà nước; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22-10-2009 về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với CB, CC ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Luật công chức năm
2010 và Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ
quy định những người là công chức. Theo đó, Công chức là công dân Việt Nam,
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là
11
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp
luật. Công chức cẫp xã bao gồm các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ
huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi
trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Xã, phường, thị trấn là những đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi thể hiện trực
tiếp và cụ thể các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà
nước đối với nhân dân. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng đội ngũ CB, CC ở xã, phường,
thị trấn, nhất là đội ngũ CB, CC chủ chốt có đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo, quản lý,
tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát triển đất nước nói chung, kinh tế - xã hội
của các địa phương nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan
trọng cả trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc đổi mới vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng
XHCN. Xuất phát từ vị trí quan trọng của cơ sở xã, phường, thị trấn, Hội nghị lần thứ
5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, đã ra Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày
18-3-2002, về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ
sở xã, phường, thị trấn”. Sau khi Nghị quyết ra đời, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành
nhiều Nghị quyết và văn bản pháp quy về chức danh, số lượng, chế độ, chính sách đối
với CB, CC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp cơ sở. Theo đó đội ngũ CB, CC cấp cơ sở bao gồm CB, CC chuyên trách và cán
bộ không chuyên trách. Luận văn này tập trung bàn chủ yếu về đội ngũ CB, CC
chuyên trách. Do đó, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở là những CB, CC phải dành phần lớn
12
thời gian lao động làm việc công để thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao trên
địa bàn phường, xã, thị trấn, bao gồm những cán bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng,
HĐND, UBND, những người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội cấp cơ sở và những công chức chuyên môn về công tác văn phòng,
thống kê - địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hoá - xã hội.
Đội ngũ CB, CC chuyên trách cấp cơ sở được hình thành qua bầu cử và lựa
chọn theo quy định. Đội ngũ này có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ
bản như CB, CC nhà nước; khi không còn là CB, CC chuyên trách mà chưa đủ điều
kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ
cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. CB, CC cấp cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển
vào ngạch công chức cấp trên.
Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một
phần thời gian lao động. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, UBND cấp tỉnh quy
định khung về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở (kể cả trưởng thôn).
1.1.1.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Hệ thống chính trị cấp cơ sở có vị trí hết sức quan trọng, nhất là bộ máy
công quyền. Đây là cấp có quan hệ trực tiếp, gắn bó mật thiết với người dân, là mắt
xích, cầu nối đầu tiên và cuối cùng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Để chủ
trưởng, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước phản ánh được ý
chí, nguyên vọng của nhân dân và đến với nhân dân một cách sâu rộng, tạo thành
hành động tích cực, tự giác của đại đa số nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ quốc phòng, cần phải
nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở và quan tâm chăm lo
xây dựng, phát triển đội ngũ này, đủ về số lượng, cao về chất lượng nhất là về
phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực lãnh đạo, quản lý, tập hợp, quy tụ được nhân
dân đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ phát triến kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh,
quốc phòng trên từng địa bàn cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay. Tiếp tục làm rõ
khái niệm phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở chúng ta cần tiếp cận từ góc độ
13
phát triển nguồn nhân lực. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực ngày càng được
hoàn thiện và tiếp cận theo những góc độ khác nhau như sau:
Tiếp cận dưới góc độ con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển chứ
không phải là một nhân tố của sản xuất thì phát triển con người không phải chỉ là tạo
ra sự gia tăng về thu nhập và của cải vật chất; (mặc dù đó là tiêu chí cơ bản và rất
quan trọng) mà phải là mở rộng các khả năng của con người, tạo cho con người có cơ
hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi hơn,
có việc làm phù hợp mang nhiều ý nghĩa hơn... Phát triển con người cần được hiểu là
tăng cường năng lực, trước hết là nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, làm việc
của họ. Tạo cho họ có năng lực, điều kiện cần thiết để biến các cơ hội đã được tạo ra
thành hiện thực, đồng thời tạo ra những cơ hội mới để phát triển.
Tiếp cận theo quan điểm coi con người là trung tâm của phát triển kinh tế - xã
hội thì phát triển nguồn nhân lực cần tiếp cận con người là vốn nhân lực và “phát triển
nguồn nhân lực là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất
lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự
phát triển của mỗi cá nhân”. Như vậy, để phát triển nguồn nhân lực phải có những
chính sách và hoạt động tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực,
biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái
độ và nhân cách nghề nghiệp đáp ứng những nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân
và sự phát triển của xã hội.
Từ các cách tiếp cận đó mới có thể hiểu một cách đúng đắn, phù hợp về phát
triển nguồn nhân lực là quá trình tác động tổng hợp, hệ thống, đồng bộ và toàn diện
nhiều nhân tố, tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực và
nâng cao hiệu quả sử dụng chúng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển
bền vững về kinh tế - xã hội và môi trường của đất nước. Nói cách khác phát triển
nguồn nhân lực là quy trình tác động có chủ đích của tổng thể các hình thức, phương
pháp, chính sách, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao kỹ năng lao động của
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và môi trường của đất
nước trong thời kỳ phát triển mới.
14
Trên cơ sở tiếp cận nguồn nhân lực gắn với phát triển đội ngũ CB, CC tác giả
đi sâu nghiên cứu hình thành khái niệm và những tiêu chí cơ bản của phát triển đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở như sau: Phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở là hoạch định
và thực hiện hệ thống đồng bộ các giải pháp quy hoạch, tuyển dụng, quản lý, đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ CB, CC cấp cơ sở và bố trí sử dụng, đãi
ngộ, đánh giá đối với đội ngũ này.
Phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở với khái niệm trên được xem xét thông
qua các tiêu chí ở sự gia tăng về số lượng, chất lượng và những yếu tố tâm lý. Chất
lượng của đội ngũ CB, CC phụ thuộc vào phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn
và kinh nghiệm nghề nghiệp của từng CB, CC trong đội ngũ. Phát triển năng lực đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở là yếu tố quan trọng hàng đầu của việc nâng cao chất lượng đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở. Phát triển năng lực đội ngũ CB, CC cấp cở sở phải đồng thời
đáp ứng những thay đổi theo hướng hiện đại nền công vụ và đòi hỏi sự phát triển nội
tại của đội ngũ CB, CC trong nền công vụ nhằm tăng thêm sinh lực, khả năng và thái
độ tích cực của mỗi CB, CC cấp cơ sở trong thực thi công vụ.
1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở hiện nay
1.1.2.1. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp
gắn bó với nhân dân trong hệ thống cán bộ, công chức của nước ta
Hệ thống chính trị ở nước ta là thể chế và bộ máy để nhân dân lao động thực
hiện quyền làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự quản lý,
điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân
được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân. Hệ thống chính trị nước ta gồm 4 cấp hợp thành: Trung ương, cấp tỉnh, cấp
15
huyện, cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn bó với nhân dân
trong hệ thống chính trị nước ta. Hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm các tổ chức
Đảng, chính quyền, các đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội hoạt động trên địa bàn
xã, phường, thị trấn. Vì vậy, phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở là phát triển đội ngũ
những người làm việc trong hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn, nghĩa là phải làm
gia tăng số lượng, chất lượng những CB, CC trực tiếp gắn bó mật thiết và có ảnh
hưởng nhất đối với nhân dân trong hệ thống CB, CC của nước ta.
1.1.2.2. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở hiện nay là đội ngũ cán bộ, công
chức chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, nên phải đẩy mạnh đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực cho họ
Cán bộ, công chức cấp cơ sở ở nước ta hầu hết sinh sống và hoạt động tại các
xã, phường, thị trấn, chính là nơi họ đã được sinh ra và trưởng thành; gắn bó lâu dài
với cộng đồng dân cư địa phương; có những am hiểu toàn diện, sâu sắc về truyền
thống, văn hoá, phong tục, tập quán của địa phương; là những người luôn đi sâu, đi
sát quần chúng nhân dân trên địa bàn; có lòng yêu quê hương, đất nước, có nhiệt tình
cách mạng, mong muốn cống hiến, đóng góp để xây dựng quê hương, đất nước giàu
mạnh, phồn vinh. Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở ở nước ta chủ yếu hình thành từ 3 nguồn
cơ bản là: Người trưởng thành từ những hoạt động trong các phong trào quần chúng
tại xã, phường, thị trấn; một số là cán bộ, quân nhân chuyển ngành về sinh sống tại
địa phương; một số là CB, CC nhà nước về hưu hoặc mất sức lao động về sinh sống
tại địa phương được quần chúng suy tôn, tín nhiệm. Đồng thời, do thực hiện cơ chế
bầu cử, nên hầu hết cán bộ cấp cơ sở ở nước ta thường được nhân dân, các tổ chức
quần chúng bầu, chọn vào các vị trí chuyên trách, bán chuyên trách trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở, rồi mới được đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ ở vị
trí được đảm nhận. Một số ít được tuyển dụng theo bằng cấp (Chủ yếu là trình độ
trung cấp chuyên môn) để đảm nhận các chức danh công chức cấp cơ sở. Vì vậy, trình
độ và năng lực của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, chưa được đào tạo
đã làm lãnh đạo, quản lý, nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó, trong phát triển đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở hiện nay cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, có hệ thống
nhằm nâng cao năng lực cho họ.
16
1.1.2.3. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là đội ngũ trực tiếp thu thập thông tin
và xử lý các vấn đề nảy sinh trong hoạt động kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội,
môi trường, an ninh, quốc phòng ở cơ sở
Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở, trong công tác cũng như trong sinh hoạt hàng ngày
luôn gắn bó trực tiếp với nhân dân, không chỉ trong mối quan hệ giữa chính quyền với
nhân dân mà còn là mối quan hệ gia đình, dòng tộc, xóm làng lâu đời với những
truyền thống tập quán tốt đẹp, cùng những tập tục lạc hậu, ràng buộc. Họ là những
người hàng ngày trực tiếp nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyên vọng của nhân dân
và quán triệt, vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng pháp luật, chính sách của Nhà
nước vào điều kiện cụ thể của địa phương. Đồng thời có khả năng giải quyết các vấn
đề dân sinh, dân chủ, dân quyền, dân trí ở địa phương một cách sát hợp với tình hình
thực tế, đảm bảo sự hài hoá, thấu tình đạt lý trong quan hệ dòng tộc, xóm làng và
cộng đồng địa phương. Theo xu thế phát triển của thời đại, sự đổi mới từng ngày ở cơ
sở trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đang đòi hỏi đội ngũ CB, CC
của hệ thống chính trị cấp cở sở phải có tư duy mới, có trình độ kiến thức mới về kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học - công nghệ lãnh đạo, quản lý và thấu hiểu
được mọi giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của địa phương, mới có thể đảm đương
được trọng trách và yêu cầu của nhiệm vụ được giao.
1.1.2.4. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là những người trực tiếp triển khai
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước
đến nhân dân và là cầu nối của nhân dân với Đảng, Nhà nước
Các xã, phường, thị trấn là nơi cư ngụ, sinh sống của ¾ dân số nước ta. Hệ
thống chính trị cấp cơ sở nói chung, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở nói riêng có vai trò rất
quan trọng trong việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của
Nhà nước vào cuộc sống. Vì xã, phường, thị trấn là địa bàn mà đội ngũ CB, CC của
hệ thống chính trị cấp cơ sở lãnh đạo, quản lý tổ chức, vận động nhân dân thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả
năng và nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức cuộc sống của công đồng
17
dân cư. Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá sự
lãnh đạo của Đảng và thực hiện chức năng tổ chức, quản lý của Nhà nước về mọi mặt
của đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở. Đội ngũ này là những người đem quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước tuyên truyền,
giác ngộ, giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu rõ và tổ chức, động viên họ thi
hành. Đồng thời đội ngũ CB, CC cấp cơ sở cũng là những người hơn ai hết kịp thời
nắm bắt tình hình, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời phản ánh cho
Đảng, Nhà nước để kịp thời bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện chủ trương, đường lối,
pháp luật, chính sách một cách, đúng đắn, khả thi. Vì vậy, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Với những ý nghĩa nêu trên Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khái quát “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”
HCM Toàn tập (NXB chính trị QG 2002, t5 trang 269)
1.1.2.5. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là những người có điều kiện thuận
lợi nhất trong việc nắm bắt, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở là hệ thống chính trị gắn liền với cộng đồng làng,
xã, thôn, bản và các tổ chức tư quản dân cư. Đội ngũ CB, CC cấp cơ sở phần lớn sinh
ra, lớn lên và trưởng thành từ các phong trào của địa phương. Họ làm việc chịu sự
giám sát trực tiếp của dân, chưa thoát ly khỏi sản xuất, có quan hệ họ hàng, xóm làng
sâu lắng. Do đó, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở dù trực tiếp hay gián tiếp đều có quan hệ
lợi ích với gia đình, họ tộc, xóm làng và trực tiếp sinh sống làm ăn trên mảnh vườn,
khổ ruộng ngay trên quê hương, bản làng của mình, không thoát ly hẳn sản xuất, hàng
ngày họ vừa tham gia sản xuất kinh doanh, vừa tham gia hoạt động công vụ. Trong
nhiều trường hợp nguồn thu chính của họ không phải từ lương hay phụ cấp từ ngân
sách mà chủ yếu là từ kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở
là những người gần gũi với nhân dân, đồng thời họ cũng là người dân nên họ hiểu
được nhu câu, lợi ích, nguyện vọng thái độ của nhân dân, từ đó họ có khả năng nắm
bắt và phản ảnh được những tâm tư nguyện vọng của nhân với Đảng và Nhà nước.
18
1.2.3. Vai trò của phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở đối với phát
triển kinh tế - xã hội.
Do đặc điểm của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở như trên, nên phát triển đội ngũ
CB, CC cấp cơ sở có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là:
1.2.3.1. Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là khâu cơ bản, bảo đảm có
đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các xã,
phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở có chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, tổ
chức, chỉ đạo thực hiện việc đưa chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước vào thực cuộc sống trên địa bàn các xã, phường, thị trấn nhằm đạt
được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và bảo vệ
môi trường đã hoạch định. Do đó, cần phải phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở đủ về
số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu mới nâng cao được hiệu lực, hiệu quả
hoạt động để có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Tuy vậy, thực
trạng hiện nay đội ngũ CB, CC cấp cơ sở ở nhiều nơi còn thiếu và yếu kém về nhiều
mặt, gây trở ngại lớn cho việc thực thi chức năng, nhiệm vụ, thậm chí làm suy giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế
ở nước ta hiện nay đội ngũ CB, CC cấp cơ sở càng có vai trò, vị trí quan trọng trong
việc góp phần xây dựng hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống pháp
luật chính sách của Nhà nước, đặc biệt là trong triển khai, tổ chức thực hiện đưa chủ
trương, đường lối của của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước vào cuộc sồng.
Đây là lực lượng nòng cốt trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện một khối
lượng công việc lớn, trên một địa bàn rộng, có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến
người dân. Nhất là những CB, CC cấp cơ sở với tư cách là người thực thi pháp luật,
nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ mang tình tự quản theo pháp luật và bảo toàn tính
thống nhất trong thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở. Mặt khác, chính họ cũng là
những người có khả năng đóng góp nhiều ý kiến và những đề xuất có giá trị với các
cơ quan nhà nước cấp trên để bổ xung, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu
19
cầu hướng tới Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Trong đó, đội ngũ CB,
CC chính quyền cấp xã trực tiếp gắn bó với dân, có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ
cương, phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền dân chủ, quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn chặn các hành vi vi phạm
pháp luật. Họ cũng là những người đóng vai trò tiên phong, đi đầu trong đấu tranh
chống các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền và các tiêu cực khác làm cho
bộ máy chính quyền cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
1.2.3.2. Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là khâu trọng yếu tác động
trực tiếp tới phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong phát triển kinh
tế - xã hội.
Xuất phát từ quản điểm của Bác Hồ và Đảng ta coi cán bộ là nhân tố quyết
định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc” “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Hội nghị
Trung ương 3 khoá VIII đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành công
của cách mạng... Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy cán bộ nói chung và cán bộ
cấp cơ sở nói riêng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi phong trào cách mạng
của nhân dân. Kinh tế - xã hội và các mặt khác của đời sống các xã, phường, thị trấn
phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ cán cấp cơ sở. Với vị
trí là “nền tảng cơ sơ”, vai trò của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở được thể hiện qua mối
quan hệ giữa CB, CC cấp cơ sở với vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở. CB, CC
cấp cơ sở là nhân tố trọng yếu hàng đầu và là nhân tố “động” nhất của hệ thống chính
trị cấp cơ sở. CB, CC cấp cơ sở chịu sự chi phối, ràng buộc bởi chức năng, nhiệm vụ
của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, buộc người CB, CC phải hành
động theo những nguyên tắc và khuôn khổ nhất định. Tổ chức bộ máy hệ thống chính
trị cấp cơ sở khoa học, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở
lên gấp bội. Mặt khác, đội ngũ CB, CC cấp cơ sở được phát triển đủ về số lượng, cao
về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, tập hợp qui tụ
được đầy đủ nhân dân thì vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở được phát huy mạnh
mẽ trong phát triển kinh tế - xã hội và lĩnh vực quan trọng khác. Vì vậy, đội ngũ CB,
CC cấp cơ sở giữ vai trò trực tiếp quyết định trong việc phát huy vai trò của hệ thống
20
chính trị cấp cơ sở, là lực lượng trụ cột trung tâm đoàn kết, tập hợp lực lượng nhân
dân thành sức mạnh, tác động quyết định hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở nói
chung, phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
1.2.3.3. Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là một nguồn quan trọng
cung cấp cán bộ, công chức cho các cơ quan cấp trên, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Cấp cơ sở (xã, phương, thị trấn) là trường học thực tiễn sinh động và là nơi rèn
luyện, thử thách hết sức quan trọng, thiết thực của đội ngũ CB, CC cấp cơ sở. Thực tế
cho thấy không ít CB, CC do chưa từng trải rèn luyện qua thực tiễn phong trào cách
mạng ở cơ sở, nên khi được đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý ở những cấp cao
hơn, thường chậm thích ứng với công việc và gặp nhiều khó khăn. Ngược lại không ít
CB, CC tiêu biểu đã từng lăn lội trong các phong trào ở cơ sở thì nhanh chóng thích
ứng và trưởng thành, vượt bậc, có nhiều đồng chí đã trở thành những cán bộ lãnh đạo,
quản lý cao cấp của Đảng và Nhà nước, cấp Tỉnh và Trung ương. Chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng đội ngũ CB, CC cấp cơ sở là chăm lo xây dựng
đội ngũ CB, CC có đủ năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, công
tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức
hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với CB, CC cấp cơ sở.Đồng thời thông qua phát triển đội ngũ
CB, CC cấp cơ sở mà tạo nguồn cung cấp CB, CC cho các cơ quan cấp trên.
1.2. NỘI DUNG CỦA PHÁT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP CƠ SỞ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.2.1. Nội dung của nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
1.2.1.1. Xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
21
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chăm lo đến công tác cán
bộ, trong đó coi trọng việc quy hoạch cán bộ nhằm chủ động tạo nguồn cán bộ cho
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã chỉ rõ: “Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng
yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có
tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”.
- Mục đích của xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược trong công tác cán bộ; khắc phục tình
trạng hẫng hụt trong xây dựng đội ngũ CB, CC lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở bảo đảm
tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ CB, CC;
giữ vững đoàn kết nội bộ và sự phát triển, hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở đủ
sức thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, phương, thị trấn.
Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ CB, CC đủ sức đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý và các vị trí
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo
đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực
trí tuệ và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội, đủ về số lượng, cao về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước.
- Quan điểm xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở.
Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở phải
quản triệt những quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ. Cụ thể là:
+ Phải lấy việc phục vụ nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng để xây dựng
đội ngũ CB, CC lãnh đạo, quản lý và thông qua thực tiễn sự nghiệp đổi mới, phong
trào thi đua yêu nước của quần chúng nhân dân để phát hiện những người có phẩm
chất và năng lực, nhất là năng lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức chỉ đạo thực tiễn, làm
việc năng động, sáng tạo, có hiệu quả, cùng những nhân tố mới có nhiều triển vọng
22
phát triển để đưa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ CB, CC lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở.
+ Thấu suốt quan điểm giai cấp công nhân trong xây dựng quy hoạch phát triển đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở; chú ý phát hiện, bồi dưỡng những CB, CC trưởng thành từ
thực tế phong trào, những người có triển vọng, và các tài năng trẻ sớm đưa vào quy
hoạch dự nguồn cho đội ngũ CB, CC lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở để có kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, quan tâm tạo nguồn để tăng tỷ lệ CB, CC lãnh đạo, quản lý trẻ, xuất
thân từ công nhân, nông dân, con em các gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân
tộc thiểu số, cán bộ nữ, không phân biệt đảng viên hay quần chúng ngoài Đảng.
- Nội dung xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
+ Xác định tiêu chuẩn chung đối với cán bộ đưa vào quy hoạch phát triển đội ngũ
CB, CC cấp cơ sở.
Căn cứ để đưa cán bộ vào quy hoạch phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở là
tiêu chuẩn chung và các tiêu chuẩn của từng loại cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 khoá VIII và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ là phải
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Tiêu chuẩn chung về phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực của cán bộ phải
được cụ thể hoá phù hợp với đội ngũ CB, CC cấp cơ sở trong thời kỳ mới đẩy mạnh
CNH, HĐH và từng bước phát triển của thực tiễn cách mạng ở các đơn vị cơ sở (xã,
phường, thị trấn)
Trong điều kiện hiện nay, tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực của người cán
bộ đưa vào quy hoạch phát triển đội ngũ CB, CC cấp cơ sở phải được xem xét đánh
giá thông qua các tiêu chuẩn cơ bản sau:
Năng lực thực tiễn, thể hiện ở kết quả và hiệu quả công việc, tinh thần chủ
động, sáng tạo, mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; khả năng đoàn
kết, tập hợp, quy tụ cán bộ; năng lực tổ chức, điều hành để thúc đẩy sự phát triển của
23
lĩnh vực công tác được phân công phụ trách nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội.
Đạo đức, lối sống trong sạch được thể hiện trong thực tế, kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cá nhân; bản thân và gia đình cán bộ luôn gương
mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chấp hành đúng pháp luật, chính sách
của Nhà nước, khách quan, công tâm không lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích
riêng cho bản thân, gia đình, dòng tộc. Ham học hỏi, cầu tiến bộ, qua thực tế cho thấy
là cán bộ trẻ tuổi, được đào tạo cơ bản; đã kinh qua công tác thực tế ở địa phương, cơ
sở; năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có nhiều triển
vọng phát triển vươn lên đảm nhận nhiệm vụ cao hơn.
Ngoài các tiêu chuẩn cơ bản nói trên, cán bộ đưa vào quy hoạch phát triển đội
ngũ CB, CC cấp cơ sở còn cần được đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng các tiêu chuẩn
chung và cụ thể sau đây khi bố trí vào chức vụ được quy hoạch:
Về độ tuổi:
Những đồng chí lần đầu tham gia cấp uỷ, ban lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị cấp cơ sở phải đúng ở độ tuổi có thể công tác từ hai nhiệm kỳ trở lên
hoặc ít nhất phải trọn một nhiệm kỳ; những đồng chí tiếp tục đảm nhiệm chức vụ hiện
giữ phải ở độ tuổi để công tác trọn một nhiệm kỳ hoặc ít nhất được 2/3 nhiệm kỳ,
những trường hợp này cần xem xét con người và hoàn cảnh cụ thể để quyết định,
không máy móc, cứng nhắc về độ tuổi.
Về trình độ đào tạo:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở phải tốt nghiệp đại học và có trình
độ trung cấp lý luận chính trị, kể cả những cán bộ dưới 45 tuổi thuộc diện quy hoạch
chức danh chủ chốt. Đối với những cán bộ tuy không được đào tạo cơ bản theo quy
định, nhưng có năng lực nổi trội trong chỉ đạo thực tiễn, được cán bộ, đảng viên và
nhân dân tín nhiệm và những CB, CC là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ cần được
quan tâm vận dụng tiêu chuẩn quy định một cách thích hợp.
24
Đối với các chức danh chủ chốt của hệ thống chính trị cấp cơ sở cần phải đảm
bảo các tiêu chuẩn đối với từng chức danh chủ chốt như sau:
+ Lựa chọn cán bộ theo tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ cấp ủy là: Bí thư, Phó Bí thư
Đảng uỷ, Chi ủy, Thường trực đảng uỷ xã, phường, thị trấn.
Tuổi đời: Không quá 45 tuổi khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp chính trị trở lên.
Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng và đô thị có trình độ trung cấp
chuyên môn trở lên. Ở khu vực miền núi đã được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
(tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu tham gia giữ chức vụ lần đầu phải có trình
độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã qua bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng
Đảng, nghiệp vụ quản lý hành chính Nhà nước, nghiệp vụ quản lý kinh tế.
+ Lựa chọn cán bộ theo tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội
là: Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu
chiến binh cấp cơ sở.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc: Không quá 60 tuổi đối với nam, không quá
55 tuổi đối với nữ khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Không quá 30 tuổi khi tham
gia giữ chức vụ công tác.
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân: Không quá 55 tuổi đối
với nam, không quá 50 tuổi đối với nữ khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh: Không quá 65 tuổi khi tham gia giữ chức vụ.
Về học vấn, có trình độ lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ. Có trình độ
tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên ở khu vực đồng bằng, tốt nghiệp trung học cơ
sở trở lên ở khu vực miền núi. Có trình độ sơ cấp lý luận chính trị và tương đương trở
25