Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quản lý chất lượng kiểm toán của kiểm toán nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.28 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------

NGUYỄN THỊ THÚY NHÀN

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------o0o---------

NGUYỄN THỊ THÚY NHÀN

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN
CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC
Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế
Mã số: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. PHAN HUY ĐƢỜNG


Hà Nội - 2015


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

KT

KTNN
BCTC
BCKT

Kiểm toán Nhà nước
Báo
chính
Báo cáo
cáo tài
kiểm
toán

BGĐ

Ban Giám đốc

BTC

Bộ Tài chính

CĐKT&

Chế độ kế toán và Kiểm toán


CL

Chất lượng

CLKT
CM
CMKiT

Chất lượng kiểm toán
Chuẩn mực
Chuẩn mực kiểm toán

CMKT

Chuẩn mực kế toán

CTNY

Công ty niêm yết

DAHT
DN

Dự án hoàn thành
Doanh nghiệp

DNKT
DNNN


Doanh nghiệp kiểm toán
Doanh nghiệp nhà nước

HSKT
KTĐL

Hồ sơ kiểm toán
Kiểm toán độc lập

KTV
TCPH

Kiểm toán viên
Tổ chức phát hành

TCTD

Tổ chức tín dụng

TTCK

Thị trường chứng khoán

UBCK

Ủy ban chứng khoán

VACPA
Hội kiểm toán viên hành nghề
VĐT

Vốn đầu tư
Việt Nam
VN

Việt Nam

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1
1.1
1.1.1.
1.1.2.
1.2
1.3
1.3.1.
1.3.2.
Chƣơng 2
Chƣơng 3
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.

4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC

Chất lượng kiểm toán và quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm toán
nhà nước
Chất lượng, chất lượng kiểm toán
Quản lý chất lượng kiểm toán
Tiêu chí quản lý chất lượng kiểm toán
Kinh nghiệm quản lý chất lượng kiểm toán của một số nước và bài học
cho Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Kinh nghiệm quản lý chất lượng kiểm toán của một số
Những bài học kinh nghiệm cho KTNN Việt Nam
PHƢƠNG PHÁP VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN CỦA
KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Khái quát về Kiểm toán nhà nước Việt Nam
Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước
Đội ngũ cán bộ, kiểm toán viên của Kiểm toán Nhà nước
Nguyên tắc và cơ chế hoạt động kiểm toán

3.1.4.
3.2.

Tổ chức công tác kiểm toán
Phân tích thực trạng quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Việt Nam

3.2.1.

Về hoạt động lập kế hoạch quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm
toán nhà nước Việt Nam

3.2.2.


3.3.1.

Đánh giá chung thực trạng quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm
toán nhà nước Việt Nam
Những kết quả đạt được

3.3.2.
3.3.3.

Những tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân của những tồn tại

Chƣơng 4

4.1.
4.2.
4.2.1.
4.2.2.

16
18
22
23
26
26
27
28
30


32

34

Hoạt động kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà
nước Việt Nam

3.3.

8
9

Tổ chức thực hiện quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà
nước Việt Nam

3.2.3.

8

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHẤT
LƢỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC VIỆT
NAM
Định hướng, mục tiêu hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm toán
Quan điểm hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm toán của kiểm toán ở
Việt Nam
Hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm toán độc lập đặc biệt là kiểm toán
BCTC phải nhằm nâng cao CLKT
Hoàn thiện quản lý chất lượng KT của KTĐL ở Việt Nam trên cơ sở
tham khảo có chọn lọc nội dung các quy định về quản lý chất lượng


37
40
44
50
55

63
63
63
63
66

2


4.3.
4.3.1.

đối với dịch vụ kiểm toán của các nước trong khu vực và trên thế giới
Một số giải pháp hoàn thiện quản lý chất lượng KT của kiểm toán nhà
nước Việt Nam
Nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch quản lý chất lượng kiểm

66

toán

66

4.3.2.


Hoàn thiện chính sách quản lý chất lượng kiểm toán

73

4.3.3.

Hoàn thiện tổ chức và tăng cường năng lực bộ máy quản lý chất lượng
kiểm toán

4.3.4.
4.3.5.

Hoàn thiện quy trình quản lý hồ sơ sau khi cuộc kiểm toán kết thúc
Hoàn thiện công tác kiểm tra, đánh giá định kỳ đối với chính sách, thủ
tục quản lý chất lượng kiểm toán

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

79
86
87
92
93

3


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiểm toán nói chung là hoạt động dịch vụ tư vấn có tính chuyên môn
nghề nghiệp cao. Kết quả kiểm toán xác nhận độ tin cậy, trung thực của các
thông tin được kiểm toán và là cơ sở để đưa ra các kiến nghị, ý kiến tư vấn hoàn
thiện công tác quản lý. Vì vậy, chất lượng kiểm toán có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, quyết định sự tin cậy của người sử dụng kết quả kiểm toán.
Hoạt động của KTNN nhằm cung cấp cho Quốc hội, Chính phủ, các cơ
quan nhà nước sự xác nhận, đánh giá về tính trung thực, hợp lý, hợp pháp và
hiệu quả kinh tế của các thông tin được kiểm toán, là căn cứ tin cậy để đề ra
những quyết sách của Nhà nước. Chất lượng kiểm toán có ý nghĩa quyết định
trong việc khẳng định vị thế, uy tín và hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTNN. Do
đó, KTNN phải bảo đảm kết quả kiểm toán đáp ứng yêu cầu chất lượng, đáng tin
cậy và đã được quản lý chất lượng đầy đủ, thích hợp. Chính vì lẽ đó, quản lý
chất lượng kiểm toán được Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao
(INTOSAI) thừa nhận như một định chế bắt buộc và là trách nhiệm được quy
định rõ trong chuẩn mực kiểm toán. Các cơ quan Kiểm toán Nhà nước của các
quốc gia trên thế giới đều coi quản lý chất lượng kiểm toán là hoạt động có tính
bắt buộc cần phải được coi trọng.
Kiểm toán Nhà nước Việt Nam (KTNN) được thành lập ngày 11/7/1994
theo Nghị định số 70/CP để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng
kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo
cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà
nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân
sách nhà nước cấp. KTNN thực hiện kiểm toán theo chương trình, kế hoạch
kiểm toán hàng năm do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cung cấp kết quả kiểm
toán cho Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác theo quy định của Chính phủ.
Từ 01/01/2006, hoạt động KTNN tuân theo Luật Kiểm toán nhà nước được
Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước ký
Lệnh công bố ngày 24/6/2005. Theo đó, KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh
4



vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật; có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán
tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân
sách, tiền và tài sản nhà nước. Mục đích hoạt động KTNN nhằm phục vụ việc
kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng
phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hoạt động KTNN theo nguyên tắc:
độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật. Tổng KTNN quyết định kế
hoạch kiểm toán hàng năm, và báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực
hiện.
Từ khi ra đời, đi vào hoạt động, KTNN đã dần khẳng định được vị trí, vai
trò quan trọng trong hệ thống các công cụ kiểm tra, quản lý tài chính nhà nước.
Nâng cao địa vị pháp lý và chất lượng hoạt động của KTNN đã và đang được
Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng đã ghi rõ: “Nâng cao hiệu lực pháp lý và chất lượng kiểm
toán nhà nước như một công cụ mạnh của Nhà nước”. Xác định đúng tầm quan
trọng của chất lượng kiểm toán, trong những năm qua KTNN luôn coi trọng việc
thiết lập, duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý chất lượng kiểm toán.
Năm 2010, sau 15 năm thành lập, Tổng KTNN đã ký Quyết định số
06/2010/QĐ-KTNN ngày 09/11/2010 ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán
nhà nước, gồm 21 chuẩn mực, trong đó có chuẩn mực số 08 “Quản lý chất lượng
kiểm toán”. Hệ thống bộ máy chuyên trách về quản lý chất lượng kiểm toán
cũng dần được thiết lập và củng cố, hoàn thiện. Từ năm 2014, KTNN đã thành
lập 3 đơn vị tham mưu, giúp việc chuyên trách về quản lý chất lượng kiểm toán,
đó là: Vụ Tổng hợp, Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, Vụ Pháp
chế.
Mặc dù đã xây dựng được hệ thống các quy định, chính sách trong quản

lý, quản lý chất lượng kiểm toán, cũng như các đơn vị quản lý chuyên trách; tuy
nhiên, quản lý chất lượng kiểm toán của KTNN hiện nay còn những hạn chế, bất
5


cập cả về chính sách và thực tế vận hành, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm toán của KTNN có
ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết đối với KTNN, nhằm tạo cơ sở và nâng cao
chất lượng hoạt động quản lý chất lượng kiểm toán, góp phần tăng cường hiệu
lực, hiệu quả kiểm toán nhà nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm thực hiện các mục đích sau:
- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý chất lượng kiểm toán của
KTNN; kinh nghiệm về quản lý chất lượng kiểm toán của cơ quan KTNN của
một số nước trên thế giới.
- Đánh giá thực trạng về quản lý chất lượng kiểm toán của KTNN Việt
Nam, chỉ rõ những kết quả đạt được, xác định những hạn chế, bất cập cần bổ
sung, hoàn thiện và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm toán
KTNN Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến quản lý chất lượng kiểm toán của KTNN Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn việc nghiên cứu trong phạm vi
quản lý chất lượng kiểm toán trong lĩnh vực kiểm toán báo cáo tài chính do
KTNN Việt Nam thực hiện.
Thời kỳ nghiên cứu để đánh giá thực trạng quản lý chất lượng kiểm toán
là từ khi KTNN Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động (1994), trong đó
tập trung nghiên cứu giai đoạn 2010 - 2014.
4.Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng
kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu

6


- Chương 3: Thực trạng quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm toán Nhà
nước Việt Nam
- Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý chất lượng kiểm
toán của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC
1.1. Chất lƣợng kiểm toán và quản lý chất lƣợng kiểm toán của
Kiểm toán nhà nƣớc
1.1.1. Chất lượng, chất lượng kiểm toán.
1.1.1.1. Chất lượng
Chất lượng là một khái niệm còn nhiều tranh cãi vì có rất nhiều
quan điểm khác nhau.Tùy từng lĩnh vực khác nhau lại có những cách hiểu khác
nhau về chất lượng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, thế giới bước vào khôi
phục kinh tế và thời điểm đó quan niệm chất lượng là “sự phù hợp với lợi ích”
hay “sự phù hợp với mục đích”. Tuy nhiên, không có một tiêu chí cụ thể nào chỉ
ra các thông số đo lường về việc thế nào là “sự phù hợp”. Với những nghiên cứu
sau đó, các tài tiệu chỉ ra quan điểm chất lượng có liên quan mật thiết tới các số

liệu thống kê và cho rằng: chất lượng được đo bằng hai tiêu chí chính, đó là tính
phù hợp và tính chính xác.
1.1.1.2. Chất lượng kiểm toán
Chuẩn mực kiểm toán số 220 “quản lý chất lượng hoạt động kiểm toán”
(ban hành theo Quyết định số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14/3/2003 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính) đã đưa ra khái niệm về chất lượng kiểm toán như sau: “Chất
lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử dụng kết
quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm
toán viên; đồng thời thoả mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán về những
ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý” [3, tr. 2].
Qua nghiên cứu “chất lượng” nói chung và “chất lượng hoạt động kiểm
toán” nói riêng, có thể đưa ra khái niệm về chất lượng kiểm toán nhà nước như
sau: Chất lượng kiểm toán của KTNN là mức độ thoả mãn của các đối tượng sử
dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan, trung thực và độ tin cậyvào các kết

8


luận, đánh giá và nhận xét của KTNN, đồng thời thoả mãn về các kiến nghị, giải
pháp do KTNN đưa ra, với chi phí hoạt động kiểm toán hợp lý.
1.1.2. Quản lý chất lượng kiểm toán
1.1.2.1. Kiểm toán Nhà nước
* Khái niệm kiểm toán
Từ thời Trung cổ, kiểm toán đã được sử dụng để thẩm tra về tính trung
thực của các thông tin tài chính. Đến những năm 30 của thế kỷ XX, kiểm toán
với nghĩa là “kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến” mới được phát triển ở các nước
Bắc Mỹ và Tây Âu.
Mặc dù kiểm toán đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng đến nay vẫn chưa có sự
thống nhất về khái niệm này. Có thể khái quát một số cách hiểu chủ yếu về kiểm

toán như sau:
Tại Anh, người ta bày tỏ khái niệm kiểm toán như sau: “Kiểm toán là sự
kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí
nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó
theo đúng với bất kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan” [8, tr. 34]. Theo khái
niệm này, kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính
của kiểm toán viên (KTV) theo nghĩa vụ pháp định.
Các khái niệm trên đã phản ánh những đặc trưng cơ bản của kiểm toán
truyền thống. Đó là:
(1) Kiểm toán là sự kiểm tra và bày tỏ ý kiến về bản khai tài chính hoặc
các tài khoản của một tổ chức, cơ quan, đơn vị;
(2) Hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi những KTV có chuyên môn
nghiệp vụ, tiến hành độc lập;
(3) Hoạt động kiểm toán nhằm đánh giá tính trung thực, phù hợp của các
thông tin so với những tiêu chuẩn đã được thiết lập;
(4) Thông tin kiểm toán được trình bày theo một hình thức nhất định.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của hoạt động kiểm toán, sự đa dạng
của các loại hình kiểm toán, khái niệm kiểm toán đã được mở rộng, vượt ra khỏi
khuôn khổ quan niệm truyền thống, đó là: không chỉ kiểm toán đối với các bản
9


khai tài chính, các tài khoản mà còn bao gồm kiểm toán việc tuân thủ pháp luật
và kiểm toán đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý, sử
dụng các nguồn lực của một tổ chức, cơ quan, đơn vị. ở một số quốc gia, hoạt
động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) còn bao gồm kiểm toán môi
trường, kiểm toán nhân sự, kiểm toán trách nhiệm kinh tế .v.v... Từ đó có thể
thấy, đối tượng và nội dung kiểm toán ngày càng phát triển sâu, rộng tuỳ theo
yêu cầu quản lý và nhu cầu thông tin được kiểm tra, xác nhận.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “kiểm toán” mới xuất hiện và được sử dụng vào

đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Vì ra đời muộn hơn so với đa số các nước khác
trên thế giới, nên ở Việt Nam kiểm toán nói chung và khái niệm kiểm toán nói
riêng đã kế thừa sự phát triển của kiểm toán trên thế giới. Dẫu vậy, ở Việt Nam
xung quanh khái niệm kiểm toán vẫn có nhiều ý kiến khác nhau.
Luật Kiểm toán nhà nước của Việt Nam đưa ra khái niệm về kiểm toán
như sau: Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước là việc kiểm tra, đánh
giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính; việc tuân thủ
pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước.
Từ nghiên cứu sự phát triển của các hoạt động kiểm toán và từ các khái
niệm nêu trên, có thể hiểu khái niệm về kiểm toán như sau:
Kiểm toán là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung
thực của các thông tin; kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ pháp luật và tính kinh tế,
tính hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng các nguồn lực do một chủ thể độc
lập, có năng lực chuyên môn phù hợp (kiểm toán viên, tổ chức kiểm toán) thực
hiện trên cơ sở các quy định nghề nghiệp.
1.1.2.2. Khái niệm, nội dung quản lý chất lượng kiểm toán của Kiểm toán
Nhà nước.
Quản lý chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp
được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng."Quản lý được hiểu là tổng
hợp những phương sách để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách thể
quản lý" [8, tr.12]. Quản lý có thể theo nhiều chiều: cấp trên quản lý cấp dưới
10


bằng chính sách hoặc biện pháp, đơn vị này quản lý đơn vị khác thông qua việc
chi phối về quyền sở hữu và lợi ích; nội bộ trong đơn vị quản lý lẫn nhau qua
quy chế, quy định và thủ tục quản lý ...
Trong hoạt động kiểm toán nhà nước, “quản lý chất lượng là thuật ngữ
hàm chứa các chính sách và thủ tục được cơ quan KTNN sử dụng nhằm bảo

đảm công việc kiểm toán được thực hiện với chất lượng cao” [57, tr.7]. Như
vậy, quản lý chất lượng kiểm toán trong nội bộ cơ quan KTNN là các chính
sách, thủ tục điều chỉnh, hướng hoạt động kiểm toán tới chất lượng và hiệu quả;
đồng thời gắn liền và thuộc cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động kiểm toán của
KTNN. Do đó, trong hoạt động kiểm toán nhà nước có thể hiểu: “Quản lý chất
lượng kiểm toán là thuật ngữ hàm chứa các chính sách và thủ tục được sử dụng
để quản lý, điều hành hoạt động kiểm toán tuân thủ đúng các nguyên tắc, chuẩn
mực nghề nghiệp hiện hành và các tiêu chí chất lượng theo quy định của
KTNN”.
Từ khái niệm trên, quản lý chất lượng kiểm toán có những nội dung sau:
* Lập kế hoạch quản lý chất lƣợng kiểm toán
Để hoạt động quản lý chất lượng kiểm toán đạt kết quả cao, bước đầu tiên
là phải xây dựng được kế hoạch quản lý chi tiết ngay từ đầu mỗi chu kỳ. Các
vấn đề chính trong xây dựng được kế hoạch quản lý bao gồm:
- Lập chiến lược, kế hoạch hoạt động trung hạn, ngắn hạn và hàng năm
của quản lý chất lượng kiểm toán;
- Quy định về lập, xét duyệt, phát hành kế hoạch kiểm toán năm, kế hoạch
cuộc kiểm toán, kế hoạch kiểm toán chi tiết, chương trình kiểm toán;
- Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Xây dựng kế hoạch nhu cầu KTV cho từng đơn vị; Kế hoạch nhân sự
kiểm toán phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi thực hiện.
* Tổ chức thực hiện quản lý chất lƣợng kiểm toán
Đây là giai đoạn quan trọng trong nội dung quản lý chất lượng kiểm toán,
kết quả thực hiện quản lý chất lượng kiểm toán có ảnh hưởng quyết định đến
chất lượng kiểm toán. Trong giai đoạn này, quản lý chất lượng kiểm toán phải
11


được tiến hành đồng thời, phù hợp theo từng bước công việc và từng thủ tục
kiểm toán.

Các vấn đề chính cần quản lý chất lượng kiểm toán là:
- Việc xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách, thủ tục quản lý chất
lượng kiểm toán của KTNN và các KTNN chuyên ngành (khu vực);
- Tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống bộ máy quản lý chất lượng
kiểm toán của KTNN và KTNN chuyên ngành (khu vực).
- Quy định các hình thức quản lý chất lượng kiểm toán
Các chính sách và thủ tục mà KTNN phải thiết kế và thực hiện thường là:
Thứ nhất, kỹ năng và năng lực chuyên môn, gồm các chính sách và thủ
tục chủ yếu sau:
- Tuyển dụng (cơ cấu ngành nghề, yêu cầu trình độ, năng lực);
- Đào tạo chuyên môn (đào tạo theo ngạch, bậc, chức danh, thiết lập
chương trình đào tạo, kiểm tra định kỳ, đào tạo chuyên gia...);
- Đề bạt (thiết lập tiêu chuẩn từng cấp: Kiểm toán trưởng, Trưởng Đoàn
kiểm toán, Phó Trưởng Đoàn kiểm toán, Tổ trưởng; ngạch bậc: KTV dự bị,
KTV, KTV chính, KTV cao cấp);
- Khuyến khích phát triển nghề nghiệp;
- Đánh giá kết quả công tác của cán bộ, KTV theo định kỳ.
Thứ hai, tuân thủ nguyên tắc nghề nghiệp:
- Quy định cụ thể về các nguyên tắc nghề nghiệp; các ví dụ thực tiễn có
liên quan;
- Tổ chức phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện những chính sách
và thủ tục liên quan đến việc tuân thủ các nguyên tắc nghề nghiệp;
- Thiết lập cơ chế quan hệ, thông tin với đơn vị được kiểm toán, với các
cơ quan hữu quan, với công chúng để thu nhận phản hồi về hành vi của KTV.
Thứ ba, Giao việc:
- Bố trí nhân lực, phân công nhiệm vụ cho KTV phải phù hợp với số
lượng KTV hiện có; quy mô và tính phức tạp của cuộc kiểm toán; trình độ, năng

12



lực, kinh nghiệm, sở trường của KTV; không có xung đột lợi ích hoặc những
yếu tố khác có thể cản trở KTV thực hiện nhiệm vụ...;
- Đảm bảo tính liên tục, luân phiên theo định kỳ và đào tạo cán bộ;
- Đảm bảo tính độc lập, như: không phân công những KTV có quan hệ
kinh tế hoặc họ hàng với ban lãnh đạo đơn vị được kiểm toán;
Thứ tư, chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát:
- Phân cấp trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát;
- Hướng dẫn về quy trình, thủ tục kiểm toán, mẫu biểu hồ sơ kiểm toán;
- Ban hành các sổ tay hướng dẫn, cẩm nang;
- Hướng dẫn kế hoạch kiểm toán và các vấn đề chuyên môn trước khi
kiểm toán;
- Thực hiện giám sát ở mọi cấp; thủ tục bảo lưu ý kiến, giải quyết ý kiến
bảo lưu của KTV;
- Khuyến khích trao đổi kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng trong các đơn
vị, đoàn, tổ kiểm toán.
Thứ năm, tham khảo ý kiến chuyên gia:
- Quy định về những lĩnh vực, tình huống, trình tự, thủ tục tham khảo ý
kiến tư vấn của chuyên gia hoặc người có thẩm quyền, hội đồng tư vấn;
- Phân công cán bộ theo dõi, cập nhật kiến thức, thông tin về từng ngành,
nghề;
- Lưu trữ tài liệu về kết quả tham khảo ý kiến chuyên gia;
- Hội thảo chuyên môn có sự tham gia của các chuyên gia.
Thứ sáu, Bồi dưỡng kiến thức cho KTV:
- Bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên về kiến thức, các chính sách, chế
độ... cho KTV;
- Giao trách nhiệm bồi dưỡng kiến thức cho một bộ phận;
- Tập huấn, phổ biến những văn bản chế độ, chính sách mới, đặc thù liên
quan đến cuộc kiểm toán.
Thứ bảy, Sử dụng tài liệu của KTV khác:

- Quy định về các trường hợp và trách nhiệm khi sử dụng tài liệu, kết quả
13


làm việc của cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán khác;
- Lưu trữ tài liệu tham khảo của cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán
khác.
Thứ tám, Tài liệu hoá công việc và lưu trữ:
- Chuẩn hoá và mẫu biểu hoá các tài liệu liên quan
- Quy định về tài liệu lưu trữ.
Các hình thức quản lý chất lượng kiểm toán gồm
Phân loại theo chủ thể quản lý: Theo chủ thể quản lý, có quản lý từ bên
trong và quản lý từ bên ngoài.
+ Quản lý từ bên trong là hình thức tự quản lý chất lượng kiểm toán do
chủ thể của hoạt động kiểm toán (đơn vị kiểm toán: KTNN chuyên ngành và
KTNN khu vực; đơn vị lập báo cáo kiểm toán năm...) thực hiện. Việc quản lý
chất lượng kiểm toán là trách nhiệm mà các đơn vị này phải thực hiện để bảo
đảm hoạt động kiểm toán được tiến hành đúng theo các nguyên tắc, chuẩn mực,
quy trình và các quy định của KTNN.
+ Quản lý từ bên ngoài là hình thức quản lý chất lượng kiểm toán do một
đơn vị khác, độc lập với chủ thể của hoạt động kiểm toán thực hiện.
Đơn vị khác ở đây có thể là đơn vị chuyên trách của KTNN (độc lập với
các KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực) hay là một tổ chức khác ngoài
KTNN (cơ quan KTNN khác, công ty kiểm toán độc lập, hội nghề nghiệp...).
Nếu nhìn nhận cơ quan KTNN là một chủ thể thì quản lý do đơn vị kiểm toán
hay do đơn vị độc lập với đơn vị kiểm toán, nhưng thuộc bộ máy KTNN thực
hiện đều cùng là nội kiểm; còn ngoại kiểm là quản lý do đơn vị độc lập với
KTNN tiến hành.
Phân loại theo thời điểm quản lý, có 2 loại: quản lý trong quá trình và
quản lý hồ sơ.

+ Quản lý trong quá trình là hình thức quản lý chất lượng kiểm toán trong
khi thực hiện hoạt động kiểm toán (quản lý các giai đoạn của quy trình kiểm
toán). Hình thức quản lý này còn có các tên gọi khác như: quản lý “nóng”, quản
lý đồng thời, quản lý trực tiếp.
14


+ Quản lý hồ sơ là hình thức quản lý chất lượng kiểm toán sau khi báo
cáo kiểm toán được phát hành, dựa trên hồ sơ kiểm toán. Hình thức này thường
được thực hiện sau khi cuộc kiểm toán kết thúc có mục đích chủ yếu là đánh giá
chất lượng các cuộc kiểm toán đã hoàn thành, hiệu lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống quản lý chất lượng kiểm toán, rút ra các bài học kinh nghiệm, từ đó
xây dựng các biện pháp để củng cố, tăng cường, hoàn thiện hoạt động quản lý
chất lượng kiểm toán.
* Kiểm tra, giám sát chất lƣợng kiểm toán
Quản lý chất lượng kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán.
Kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán thực hiện kết luận, kiến nghị
kiểm toán là giai đoạn cuối cùng của quy trình quản lý chất lượng kiểm toán,
nhằm bảo đảm kết quả của cuộc kiểm toán có tác dụng và hiệu lực trong thực
tiễn; đồng thời cũng qua đó xác định lại tính đúng đắn, khả thi của những kết
luận, kiến nghị kiểm toán và nguyên nhân của những sai sót có thể có trong kết
luận kiểm toán, từ đó có giải pháp sửa chữa, khắc phục.
Nội dung chính cần quản lý giai đoạn này là:
- Quy định trách nhiệm kiểm tra, quản lý của các cấp đối với quá trình
thực hiện công việc của cấp dưới;
- Trình tự thông qua kế hoạch kiểm toán, biên bản kiểm toán, báo cáo
kiểm toán;
- Thiết lập hệ thống và nội dung kiểm tra, quản lý chất lượng kiểm toán,
đạo đức nghề nghiệp KTV;
- Yêu cầu về trình độ, năng lực chuyên môn của người kiểm tra, quản lý.

- Chuẩn mực về báo cáo kiểm toán:
- Các nguyên tắc, yêu cầu, tiêu chí của biên bản kiểm toán, báo cáo kiểm
toán;
- Mẫu biểu biên bản kiểm toán, báo cáo kiểm toán.
Ngoài việc thiết kế và vận hành, để đánh giá sự phù hợp và hiệu lực, hiệu
quả của các chính sách, thủ tục quản lý chất lượng kiểm toán KTNN phải
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện trên thực tế thông qua hình thức quản lý
15


trực tiếp thực tế hoạt động (đang tiến hành) hoặc quản lý gián tiếp qua hồ sơ
kiểm toán (sau khi hoạt động kết thúc). Đồng thời, định kỳ tiến hành rà soát,
đánh giá lại các chính sách, thủ tục và biện pháp quản lý chất lượng kiểm toán,
nhằm phát hiện kịp thời khoảng cách giữa thực tế với chính sách (tức là các hạn
chế, thiếu sót, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách), xác định các nhân tố
tạo ra khoảng cách này (tức là nguyên nhân của hạn chế bất cập), từ đó có giải
pháp điều chỉnh phù hợp.
- Việc kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán có thực hiện đầy
đủ các nội dung và phù hợp với quy trình, chuẩn mực kiểm toán của KTNN;
- Báo cáo kết quả kiểm tra thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán có đầy
đủ những nội dung kiến nghị kiểm toán và tình hình thực hiện của đơn vị được
kiểm toán; nguyên nhân chưa thực hiện (nếu có); những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện;
- Các ý kiến trình bày trong báo cáo kiểm tra có dựa trên các bằng chứng
đầy đủ, thích hợp;
- Các kiến nghị xử lý những tồn tại trong thực hiện các kiến nghị kiểm
toán có thoả đáng và có tính thực tiễn.
1.2. Tiêu chí quản lý chất lƣợng kiểm toán
Để đảm bảo tính độc lập trong hoạt động KTNN- yếu tố quan trọng nhất
ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, nhóm yếu tố bên ngoài KTNN (khách

quan đối với KTNN), như: địa vị pháp lý, ngân sách và cơ chế bổ nhiệm Lãnh
đạo KTNN, cần phải được quản lý bởi Hiến pháp và hệ thống pháp luật của mỗi
quốc gia. Sự độc lập về địa vị pháp lý của KTNN, ngân sách hoạt động của
KTNN và cơ chế bổ nhiệm Lãnh đạo KTNN là tiêu chí quản lý then chốt và toàn
diện đối với nhóm yếu tố bên ngoài KTNN nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động
KTNN nói chung.
Đối với nhóm yếu tố bên trong KTNN (thuộc về chủ quan của cơ quan
KTNN), mỗi cơ quan KTNN, tùy theo đặc điểm hoạt động mà có những tiêu chí
quản lý chất lượng kiểm toán cụ thể khác nhau. Các tiêu chí quản lý chất lượng
kiểm toán của cơ quan KTNN được biểu hiện cụ thể ở các chính sách và thủ tục
16


quản lý chất lượng kiểm toán và các nội dung quản lý theo từng giai đoạn của
cuộc kiểm toán.
Qua nghiên cứu cho thấy, các cơ quan KTNN thường áp dụng các tiêu chí
quản lý chất lượng kiểm toán sau:
- Kỹ năng và năng lực chuyên môn: KTV được giao nhiệm vụ phải có đủ
trình độ nghiệp vụ, năng lực để đáp ứng được yêu cầu công việc và hoàn thành
được trách nhiệm của mình.
- Tuân thủ nguyên tắc nghề nghiệp: KTV phải luôn có ý thức trách nhiệm
thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc nghề nghiệp, như: chính trực, độc lập,
khách quan, thận trọng, bảo mật và chuẩn mực, quy trình chuyên môn, các quy
định của KTNN.
- Giao việc: Công việc kiểm toán chỉ được phân công cho những KTV
được đào tạo, có đủ năng lực thực hiện, bảo đảm sự thích hợp giữa yêu cầu công
việc và khả năng thực hiện của KTV.
- Chỉ đạo, hướng dẫn và giám sát: Cần có sự hướng dẫn chu đáo, chỉ đạo
và giám sát chặt chẽ ở mọi cấp độ để bảo đảm các công việc được thực hiện trôi
chảy, đúng kế hoạch và chất lượng, phù hợp với chuẩn mực, quy trình chuyên

môn và các quy định của KTNN. Kế hoạch kiểm toán của đoàn kiểm toán, kế
hoạch kiểm toán chi tiết của tổ kiểm toán và chương trình kiểm toán là cơ sở để
cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn và quản lý KTV thực hiện công việc- Tham khảo ý
kiến chuyên gia: Trong quá trình kiểm toán có thể gặp phải những vấn đề khó
khăn, gây tranh cãi, khi đó cần phải lấy ý kiến tư vấn từ trong nội bộ (tổ, đoàn
kiểm toán, KTNN) và chuyên gia.
- Bồi dưỡng kiến thức cho KTV: KTV phải được bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn và chính sách pháp luật phù hợp, cũng như những vấn đề đặc thù
của đối tượng kiểm toán trước khi thực hiện cuộc kiểm toán.
- Kế hoạch hóa công việc: các công việc của cuộc kiểm toán đều phải
được kế hoạch hoá một cách chặt chẽ về mọi mặt, như: thời gian, nhân sự, chi
phí… bao gồm cả kế hoạch tổng thể, chi tiết, kế hoạch cá nhân, tập thể.
- Sử dụng tài liệu của KTV khác: KTV nhà nước phải chịu trách nhiệm về
17


việc sử dụng tài liệu của KTV khác, như: KTV nội bộ, KTV độc lập… đồng thời
phải bảo đảm độ tin cậy khi sử dụng các tài liệu đó.
- Tài liệu hoá công việc và lưu trữ: Mọi công việc đều phải được chuẩn
hoá thành các tài liệu chuyên môn và được công khai, phổ biến đến các KTV,
được lưu trữ khoa học nhằm mục đích thuận tiện cho thực hiện nhiệm vụ, kiểm
tra, quản lý và tổng hợp thông tin, hạn chế rủi ro.
- Kiểm tra, quản lý: các bước công việc của quy trình kiểm toán, các công
việc phải thường xuyên được kiểm tra, quản lý theo các quy chế và thủ tục quản
lý chất lượng kiểm toán. Các thành viên đoàn kiểm toán phải tự kiểm tra, soát
xét công việc mình làm; Tổ trưởng tổ kiểm toán phải kiểm tra, soát xét công
việc của các thành viên; Trưởng Đoàn kiểm toán phải kiểm tra, soát xét công
việc của các tổ kiểm toán; Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành (khu vực)
phải kiểm tra, soát xét công việc của các đoàn kiểm toán.
- Chuẩn mực về báo cáo kiểm toán: biên bản kiểm toán, báo cáo kiểm

toán phải bảo đảm các chuẩn mực về báo cáo kiểm toán có hiệu lực và phù hợp
với các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến.
1.3. Kinh nghiệm quản lý chất lƣợng kiểm toán của một số nƣớc và
bài học cho KTNN ở VN
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý chất lượng kiểm toán của một số nước
* Kinh nghiệm Cộng hoà Liên bang Đức
Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kiểm toán nói chung và quản lý chất
lượng kiểm toán nói riêng của KTNN cộng hoà liên bang Đức là nguyên tắc
quyết định tập thể. Nguyên tắc này có nghĩa là tất cả các vấn đề nghiệp vụ kiểm
toán đều do những uỷ viên kiểm toán (Chủ tịch, Phó chủ tịch, các Vụ trưởng và
các Trưởng phòng kiểm toán; các uỷ viên kiểm toán có quyền độc lập như thẩm
phán, được Hiến pháp đảm bảo) cùng nhau quyết định theo đa số hoặc 100%.
Hội đồng phòng hai người là hội đồng bao gồm Trưởng phòng và Vụ trưởng.
Nếu Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch KTNN liên bang tham gia vào thành phần của
Hội đồng phòng hai người thì sẽ trở thành Hội đồng phòng ba người. Những hội
đồng này ra quyết định theonguyên tắc đồng thuận (100% đồng ý). Trường hợp
18


khi thông qua một nghị quyết trong Hội đồng phòng mà không có sự nhất trí
100% thì một uỷ viên có thể đề nghị thông qua một hội đồng cao hơn, mà Vụ
nào cũng thành lập, gọi là Hội đồng Vụ. Thành viên Hội đồng Vụ là Vụ trưởng
và tất cả các Trưởng phòng thuộc Vụ đó và một Trưởng phòng khác. Chủ tịch
hoặc Phó chủ tịch có thể tham gia vào các Hội đồng Vụ. Hội đồng Vụ ra nghị
quyết theo nguyên tắc đa số. Trên thực tế của KTNN liên bang Đức, Hội đồng
Vụ rất ít nhóm họp, vì tất cả các uỷ viên đều phấn đấu để đạt được sự nhất trí
100% ở cấp Hội đồng phòng. Cơ quan quyết định cao nhất là Đại hội đồng,
gồm: Chủ tịch và Phó chủ tịch, 9 Vụ trưởng của 9 Vụ kiểm toán, 3 Trưởng
phòng kiểm toán, báo cáo viên và đồng báo cáo viên; tổng cộng là 16 thành
viên.

Trưởng phòng kiểm toán lãnh đạo cuộc kiểm toán trên cơ sở những quyết
định của Hội đồng phòng. Để lãnh đạo công tác kiểm toán, Trưởng phòng cũng
tham gia vào việc chuẩn bị và thực hiện kiểm toán, đặc biệt là phải tham gia vào
các cuộc kiểm tra thực địa (kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán) và vào công
tác kết thúc các cuộc kiểm tra này (thông báo kết quả kiểm toán sơ bộ với đơn vị
được kiểm toán, sau khi kết thúc kiểm toán tại đơn vị).
- Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, Trưởng phòng kiểm toán và các
KTV phải thu thập và nghiên cứu những thông tin cần thiết để xây dựng kế
hoạch kiểm toán; trong đó phải xác định mục tiêu và trọng tâm kiểm toán. Kế
hoạch kiểm toán phải được Hội đồng phòng thông qua.
- Giai đoạn thực hiện kiểm toán: trên cơ sở kế hoạch kiểm toán, KTV phải
chịu trách nhiệm kiểm toán đúng và đầy đủ các nội dung, quyết định các thủ tục
kiểm toán và các bước công việc, thực hiện ghi chép hồ sơ kiểm toán. KTV phải
chú ý đến cả những vấn đề nằm ngoài đối tượng và kế hoạch kiểm toán, nếu nó
có ý nghĩa đối với việc hoàn thành nhiệm vụ. KTV phải báo cáo kịp thời cho
Trưởng phòng kiểm toán về những phát hiện quan trọng và những thông tin thu
thập được có khả năng làm thay đổi kế hoạch kiểm toán. Những thay đổi quan
trọng so với kế hoạch kiểm toán phải do Hội đồng phòng quyết định. Trong quá
trình kiểm toán, KTV phát hiện những sự việc vi phạm pháp luật phải báo cáo
19


kịp thời cho Trưởng phòng kiểm toán trước khi trao đổi với đơn vị được kiểm
toán và cơ quan liên quan khác. Hội đồng phòng quyết định về các bước xử lý
tiếp theo.
- Giai đoạn kết thúc kiểm toán, lập hồ sơ kiểm toán: sau khi kết thúc giai
đoạn thực hiện kiểm toán, KTV tiến hành soạn thảo hồ sơ kiểm toán- đó là hồ sơ
ghi lại đối tượng, diễn biến và kết quả của cuộc kiểm toán. Nếu có nhiều KTV
cùng tham gia dự thảo, thì phải ghi rõ ai chịu trách nhiệm phần nào của dự thảo
hồ sơ kiểm toán.Hồ sơ kiểm toán bao gồm: Ghi nhớ kiểm toán, Thông báo kết

quả kiểm toán và Công văn kèm theo.
Trong quá trình lập hồ sơ kiểm toán, KTV và Trưởng phòng thường
xuyên có sự trao đổi để có sự đồng thuận ngay trong quá trình lập hồ sơ, nhất là
những vấn đề liên quan đến chính trị nhạy cảm.Hồ sơ kiểm toán cùng các giấy
tờ làm việc của KTV (biên bản phỏng vấn, các bản sao hợp đồng, các quy định
quản lý, ghi nhớ của đơn vị được kiểm toán…) được trình lên Trưởng phòng và
Vụ trưởng.Hội đồng phòng sẽ quyết định kết quả kiểm toán. Nếu hồ sơ kiểm
toán do KTV dự thảo phải thay đổi về nội dung thì phải cho KTV được trình bày
về những nội dung này. KTV có thể bổ sung ý kiến thay đổi của mình trong một
ghi chú.
Thông báo kết quả kiểm toán được gửi đến đơn vị được kiểm toán để lấy
ý kiến, thông thường thời hạn cho ý kiến không quá 3 tháng. Sau khi nhận được
ý kiến phản hồi, KTV phải đánh giá những ý kiến đó (nếu cần thiết có thể đến
đơn vị được kiểm toán để kiểm tra lại) và kịp thời trình hồ sơ kiểm toán đã chỉnh
lý cho Hội đồng phòng xét duyệt.Kết quả xem xét ý kiến phản hồi sẽ được thông
báo, trả lời cho đơn vị được kiểm toán biết.
- Kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán: KTNN liên bang Đức không
thực hiện kiểm tra việc thực hiện kiến nghị kiểm toán đối với tất cả các đơn vị
đã được kiểm toán, vì không có đủ người. Việc kiểm tra thực hiện kiến nghị
kiểm toán thông qua các cuộc kiểm toán sau đó (kiểm toán phúc tra, kiểm toán
trọng điểm…). Thực tế cũng có những đơn vị không thực hiện kiến nghị kiểm
toán; và vấn đề đó sẽ được KTNN liên bang báo cáo Quốc hội thông qua báo
20


cáo hàng năm hoặc báo cáo đặc biệt.
* Kinh nghiệm Hàn Quốc
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn
Quốc (BAI) có Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán thuộc Vụ Pháp chế và
Quản lý chất lượng chịu trách nhiệm thực hiện công tác quản lý chất lượng kiểm

toán. Về nhân lực thực hiện nhiệm vụ quản lý chất lượng kiểm toán, BAI không
có quy định cụ thể về trình độ chuyên môn đối với cán bộ quản lý chất lượng
kiểm toán. Trên thực tế, cán bộ của đơn vị này là những người có kiến thức cao
và nhiều kinh nghiệm về hoạt động kiểm toán.
Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán có chức năng quản lý chất lượng
kiểm toán đối với mọi giai đoạn của quy trình kiểm toán, gồm: lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, thực tế Phòng
Quản lý chất lượng kiểm toán của BAI tập trung vào việc thẩm tra tính chính
xác và phù hợp của báo cáo kiểm toán theo các nội dung chủ yếu sau:
- Tính phù hợp của các báo cáo kiểm toán;
- Tính chính xác và tính đầy đủ pháp lý của các phát hiện, kết luận kiểm toán;
- Tính thích hợp của các bằng chứng kiểm toán, tài liệu kiểm toán;
- Bố cục trình bày.
Các phòng nghiệp vụ có trách nhiệm dự thảo báo cáo kiểm toán trình Vụ
trưởng xem xét, sau đó chuyển cho Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán thẩm
định. Cán bộ của Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán thẩm định các báo cáo
kiểm toán và bằng chứng kiểm toán, tài liệu liên quan. Nếu thấy những điểm
chưa phù hợp, cán bộ của Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán có thể trao đổi
với các Vụ hoặc Phòng nghiệp vụ để sửa đổi hoặc điều chỉnh các báo cáo kiểm
toán. Sau khi trao đổi, nếu vấn đề không giải quyết được, Phòng Quản lý chất
lượng kiểm toán sẽ lập báo cáo ý kiến thẩm định trình Vụ trưởng Vụ Pháp chế
và Quản lý chất lượng kiểm toán để trình lãnh đạo BAI xem xét, quyết định.
Nếu ý kiến thẩm định của Phòng Quản lý chất lượng kiểm toán về báo cáo kiểm
toán là hợp lý, lãnh đạo BAI sẽ yêu cầu Phòng, Vụ nghiệp vụ liên quan sửa đổi,
điều chỉnh báo cáo kiểm toán.
21


1.3.2. Những bài học kinh nghiệm cho KTNN Việt Nam
Từ các hướng dẫn về quản lý chất lượng kiểm toán của cộng hoà Liên

bang Đức, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra Hàn Quốc, có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm sau:
- Thứ nhất, KTNN phải ban hành đầy đủ, đồng bộ các chuẩn mực, quy
định về quản lý chất lượng kiểm toán để làm căn cứ cho quản lý chất lượng
kiểm toán. Hoạt động quản lý chất lượng kiểm toán liên quan đến nhiều cấp độ,
có yêu cầu cao, do đó cần phải có quy định cụ thể để tiêu chuẩn hoá các công
việc quản lý.
- Thứ hai, ngoài việc thiết lập, duy trì hiệu quả các chính sách, thủ tục cho
việc tự quản lý của các đoàn kiểm toán, KTNN chuyên ngành (khu vực), KTNN
cần thiết lập và duy trì hoạt động đơn vị chức năng độc lập thực hiện quản lý
chất lượng kiểm toán.
- Thứ ba, chức năng quản lý chất lượng kiểm toán là kiểm tra và giám sát,
đánh giá, kiến nghị xử lý để kịp thời ngăn chặn các sai phạm, yếu kém trong
hoạt động kiểm toán, giảm thiểu rủi ro kiểm toán.
- Thứ tư, quản lý chất lượng kiểm toán là hoạt động không thể thiếu được
trong quá trình kiểm toán, trong mỗi giai đoạn, mỗi bước công việc; công việc
của KTV phải được cấp cao hơn kiểm tra, soát xét lại. Đồng thời với quá trình
kiểm toán, KTV phải có trách nhiệm tự quản lý lại công việc mình đã làm để
bảo đảm đã thực hiện đầy đủ các thủ tục kiểm toán, các nội dung kiểm toán, các
bằng chứng kiểm toán là đầy đủ, đáng tin cậy.
- Thứ năm, cần phải có quy định cụ thể, xác định rõ nội dung, trách nhiệm
quản lý của từng cấp độ quản lý (từ quản lý của bản thân KTV đến quản lý ở cấp
cao nhất là lãnh đạo KTNN), trong từng giai đoạn của quá trình kiểm toán.
Trách nhiệm quản lý chất lượng kiểm toán trước hết thuộc về Trưởng đoàn kiểm
toán và phải thực hiện ngay trong từng bước của quá trình kiểm toán; sự quản lý
của cấp trên và các đơn vị chuyên trách chủ yếu sau khi đã kết thúc công việc
của từng giai đoạn.

22



Chƣơng 2
PHƢƠNG PHÁP VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Một cách tổng quát, luận văn áp dụng phương pháp luận nghiên cứu
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.Ngoài ra, ứng với từng câu hỏi nghiên
cứu trong đề tài và sử dụng các công cụ, phương pháp nghiên cứu phù hợp
như nghiên cứu tại bàn, kết hợp nghiên cứu thống kê định tính và nghiên
cứu định lượng.Phương pháp nghiên cứu định lượng cụ thể được sử dụng là
phân tích tương quan (correlation analysis) và phân tích hồi quy (regression
analysis). Phân tích định lượng có vai trò bổ sung, minh chứng (trong khả
năng dự liệu sẵn có) cho các kết quả phân tích định tính. Nói cách khác,
phân tích định lượng không phải là trọng tâm chính của luận văn này.
- Đề tài vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, các
quan điểm của Đảng, Chính phủ và các chính sách của Nhà nước.
- Để đạt được mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ đặt ra, đề tài sử dụng
phương pháp nghiên cứu hỗn hợp. Trong phương pháp này, tác giả đã sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính (Qualitative approach) mà cụ thể là phương
pháp tình huống (case study research) làm phương pháp nghiên cứu chính; sử
dụng phương pháp định lượng hỗ trợ thêm để làm sáng tỏ thêm vấn đề cần
nghiên cứu. Đây chính là dạng thiết kế hỗn hợp gắn kết.“Thiết kế hỗn hợp gắn
kết là dạng thiết kế trong đó một phương pháp (định tính hoặc định lượng) là
chính và phương pháp còn lại gắn vào với phương pháp chính.Như vậy, phương
pháp gắn kết (phụ) này đóng vai trò hỗ trợ thêm dữ liệu cho phương pháp chính”
(Nguyễn Đình Thọ, 2011, trang 198).
Trong phương pháp tình huống (case study research), công cụ tác giả lựa
chọn sử dụng để thu thập dữ liệu đó chính là khảo sát và quan sát (observation).
“Phân tích dữ liệu định tính là quá trình đi tìm ý nghĩa của dữ liệu”. Vì vậy, tác
giả tiến hành khảo sát các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý
tài chính, ngân sách và các cấp quản lý trong Kiểm toán Nhà nước và quan sát
đối tượng nghiên cứu để thu thập và phân tích dữ liệu. Ngoài phương pháp chủ

đạo nêu trên, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp
23


×