Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện châu thành, tỉnh đồng tháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.07 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

LÊ THỊ PHI YẾN

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN


2

ĐỒNG THÁP - 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--------------------

LÊ THỊ PHI YẾN

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60. 31. 02. 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


3

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THÁI SƠN
ĐỒNG THÁP - 2015

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận
được sự quan tâm giúp đỡ rất tận tình của quý thầy cô giáo Khoa Giáo dục chính
trị, Phòng Sau đại học, Hội đồng Khoa học và Đào tạo chuyên ngành Chính trị
học, Trường Đại học Vinh đã giảng dạy, quan tâm, tạo điều kiện để tác giả hoàn
thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cám ơn quý thầy cô giáo của Khoa Giáo dục chính
trị, Phòng Sau đại học, Hội đồng Khoa học và Đào tạo chuyên ngành Chính trị
học, Trường Đại học Vinh; đặc biệt, xin trân trọng và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cho tác
giả hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân Huyện; Phòng Nội
vụ Huyện; Ban Tổ chức Huyện ủy và Ủy Ban nhân dân các xã, thị trấn của
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp đã hỗ trợ, cung cấp những tài liệu cần thiết
giúp tác giả có đủ số liệu để chứng minh cho luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả đã rất cố gắng, tuy
nhiên sẽ không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự đóng góp của quý Thầy Cô
để luận văn được hoàn thiện hơn.
Châu Thành, ngày 29 tháng 5 năm 2015



4

Tác giả

MỤC LỤC
Trang
Lời cám ơn
Mục lục
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………. 1
B. NỘI DUNG……………………………………………………………… …12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ…………………………………………….12
1.1 Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã……………………………………….12
1.2 Vị trí, vai trò, đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã……………………..17
1.3 Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã……………………..22
Kết luận chương 1…………………………………………………………… ..40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP…41
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
2.2 Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp
hiện nay………………………………………………………………………...46
2.3 Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành,
tỉnh Đồng Tháp…………………………………………………………………52
2.4 Thành tựu, hạn chế…………………………………………………………64
Kết luận chương 2……………………………………………………………...70


5

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI

NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH
ĐỒNG THÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY…………………………….71
3.1 Phương hướng của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay………………...71
3.2 Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay………………...76
Kết luận chương 3……………………………………………………………...96
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….100


6

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác cán bộ, Người
cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [24, tr. 269], “công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [24, tr.273]. Thấm nhuần lời dạy
của Người, trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành Đảng ta luôn dành sự
quan tâm đúng mức đến công tác cán bộ, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này được
Đảng ta một lần nữa khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba, khoá
VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng” [14, tr.66].
Đất nước ta đang chuyển mình trong quá trình đổi mới với nhiều thời cơ
cần ra sức tận dụng, đồng thời cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức cần phải
vượt qua; vì vậy đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở có đủ bản

lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn.
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn


7

đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm
thạo việc, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, trẻ hóa đội ngũ cán bộ,
chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng và giải quyết hợp lý, đồng bộ chính sách
đối với cán bộ cơ sở”[15, tr. 167- 168].
Trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta, xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cấp cơ sở, là nơi trực tiếp
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hằng ngày của
nhân dân ở địa bàn và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Bộ máy hành chính cấp xã là cầu nối trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân, là nơi chuyển tải các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống. Hay nói cách khác, cán bộ cơ sở có vai trò
rất quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động, tổ chức cho nhân dân thực hiện
đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có đầy đủ bản lĩnh, năng động, thật sự vững mạnh sẽ tạo nên động lực
mạnh mẽ trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tại địa bàn. Một trong những
biện pháp quan trọng mà các địa phương quan tâm thực hiện để phát triển kinh
tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng, đó là xây dựng và phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức, trong đó chú trọng đến công tác quy hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn. Điều này thể hiện đội
ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn có vai trò rất quan trọng trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.

Hiện nay đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên
tạp chí, các luận văn đã được công bố …đó là những công trình có giá trị thực
tiễn cao, những nội dung có tính chất lý luận để chúng tôi tham khảo khi viết đề
tài này. Cụ thể:


8

- Nguyễn Huy Kiệm, Phó vụ trưởng, Cơ quan đại diện Bộ Nội vụ tại
Thành phố Hồ Chí Minh: Nâng cao chất lượng đội cán bộ, công chức cơ sở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tác giả đã đánh giá việc thực hiện các nghị
quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ và chiến lược cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà đặc biệt
là từ khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị thì hệ thống
chính trị cơ sở các địa phương trong vùng luôn được các cấp ủy Đảng, chính
quyền quan tâm củng cố, xây dựng ngày càng hoàn thiện và hoạt động có hiệu
quả, góp phần vào sự phát triển kinh tế -xã hội và bảo đảm an ninh, chính trị, trật
tự an toàn xã hội ở các địa phương. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã của các
địa phương trong vùng đã được củng cố, kiện toàn về nhiều mặt; phẩm chất
chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, điều hành được
nâng lên, có tinh thần trách nhiệm trong công tác và hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở các tỉnh,
thành phố trong vùng còn yếu kém, bất cập về nhiều mặt, tỷ lệ đạt chuẩn còn
thấp so với yêu cầu. Năng lực quản lý, điều hành chưa ngang tầm với nhiệm vụ.
Nhận thức trong đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã không đồng đều, thiếu chủ
động sáng tạo; việc vận dụng các chủ trương, chính sách của cấp trên vào điều
kiện cụ thể của từng địa phương chưa linh hoạt, nhiều nơi còn sao chép một
cách máy móc. Không ít cán bộ, công chức cấp xã chưa nắm vững chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, không nắm vững các quy định của pháp luật,

vì vậy quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc còn mang tính chủ
quan, tuỳ tiện theo cảm tính cá nhân, không căn cứ vào quy định của pháp luật
dẫn đến vi phạm. Từ những tồn tại, yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã vùng đồng bằng sông Cửu Long, tác giả bài viết đã đề xuất bảy giải pháp
mang tính chiến lược và cụ thể để giải quyết tình hình đội ngũ cán bộ, công chức


9

cấp xã trong vùng để đáp ứng được yêu cầu phát triển tiềm năng và thế mạnh
của vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Lê Ngọc Xuyên, Phó Vụ trưởng, Văn phòng đại diện Bộ Nội vụ tại Đà
Nẵng: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên; Tạp
chí xây dựng Đảng số 1+2/ 2014. Trong bài viết tác giả nêu một thực trạng đáng
quan tâm là tỷ lệ cán bộ, công chức cấp xã chưa qua đào tạo chuyên môn còn
22,34% và chưa qua đào tạo lý luận chính trị là 23,79% . Tỷ lệ cán bộ chuyên
trách chưa được đào tạo chuyên môn còn rất cao, chiếm 44,2%; chưa qua đào
tạo lý luận chính trị còn nhiều, tới 79,6% và số cán bộ, công chức cấp xã đã qua
đào tạo, bồi dưỡng về quản lý nhà nước rất ít. Năng lực xử lý các vấn đề thực
tiễn đặt ra còn bất cập, một số cán bộ làm việc thụ động, cảm tính, thiếu kỹ
năng, ít sáng tạo chưa đủ sức giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh trong thực
tiễn. Nhiều cán bộ, công chức cấp xã chưa thật sự gương mẫu, còn quan liêu, xa
dân. Việc tuyển dụng, bố trí và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã còn nhiều bất
cập. Còn nhiều cán bộ, công chức cấp xã cao tuổi, không đạt chuẩn nhưng chưa
có chính sách phù hợp để giải quyết nên không thể bổ sung, thay thế bằng cán
bộ trẻ, có năng lực, được đào tạo cơ bản. Chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức cấp xã còn mang tính bình quân, chưa cụ thể hóa cho phù hợp với
tính đặc thù, phức tạp của từng địa bàn. Đặc biệt đối với những cán bộ không
chuyên trách ở xã, chế độ làm việc, phụ cấp còn rất bất cập. Chính những hạn
chế trên, tác giả đã đề ra năm nhóm giải pháp gồm: coi trọng tạo nguồn công tác

cán bộ; làm tốt công tác quy hoạch cán bộ; đẩy mạnh bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ
cán bộ cơ sở; có cơ chế chính sách đặc thù; về đánh giá và sử dụng cán bộ.
-Trần Thị Bích Thủy(2006), Luận văn Thạc sĩ khoa học Chính trị, chuyên
ngành xây dựng Đảng: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay. Tác giả
đã nghiên cứu một cách có bài bản về cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp phường của Quận Thanh Xuân, thành phố


10

Hà Nội; đánh giá thực trạng của đội ngũ cán bộ chủ chốt, thực trạng của công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các giải
pháp cụ thể để xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường có đầy đủ
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất chính trị… đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới.
- Lê Tấn Đa (2015), Luận văn Thạc sĩ khoa học Chính trị, chuyên ngành
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước: Đổi mới phương thức lãnh đạo công
tác cán bộ của các huyện ủy ở tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay. Tác giả
đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và trong thực tiễn về phương thức
lãnh đạo công tác cán bộ của các huyện ủy ở tỉnh Đồng Tháp; đánh giá một cách
cụ thể về thực trạng công tác cán bộ và phương thức lãnh đạo công tác cán bộ
của các huyện ủy ở tỉnh Đồng Tháp, qua đó chỉ ra những ưu khuyết điểm và bài
học kinh nghiệm trong công tác này. Tác giả đã dự báo những nhân tố tác động
đến phương thức lãnh đạo công tác cán bộ và đề xuất năm giải pháp chủ yếu
gồm: thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo công tác
cán bộ; thứ hai, cụ thể hóa và thực hiện nghiêm túc quy chế công tác cán bộ của
huyện ủy; thứ ba, nâng cao năng lực của cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ,
đảng viên làm công tác cán bộ của các huyện ủy; thứ tư, nâng cao chất lượng

công tác kiểm tra, giám sát của huyện ủy đối với hoạt động của cán bộ và công
tác cán bộ; thứ năm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong công tác cán bộ của cấp ủy cơ sở; trong đó, tác giả nhấn mạnh giải
pháp thứ nhất và cho đây là giải pháp quan trọng quyết định công trong công tác
đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các huyện ủy ở tỉnh Đồng
Tháp.
- Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp (2013), Đề án năng cao năng lực cán
bộ, công chức chính quyền xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
giai đoạn 2013 – 2015 và định hướng đến năm 2020. Xuất phát từ tình hình thực


11

tế của địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chưa đạt chuẩn về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, bộ máy hành
chính cấp xã chưa được như nhân dân mong muốn; Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng
Tháp xây dựng đề án với mục tiêu tạo bước đột phá trong công tác bố trí cán bộ,
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo đúng chức danh, tiêu chuẩn;
tăng cường cán bộ cho cơ sở; thay thế cán bộ, công chức trì trệ, năng lực yếu,
uy tín thấp; thực hiện chính sách tinh giảm biên chế; đẩy mạnh công tác điều
động, luân chuyển cán bộ, công chức cho cơ sở; đào tạo chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ, công chức; góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách
hành chính và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trên
cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã và thực trạng xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã của tỉnh đã đề ra các giải pháp chủ
yếu: Quy hoạch cán bộ chính quyền theo chức vụ; Tuyển dụng, sử dụng cán
bộ, công chức, thực hiện việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền; Tạo nguồn nhân lực cán bộ công chức; tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức; gắn đào tạo bồi dưỡng với quy hoạch từng chức
vụ chức danh cán bộ, công chức chính quyền; Kiện toàn, sắp xếp bố trí lại cán

bộ, công chức, thực hiện chính sách thôi việc, điều động, luân chuyển cán bộ,
công chức về cơ sở; Thực hiện có hiệu quả việc đánh giá xếp loại công chức;
Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh
do Hội đồng nhân dân bầu và các chức danh công chức.
- Trịnh Thanh Tâm (2012), Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ hệ thống chính
trị xã ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án đã xây dựng khá hoàn
chỉnh những vấn đề lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ hệ hệ
thống chính trị xã ở đồng bằng sông Hồng; đánh giá rõ thực trạng xây dựng đội
ngũ cán bộ này từ năm 2001 đến nay, chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và
những kinh nghiệm. Luận án đề xuất những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ


12

chủ chốt là nữ hệ thống chính trị ở đồng bằng sông Hồng những năm tới, gồm:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, các tổ chức có liên quan.
Thứ hai, tiếp tục cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị xã
và nâng cao chất lượng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thứ ba, nâng cao
chất lượng việc quản lý, đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt là nữ
của hệ thống chính trị xã. Thứ tư, phát huy mạnh mẽ tinh thần tự học tập, rèn
luyện của cán bộ và thực hiện tốt chính sách cán bộ nữ. Thứ năm, phát huy vai
trò của đảng uỷ, các tổ chức trong hệ thống chính trị xã và nhân dân, coi trọng
vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ xã. Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo
và tạo điều kiện thuận lợi của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể huyện và cấp
trên. Nhiều điểm trong luận án có giá trị tham khảo tốt. Tuy nhiên, luận án mới
bàn về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt là nữ ở cơ sở xã.
- PGS, TS Trần Đình Hoan (chủ biên),( 2008): Đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các tác giả đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng về công tác đánh giá,
quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý của những năm qua và chỉ rõ
những ưu, khuyết điểm và bài học kinh nghiệm của công tác này. Qua đó, các
tác giả đã đưa những vấn đề cần giải quyết, những đề xuất giải pháp có giá trị
đối với công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý của
những năm tới.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến vấn đề cán
bộ, công chức, hoặc là ở dạng chung nhất hoặc đặt nó nằm trong từng phạm vi
nghiên cứu cụ thể đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến
thức, kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Tuy nhiên, ngoài những
vấn đề chung đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thì với các địa


13

phương khác nhau sẽ cần có yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức khác
nhau phù hợp thực tiễn ở các địa phương đó trong mỗi giai đoạn cách mạng, trong
khi đó chưa có công trình nào nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp hiện nay. Chính vì vậy, đây là
vấn đề nhất thiết cần được nghiên cứu một cách cụ thể, toàn diện trên cả phương
diện lý luận và thực tiễn nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của huyện nhà.
Trong những năm qua, Đảng bộ huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp đã có
sự quan tâm đúng mức đến công tác cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công
chức cấp xã nói riêng, nhất là coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao
trình độ chuyên môn, chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có
tính chuyên nghiệp, có bản lĩnh, tinh thông nghiệp vụ… từng bước đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng
còn nhiều bất cập, cụ thể là: tình trạng quy hoạch, đánh giá cán bộ, công chức
cấp xã còn mang tính hình thức, chưa đúng thực chất; công tác đào tạo, bố trí, sử
dụng cán bộ, công chức cấp xã chưa thật sự có hiệu quả, có lúc có nơi chưa
đúng người đúng việc; việc thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công
chức cấp x,ã chưa thật sự tạo động lực để cán bộ, công chức cấp xã phấn đấu,
cống hiến khả năng của mình… Mặt khác, hiện nay còn một thực trạng là số
lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa đúng
chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều. Khả năng vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và Nghị quyết của cấp ủy Đảng cấp trên của một số cán bộ, công chức cấp xã
còn hạn chế, yếu kém; năng lực thực tiễn, khả năng xử lý tình huống, giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ sở còn bị động và lúng túng. Một bộ phận
cán bộ, công chức cấp xã suy thoái về chính trị, đạo đức, giảm sút ý chí phấn
đấu…Đây là những vấn đề bức xúc của toàn Đảng và của toàn xã hội, là vấn đề


14

cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Tất cả những khó khăn trên đã
làm hạn chế vai trò và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
và làm ảnh hưởng không nhỏ quá trình phát triển của Huyện.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới có thể được coi
là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng địa
phương. Trong điều kiện hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đang hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, đòi hỏi cần phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ,
công chức, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có chính trị vững
vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Chính vì vậy, việc chúng tôi nghiên cứu đề tài để tìm ra những giải pháp
khả thi nhất trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
Châu Thành tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay là cần thiết. Xuất phát từ
những lý do trên kết hợp với kiến thức đã được học, chúng tôi chọn đề tài: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu và viết luận văn Thạc sĩ Khoa
học Chính trị, chuyên ngành Chính trị học. Trong quá trình nghiên cứu đề tài
này, chúng tôi có sự tham khảo, kế thừa, chọn lọc những nội dung của các công
trình khoa học, những bài viết, những luận văn có liên quan đến nội dung xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã để cho việc nghiên cứu và hoàn thiện
luận văn này.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành,
tỉnh Đồng Tháp, luận văn đề xuất các quan điểm và giải pháp xây dựng đội ngũ


15

cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng và chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện

nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp từ năm 2010 đến nay; qua đó đề xuất các
giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công
chức chính quyền cơ sở nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hợp;
điều tra xã hội học, thống kê so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp mới của đề tài


16

- Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những khái niệm,
những quan điểm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
- Về thực tiễn: Luận văn sẽ chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian qua ở huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Tháp; đồng thời đề xuất những giải pháp chủ yếu, khả thi góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh
Đồng Tháp có đủ trình độ, năng lực, kiến thức thực thi nhiệm vụ trong tình hình
mới. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc đề ra những giải pháp

xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3
chương 9 tiết.
- Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã.
- Chương 2: Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.
- Chương 3: Phương hướng và các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.


17

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm cán bộ cấp xã
Khái niệm “cán bộ, công chức” được sử dụng khá lâu tại các nước xã hội
chủ nghĩa và bao hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực Nhà
nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Nó được dùng để chỉ tất
cả những người làm công hưởng lương từ nhà nước, kể từ những người đứng
đầu một cơ quan như thủ trưởng, giám đốc… cho tới các nhân viên phục vụ như
lái xe, bảo vệ hay lao công tạp vụ.
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên: “ Cán bộ: 1.
Người làm việc trong cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. 2. Người giữ chức vụ,
phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức

nhà nước” [ 36, tr.249].
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khái niệm “cán bộ, công chức”
được gọi chung cho tất cả những người làm việc cho Nhà nước, không có sự
phân biệt rõ ràng. Đội ngũ này được hình thành từ nhiều con đường có thể do


18

bầu cử, có thể do phân công sau khi tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp, có thể
do tuyển dụng, bổ nhiệm….
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 ra đời là văn bản pháp lý cao nhất
của nước ta về cán bộ, công chức nhưng không quy định cụ thể về cán bộ, công
chức cấp xã mà chỉ quy định chung về cán bộ, công chức và đề cập tới ba đối
tượng cán bộ, công chức, viên chức nhưng không thể hiện rõ ai là cán bộ, ai là
công chức, ai là viên chức mà quy định chung các đối tượng “cán bộ, công
chức” là công dân Việt Nam, trong biên chế. Có thể nói, thuật ngữ cán bộ được
sử dụng như là một ước lệ, chưa thể hiện tính chất hành chính, chưa rõ nội hàm
của khái niệm. Đây cũng là một hạn chế của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Năm 2003, Uỷ Ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 mới quy định chung về cán bộ, công
chức cấp xã: “Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt
Nam, trong biên chế, bao gồm:
g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ
trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng ủy; Người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội xã, phường,
thị trấn;
h) Những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã” [33].
Trên cơ sở Pháp lệnh Cán bộ, công chức (sửa đổi, bổ sung năm 2003) thì
Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về cán

bộ, công chức cấp xã đã xác định được những đối tượng là cán bộ, công chức
cấp xã: “Cán bộ cấp xã bao gồm cán bộ chuyên trách và không chuyên trách.
- Cán bộ chuyên trách gồm:
1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây
gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:


19

a) Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó
Bí thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành
lập đảng uỷ cấp xã);
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ
tịch Hội Cựu chiến binh.
- Cán bộ không chuyên trách gồm:
a) Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng
Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng uỷ;
b) Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
c) Phó Chỉ huy trưởng quân sự;
d) Cán bộ kế hoạch - giao thông - thuỷ lợi - nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;
đ) Cán bộ lao động - thương binh và xã hội;
e) Cán bộ dân số - gia đình và trẻ em;
g) Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ;
h) Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
i) Cán bộ quản lý nhà văn hoá;
k) Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội

Cựu chiến binh;
l) Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam”. [8]
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, những thành tựu của sự phát
triển kinh tế - xã hội chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường mở rộng
giao lưu hợp tác với các nước, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại,
đồng thời, công cuộc cải cách hành chính ngày nay đặt ra nhu cầu chuyên biệt
hóa trong sự điều chỉnh pháp luật ngày càng rõ nét, đòi hỏi phải có sự thống


20

nhất về nhận thức trong sự phân định các khái niệm có liên quan. Luật Cán bộ,
công chức được Quốc hội ban hành tháng 11 năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2010 đã quy định cụ thể:
“ 3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ
chức chính trị - xã hội ” [34].
Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định cán bộ cấp xã có các chức vụ
sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ,
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc,
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;
g) Chủ tịch Hội Nông dân (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh” [34, tr 29, 30].
Như vậy, đến nay khái niệm cán bộ cấp xã đã được quy định cụ thể, rõ

ràng, xác định rõ nội hàm, đó là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ
theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.2. Khái niệm về công chức cấp xã
Công chức là thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới để chỉ những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên
trong các cơ quan nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành gắn liền với sự phát
triển của nền hành chính nhà nước. Tại Điều 1 Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch


21

Hồ Chí Minh ký ngày 20 tháng 5 năm 1950 quy định “Những công dân Việt
Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong
các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy
chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định” [11], đây được coi
là văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định về công chức. Sau đó, do nhu cầu
bổ sung nhân lực trong bộ máy nhà nước ngày càng tăng, khi đó không có đủ
nguồn nhân lực phù hợp với những tiêu chuẩn quy định đối với công chức nên
suốt một thời gian dài sau đó, từ “công chức” dần được thay thế bằng từ “cán
bộ, công nhân, viên chức” bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ
quan nhà nước, cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế nhà nước. Tất cả
đều thuộc biên chế nhà nước, được gọi là “cán bộ, công nhân, viên chức nhà
nước” chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, công nhân, viên chức theo cách
quan niệm có tính truyền thống đã hình thành trước đó..
Tại Khoản 2, Điều 2 của Nghị định 114/2003/NĐ- CP ngày 10 tháng 10
năm 2003 quy định công chức cấp xã như sau: “ 2. Những người được tuyển
dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân
cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm có các chức danh sau đây:

a) Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
b) Chỉ huy trưởng quân sự;
c) Văn phòng - Thống kê;
d) Địa chính - Xây dựng;
đ) Tài chính - Kế toán;
e) Tư pháp - Hộ tịch;
g) Văn hoá - xã hội ” [8, tr 2].
Trước yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước
và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, Luật Cán bộ, công
chức của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội thông
qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 đã


22

quy định rõ: “ ….;công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong
biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [34, tr. 5].
Tại Khoản 3, Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định:
“… 3. Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
đ) Tài chính - kế toán;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội ” [34, tr 30].
1.2. Vị trí, vai trò, đặc điểm của cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã

Xã là một đơn vị cấp hành chính cuối cùng trong bốn cấp của hệ thống
quản lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân cấp quản lý nhưng thấp nhất
không đồng nghĩa với ít quan trọng nhất. Đặc biệt, cán bộ, công chức cấp xã có
một vị trí, vai trò rất quan trọng, là chủ thể thực thi pháp luật để quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đề
ra; giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân
lao động; điều hành các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong quá
trình hoạt động của bộ máy nhà nước.
Do vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là nhiệm vụ rất quan
trọng vì cán bộ, công chức cấp xã có những vị trí, vai trò như sau:
- Một là, cán bộ, công chức cấp xã là người giữ vai trò quyết định trong
việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ


23

cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên,
cũng như mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã.
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân nắm
bắt, nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm được tính
đúng đắn của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ chức thực hiện
trong thực tiễn; muốn làm được điều đó không có ai khác là cán bộ, công chức
cấp xã, bởi cán bộ, công chức cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất, hiểu rõ nhất,
giải quyết nhiều việc nhất của nhân dân.
Để thực hiện tốt vị trí, vai trò này đòi hỏi cán bộ, công chức cấp xã phải
có khả năng tổ chức, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào hoạt động; phải có khả
năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là các tình huống về tài chính, về thiên
tai, địch họa, do va chạm xóm giềng, dòng tộc, tình huống nảy sinh khi ra những
quyết định sai trái với cấp trên…; phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động

của mình và khả năng tổng kết, sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách.
Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua việc xử
lý, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu quả, góp
phần ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội tại từng địa bàn
xóm, ấp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ
biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước
đến nhân dân, làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ
trương, chính sách đó để thực hiện.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước
pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của cán bộ, công chức cấp xã càng
có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm được các chủ trương,


24

chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham gia, đóng góp vào việc thực
hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó.
Để làm được điều đó, cán bộ, công chức cấp xã phải tiến hành nhiều hình
thức, biện pháp khác nhau như: thông qua các buổi tuyên truyền, nói chuyện tại
cuộc họp khu dân cư, tổ dân phòng, trung tâm học tập cộng đồng hoặc thông qua
các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân để giải quyết các vấn đề mới phát sinh
như: liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, quy hoạch…
Đồng thời, còn đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có những hiểu biết
nhất định về lý luận và am hiểu tình hình thực tế của địa phương, cũng như nắm
bắt được đặc điểm, tâm lý của từng tầng lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý của
mình.

Ba là, cán bộ, công chức cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc xây
dựng và thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở và là cầu nối
quan trọng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan
trọng trong việc thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa
công dân với Nhà nước. Bởi vì họ là những cán bộ trực tiếp tuyên truyền phổ
biến, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn dân cư, giải quyết mọi nhu cầu
của dân cư, bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn, duy trì trật tự, an
ninh, an toàn xã hội trên địa bàn cấp xã. Do tính chất công việc của cấp xã, họ
vừa giải quyết những công việc hàng ngày, vừa phải quán triệt các Nghị quyết,
Chỉ thị của cấp trên, lại phải nắm tình hình thực tiễn ở địa bàn để từ đó đề ra kế
hoạch, chủ trương, biện pháp đúng đắn, thiết thực, phù hợp. Nhiệm vụ của họ rất
nặng nề, vai trò của họ có tính then chốt, xét cả trong quan hệ giữa Đảng với
dân, giữa công dân với Nhà nước. Thực tế đã chứng minh, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của hệ thống
chính trị, tạo dựng các phong trào cách mạng của quần chúng, góp phần thực


25

hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Sức mạnh của hệ thống chính trị, sự ổn định của xã hội, sự phát triển sâu, rộng
và hiệu quả phong trào cách mạng của quần chúng luôn gắn liền với năng lực,
phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ này. Họ giữ vai trò quyết định năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, năng lực lãnh đạo và quản lý
của chính quyền cơ sở. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước có thể trở thành hiện thực hay không, nhất thiết phải thông
qua phong trào cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, các phong trào của quần
chúng nếu không có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước rất dễ hoặc

là chệch định hướng chính trị hoặc là hiệu quả không cao do mang tính chất tự
phát. Do vậy, để phong trào hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã phải thực sự là “thủ lĩnh”, có khả năng tổ chức, lôi cuốn, phát động
phong trào, có khả năng theo dõi, kiểm tra và nhân rộng các phong trào tốt,
những cá nhân điển hình, tiên tiến, biết khai thác tối đa nguồn lực vật chất, tinh
thần nội lực ở cơ sở. Hiệu lực của bộ máy quyền lực ở cơ sở cũng tùy thuộc
trước hết vào năng lực của đội ngũ này.
- Bốn là, cán bộ, công chức cấp xã còn là một trong những nguồn lực
quan trọng cung cấp cán bộ cho Huyện, Tỉnh.
Cán bộ, công chức cấp xã không ngừng được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển chung của
xã hội. Việc tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, khuyến khích
nhân tài không ngừng được chú trọng nhằm đảm bảo được xây dựng một đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã kế cận, tiếp tục sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Như vậy, bất cứ ở đâu và lúc nào, cán bộ, công chức cấp xã cũng có vị trí,
vai trò hết sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng, chiếm số lượng
tương đối lớn thì cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò rất to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Đặc điểm cán bộ, công chức cấp xã


×