Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Quan điểm về con người trong đạo gia và ý nghĩa hiện thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRỊNH THÚY AN

QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƢỜI TRONG ĐẠO GIA VÀ
Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRỊNH THÚY AN

QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƢỜI TRONG ĐẠO GIA VÀ
Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Cảnh

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn
này chưa từng được trình nộp để lấy học vị thạc sĩ tại bất cứ trường đại học
nào. Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực,
trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây hoặc các nội
dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ
trong luận văn.
Nam Định ngày 11 tháng 11 năm 2015
Học viên

Trịnh Thúy An


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo trong Ban
Giám hiệu nhà trường; phòng Đào tạo sau Đại học; các phòng ban của
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
hướng dẫn, tạo điều kiện, giúp đỡ tôi để luận văn được hoàn thành.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban Chủ nhiệm khoa
Triết học, các thầy cô giáo trong khoa Triết học đã truyền đạt cho tôi kinh
nghiệm cũng như những kiến thức bổ ích, phương pháp làm việc nghiêm cứu
khoa học trong quá trình học tập. Đó là những nền tảng cơ bản để tôi có thể
hoàn thành được luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Văn Cảnh,
trưởng khoa Lí luận chính trị, trường Đại học Công Đoàn, người thầy đã tận
tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Sự hướng dẫn, chỉ bảo ân cần nhiệt tình của thầy trong suốt thời gian qua là
nhân tố quan trọng để luận văn của tôi thành công.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã

luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1: BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ TỔNG QUAN VỀ TƢ TƢỞNG
TRIẾT HỌC CỦA ĐẠO GIA ........................................................................ 9
1.1. Bối cảnh ra đời và sự phát triển của Đạo gia ........................................ 9
1.1.1. Bối cảnh ra đời của Đạo gia ................................................................... 9
1.1.2. Sự phát triển của Đạo gia ..................................................................... 16
1.2. Tổng quan về tƣ tƣởng triết học của Đạo gia ...................................... 20
1.2.1. Học thuyết về Đạo và Đức .................................................................... 20
1.2.2. Tư tưởng vô vi ....................................................................................... 27
1.2.3. Tư tưởng biện chứng ............................................................................. 32
1.2.4. Quan điểm về chính trị - xã hội............................................................. 39
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 43
Chƣơng 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƢỜI TRONG ĐẠO GIA ............ 44
2.1. Nguồn gốc và bản chất của con ngƣời .................................................. 44
2.2. Vấn đề nhận thức ................................................................................... 49

2.3. Quan niệm về đạo đức con ngƣời ......................................................... 56
2.4. Cách hành động của con ngƣời trong thế giới .................................... 60
2.4.1. Học thuyết “vô vi nhi trị” ..................................................................... 60


2.4.2. Phép xử thế ......................................................................................... 63
2.4.3. Phép dưỡng sinh ................................................................................. 71
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 77
Chƣơng 3: Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƢỜI
TRONG ĐẠO GIA ........................................................................................ 79
3.1. Khái quát ảnh hƣởng của Đạo gia ở Việt Nam ................................... 79
3.2. Một số vấn đề về con ngƣời Việt Nam hiện nay .................................. 85
3.3. Ý nghĩa đối với nhận thức và thực tiễn về vấn đề con ngƣời ở Việt
Nam hiện nay ................................................................................................. 90
3.3.1. Về mặt nhận thức................................................................................... 90
3.3.2. Về mặt thực tiễn..................................................................................... 94
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................ 104
KẾT LUẬN .................................................................................................. 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 107


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU
∆x: sai số của phép đo vị trí
∆Px: sai số của phép đo động lượng

h: hằng số Plank


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong lịch sử phát triển văn minh, văn hóa nhân loại, vấn đề con người
và tương lai con người luôn giữ vị trí trung tâm và trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học nhau, đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn
nhưng xét thấy chỉ có triết học mới nhận thức con người một cách toàn diện
trong tính chỉnh thể của nó. Những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về con
người như: Nguồn gốc, bản chất con người là gì? Con người nhận thức về thế
giới này và về bản thân mình như thế nào? Hay vai trò của con người trong sự
phát triển của nhân loại ra sao? Có thể nói vấn đề con người là vấn đề xưa cũ,
song nó luôn luôn được đặt ra đối với mọi thời đại và luôn luôn được làm mới
mẻ. Trong dòng chảy phát triển của lịch sử triết học nhân loại, chúng ta không
thể không nhắc đến Trung Quốc. Cùng với Ấn Độ, Trung Quốc là cái nôi của
nền văn minh phương Đông nói riêng và nhân loại nói chung. Trải qua quá
trình hình thành và phát triển lâu dài, lịch sử triết học Trung Quốc nói chung
và Trung Quốc cổ đại nói riêng bao hàm một nội dung cực kì phong phú với
hệ thống triết học rộng lớn và sâu sắc, đặc biệt là những nội dung nghiên cứu
về vấn đề con người. Đây được coi là vấn đề trung tâm, nổi bật trong lịch sử
tư tưởng Trung Quốc. Con người là tâm điểm cho việc hình thành thế giới quan
và lí giải vấn đề nhân sinh quan, chính trị, luân lí xã hội của các trường phái
triết học Trung Quốc cổ đại. Tâm điểm ấy chủ yếu bị quy định bởi điều kiện
lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và tư tưởng văn hóa Trung Quốc thời Xuân
Thu - Chiến Quốc. Trong thời kì “Bách gia chư tử” đó, cùng với các trường
phái khác, Đạo gia cũng góp một phần công lao trong việc nghiên cứu nguồn
gốc, bản tính con người và đưa ra những giải pháp khác nhau trong việc cải hóa
con người từ ác trở về thiện, xây dựng xã hội thịnh trị. Nếu bỏ qua những hạn
chế về lịch sử thì đó là những tư tưởng tiến bộ và là những bài học lịch sử sâu
sắc, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng con người ngày nay.

1



Trong lịch sử, Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có mối quan hệ
lâu đời, có sự giao lưu và ảnh hưởng về nhiều mặt rõ rệt. Những tư tưởng triết
học của Trung Quốc từ lâu đã du nhập và bén rễ trong đời sống kinh tế, chính
trị, văn hóa và tinh thần người Việt. Đạo gia du nhập vào Việt Nam chủ yếu
bằng con đường của Đạo giáo. Tuy nhiên những tư tưởng triết học nhân sinh
của Đạo gia luôn có sức ảnh hưởng không nhỏ tới bản sắc văn hóa Việt. Vì
thế việc nghiên cứu những quan điểm về con người trong Đạo gia chẳng
những góp phần nâng cao sự hiểu biết về tư tưởng triết học phái Đạo gia, mà
còn góp phần tìm hiểu những ý nghĩa hiện thời của nó đối với Việt Nam. Đặc
biệt trong bối cảnh nước ta hiện nay, cơ chế thị trường cùng với sự phát triển
vượt bậc của khoa học kĩ thuật đang ngày càng thể hiện rõ rệt mặt tiêu cực
của nó. Con người ngày càng bị cuốn theo những cám dỗ của cuộc sống hiện
đại mà quên đi những giá trị chân thực của bản chất người, khi nạn ô nhiễm
môi trường đang hoành hành, thiên nhiên đang kêu cứu, xã hội hiện đại đã
xuất hiện sự mất thăng bằng giữa lĩnh vực vật chất và tinh thần, con người
đang dần bị tha hóa và đánh mất nhân tính bởi danh, lợi, dục vọng… thì việc
tìm hiểu và vận dụng những ý nghĩa của quan điểm về con người của Đạo gia
đối với vấn đề con người trong giai đoạn hiện nay trên các phương diện nhận
thức cũng như thực tiễn là việc làm rất có ý nghĩa và mang tính cấp thiêt. Vì
vậy, với việc lựa chọn đề tài "Quan điểm về con người trong Đạo gia và ý
nghĩa hiện thời của nó", tác giả của luận văn mong muốn được góp một phần
nhỏ bé nhưng hữu ích vào việc nâng cao hiểu biết quan điểm của Đạo gia về
con người và ý nghĩa hiện thời của nó đối với vấn đề con người nói chung và
ở Việt Nam nói riêng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tìm hiểu Đạo gia là một vấn đề không mới nhưng tìm hiểu vấn đề con
người trong Đạo gia thì lại là một nội dung chưa được nghiên cứu sâu rộng.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu vấn đề con người trong Đạo gia bấy lâu nay

2



cũng đã được quan tâm. Tuy nhiên ở nước ta cho tới nay hãy còn chưa có một
chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề con người
trong Đạo gia, đặc biệt là ý nghĩa hiện thời của nó.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu chuyên khảo về vấn đề con người trong
Đạo gia nhìn chung vẫn còn thiếu tính hệ thống và chưa có một chuyên khảo
riêng về vấn đề này. Tuy đã có một số tác giả đề cập đến vấn đề này nhưng nó
chỉ xuất hiện với tư cách là một khía cạnh, một mặt trong toàn bộ nội dung
nghiên cứu chung. Trong những năm gần đây, có rất nhiều những công trình
như vậy. Trong đó một số tác giả đáng chú ý như: Doãn Chính, Vũ Minh Tâm,
Phùng Hữu Lan, Nguyễn Hiến Lê... Đó là những người đã đi sâu nghiên cứu về
triết học Trung Quốc, triết học sử Trung Quốc, văn học sử Trung Quốc, trong
đó vấn đề con người trong triết học Đạo gia cũng đã được đề cập đến.
PGS.TS Doãn Chính là tác giả của một số cuốn sách và nhiều bài
nghiên cứu đáng chú ý về triết học Trung Quốc qua các thời kì lịch sử. Ví dụ
như cuốn "Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc" (2004), Nxb Chính trị
Quốc gia. Trong công trình này, ở chương II: Triết học thời Xuân Thu - Chiến
Quốc, tác giả đã dành một phần nội dung tập trung phân tích về thế giới quan,
nhân sinh quan, các học thuyết, tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo
gia, trong đó có vấn đề về con người. Ngoài ra, ông còn có một số bài viết
đăng trên các tạp chí như: "Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại"
(2003) trên Tạp chí Thanh niên hay "Vấn đề bản tính con người trong triết
học Trung Quốc cổ đại" (2007) trên Tạp chí Triết học số 6. Đó là những bài
viết có phạm vi nghiên cứu hẹp hơn so với những cuốn sách của ông. Ở đó,
ông đã quan tâm đi sâu nghiên cứu vấn đề bản tính con người của các trường
phái triết học Trung Quốc cổ đại, trong đó có Đạo gia. Bên cạnh đó có thể kể
đến cuốn "Lịch sử triết học Trung Quốc" (2013), Nxb. Khoa học - xã hội của
tác giả Phùng Hữu Lan, cuốn "Đại cương triết học Trung Quốc" (2004), Nxb.
Tp Hồ Chí Minh của hai tác giả Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Đó đều là


3


những công trình có nội dung chính là nghiên cứu triết học Trung Quốc qua
các thời kì lịch sử mà vấn đề con người của Đạo gia chỉ là một vấn đề rất nhỏ
trong đó.
Cuốn "Tư tưởng triết học về con người" (1996), Nxb Giáo dục do Vũ
Minh Tâm chủ biên cũng là một công trình đáng nhắc tới trong hệ thống
những công trình luận bàn về vấn đề con người tiêu biểu xuất sắc. Trong khi
trình bày một số tư tưởng chủ yếu về con người trong triết học cổ đại Trung
Quốc, các tác giả đã trình bày một cách có hệ thống vấn đề con người trong
Đạo gia với những nội dung chủ yếu như học thuyết về Đạo, học thuyết vô vi,
quan niệm về thế giới và con người của một số triết gia tiêu biểu của Đạo gia
như Lão Tử, Dương Chu, Trang Tử.
Đi sâu hơn, chúng ta có một số công trình nghiên cứu riêng về Đạo gia.
Chẳng hạn như cuốn "Tư tưởng Đạo gia" (2008), Nxb. Tam giáo đồng
nguyên do học giả Lê Anh Minh dịch. Cuốn sách đã chi tiết chia từng phần,
mỗi phần nghiên cứu một khía cạnh nhân sinh quan trong tư tưởng Đạo gia
như: chung thủy, hữu vô, tu dưỡng, trị thế ... Hay như bút danh Thu Giang
Nguyễn Duy Cần, ông là học giả nổi tiếng ở Việt Nam vào những năm 50 60 của thế kỉ trước. Ông là tác giả của các thể loại sách học làm người, nghệ
thuật sống, chuyên khảo, bình luận. Trong đó những cuốn sách nghiên cứu về
tư tưởng Đạo gia được coi là một trong những thành công của ông. Ví dụ như
cuốn "Tinh hoa Đạo học Đông phương", "Nhập môn triết học Đông phương".
Trong hai cuốn đó, tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề con người trong Đạo
gia. Đặc biệt trong hai cuốn "Lão Tử tinh hoa" và "Trang Tử tinh hoa", tác
giả đã chỉ ra những tinh hoa trong tư tưởng về con người của hai ông biểu
hiện trong thuyết tiến hóa; học thuyết vô công, vô kỉ, vô vi.
Đáng chú ý hơn cả là công trình nghiên cứu đồ sộ của giáo sư Dương
Lực mang tên "Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa" do dịch giả Trần Thị

Thanh Liêm làm Chủ tịch Hội đồng dịch thuật, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà

4


Nội, 2002. Đây là bộ sách có giá trị văn hóa lớn, đã giới thiệu tóm lược toàn
bộ nền văn hóa lâu đời của nước Trung Hoa một cách đầy đủ, sâu sắc, khoa
học trên nhiều bình diện. Ở đó, tác giả đã dành hẳn quyển thứ chín đề nghiên
cứu những quan điểm về vấn đề con người trong Đạo gia. Các quan điểm về
con người đã được trình bày, phân tích khá cụ thể và chi tiết. Đó là những vấn
đề như: Đạo là hạt nhân của hệ thống học thuật đạo; quan điểm hữu vô của
Lão Tử và chủ nghĩa tương đối của Trang Tử; quan điểm vô vi của Đạo gia;
quan điểm vô vi, vô đãi, vô kỉ của Trang Tử; quan điểm tự nhiên học thuyết
tĩnh khí của Đạo gia ... Tuy nhiên những quan niệm về nguồn gốc, bản chất
của con người và nhất là ý nghĩa hiện thời của những quan niệm về con người
đối với vấn đề con người hiện nay thì vẫn chưa được đề cập.
Ngoài ra còn một số bài viết trong khi tìm hiểu vấn đề con người Trung
Quốc nói chung hoặc tìm hiểu về Lão Tử, Trang Tử...ít nhiều cũng đã đề cập
đến vấn đề này như: Luận án tiến sĩ “Tư tưởng triết học của Trang Tử trong
tác phẩm Nam Hoa Kinh” của Cung Thị Ngọc, "Vấn đề con người trong triết
học Trung Quốc cổ đại" (2010) của Kim Chi, Tạp chí Khoa học xã hội số 9;
bài viết "Hạt nhân và ý nghĩa triết lí của Trang Tử với cuộc sống hiện đại"
(1999) của Cung Thị Ngọc, Tạp chí Triết học số 2; bài viết "Về vấn đề con
người và xã hội con người trong triết học Lão Tử (2009) của Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Tạp chí Phát triển Khoa học và công nghệ.
Nhìn chung, những công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề con
người trong Đạo gia vẫn còn ít ỏi. Thậm chí chưa thấy một công trình nào
nghiên cứu một cách cụ thể chi tiết và hệ thống về vấn đề này.
Xung quanh vấn đề tìm hiểu những ý nghĩa hiện thời của những quan
điểm về con người trong Đạo gia, cho đến nay đã có ít nhiều công trình và tác

giả đề cập tới. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số đề tài đi vào
tìm hiểu vấn đề này. Trong đó có thể kể đến "Triết lí nhân sinh của Đạo gia
và ý nghĩa của nó" luận văn thạc sĩ triết học của Trương Tất Thắng, Đại học

5


Quốc gia Hà Nội năm 2013. Luận văn tuy chỉ nghiên cứu một mảng trong hệ
thống tư tưởng về con người là triết lí nhân sinh nhưng đã chỉ ra được những
ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thực tiễn của nó. Thành công của luận văn là đã
khái quát, hệ thống được những nội dung cơ bản trong nhân sinh quan Đạo
gia, chỉ rõ được nhận thức của con người về thế giới và về mình cũng như
cách hành động của con người trong thế giới. Tuy nhiên khi bàn về ý nghĩa,
đề tài mới nêu chung chung được về ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thực tiễn mà
chưa chỉ ra cụ thể ý nghĩa của từng nội dung trong một lĩnh vực cụ thể.
Ngoài ra còn một số những tiểu luận, những bài viết nghiên cứu khác
có phạm vi nghiên cứu hẹp hơn so với đề tài ở trên. Ví dụ như nghiên cứu về
ảnh hưởng của tư tưởng vô vi lên đời sống xã hội ngày nay, so sánh giữa Nho
gia và Đạo gia để từ đó chỉ ra những ảnh hưởng của triết học Đạo gia đối với
ngày nay nhưng tất cả chỉ là nghiên cứu tư tưởng của Đạo gia nói chung, ảnh
hưởng của vấn đề con người chưa được khảo kĩ.
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng tất cả những công trình nghiên cứu trên
đã nghiên cứu tư tưởng về con người trong Đạo gia ở nhiều mức độ khác
nhau. Tuy thế chưa có một công trình nào chuyên khảo về vấn đề này. Bên
cạnh đó việc nghiên cứu ảnh hưởng của vấn đề này cũng đã được một số công
trình, đề tài, bài viết hay một số tài liệu quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên cho
đến nay việc nghiên cứu đó còn rải rác, chưa mang tính hệ thống và thành quả
chưa được là bao. Vì vậy việc lựa chọn và thực hiện đề tài "Quan điểm về
con người trong Đạo gia và ý nghĩa hiện thời của nó" hi vọng góp một phần
nhỏ bé vào hướng nghiên cứu đó.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là tìm hiểu những tư tưởng triết học cơ bản về
con người trong triết học Đạo gia và ý nghĩa hiện thời của nó.

6


3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ của luận văn là:
Thứ nhất, tìm hiểu khái quát điều kiện kinh tế, điều kiện chính trị, điều
kiện văn hóa - xã hội và một số tiền đề tư tưởng triết học cơ bản nhằm luận
chứng cho sự ra đời của triết học nói chung và những quan điểm triết học về
con người của Đạo gia.
Thứ hai, phân tích và hệ thống hóa một số tư tưởng triết học cơ bản về
con người trong Đạo gia chủ yếu trong các tác phẩm “Đạo Đức kinh” và Nam
Hoa kinh”.
Thứ ba, luận văn trình bày, phân tích một số ý nghĩa rút ra từ những
quan điểm triết học về con người trong triết học Đạo gia đối với vấn đề con
người hiện nay trên các phương diện nhận thức cũng như thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những quan điểm cơ bản
về con người trong triết học Đạo gia và ý nghĩa hiện thời của nó.
4.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tư tưởng triết học cơ bản về
con người trong Đạo gia chủ yếu thông qua tác phẩm “Đạo Đức kinh” của
Lão Tử và “Nam Hoa kinh” của Trang Tử cùng với một số các sách, bài viết
và các tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước thế hệ đi trước
đã nghiên cứu về Đạo gia để từ đó tìm hiểu ý nghĩa hiện thời của nó đối với

Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, những tác phẩm kinh điển của Đạo gia như: “Đạo Đức

7


kinh”; “Nam Hoa kinh”. Ngoài ra đề tài còn sử dụng những sách, ấn phẩm,
bài viết hay những tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước của
thế hệ đi trước đã nghiên cứu về Đạo gia.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành trên cơ sở của phương pháp luận nghiên cứu
của chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học. Luận văn sử dụng những
phương pháp chủ yếu như sự thống nhất logic và lịch sử, phương pháp phân
tích và tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa...
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách tương đối có hệ thống các tư tưởng triết
học cơ bản về vấn đề con người trong Đạo gia và là một trong số rất ít công
trình đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của nó đối với vấn đề con người hiện nay.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm nội dung của những quan điểm
triết học về con người trong Đạo gia đồng thời góp phần nhỏ bé vào việc tìm
hiểu ý nghĩa của những quan điểm đó trên bình diện nhận thức cũng như thực
tiễn của vấn đề con người ở Việt Nam hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học

tập và cho những ai quan tâm đến vấn đề con người trong triết học Đạo gia và
ý nghĩa hiện thời của nó.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương, 9 tiết.

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1: BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ TỔNG QUAN VỀ TƢ TƢỞNG
TRIẾT HỌC CỦA ĐẠO GIA
1.1. Bối cảnh ra đời và sự phát triển của Đạo gia
1.1.1. Bối cảnh ra đời của Đạo gia
- Điều kiện kinh tế
Lịch sử của nhà Chu bắt đầu từ sự thắng lợi của cuộc chiến tranh thôn
tính giữa bộ tộc Chu với nhà Ân - Thương và kết thúc với sự kiện Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Quốc và lên ngôi Hoàng Đế năm 221 tr.CN. Trung
Quốc cổ đại dưới thời nhà Chu (1134-221 tr.CN), được chia làm hai giai đoạn
Tây Chu (1134-770 tr.CN) và Đông Chu (770-221 tr.CN). Vì vậy trong lòng xã
hội chất chứa nhiều mâu thuẫn xã hội, bùng phát nhiều biến động dữ dội báo
trước một cuộc chuyển biến lớn lao. Nói về thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc các
sử gia đều cho rằng đây là thời kì hôn quân, loạn thần, uy quyền thao túng,
nhưng đồng thời cũng là thời kỳ xử sĩ được tự do nghị luận chính trị.
Về tình hình kinh tế thời Xuân Thu thì tiến bộ mới quan trọng nhất
trong thời kì này là sự ra đời của đồ sắt. Đồ sắt xuất hiện phổ biến, công cụ
sản xuất bằng sắt tham gia vào thế giới công cụ đồng đá trước đây đã đem lại
sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Đến
thời Xuân Thu trong lĩnh vực canh nông phương pháp canh tác rất tiến bộ,
nhờ lưỡi cày bằng sắt, nhờ biết dùng bò để kéo cày, tạo điều kiện thuận lợi

mới cho việc khai khẩn đất hoang mà còn tạo điều kiện cho việc nâng cao
năng suất lao động trong nông nghiệp. Sang thời Chiến Quốc, nghề luyện sắt
và kĩ thuật luyện sắt ngày càng phát triển cao, đồ sắt thay thế đồ đồng và trở
thành nguyên liệu chính được sử dụng trong chiến tranh, nhiều loại công cụ
bằng sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa và một số khuôn đúc sắt
thuộc thời kì này đã được phát hiện.

9


Thời kì này trong quan hệ ruộng đất cũng có sự thay đổi về quyền sở
hữu ruộng đất. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều
thuộc quyền sở hữu của nhà vua được gọi là chế độ “tỉnh điền”. Nhưng bắt đầu
từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư xuất
hiện ngày một nhiều. Do công cụ sản xuất tiến bộ và số dân lao động tăng lên,
người ta có khả năng khai khẩn thêm nhiều đất hoang, một số nông dân đã có
ruộng đất riêng. Trước kia ruộng đất nhà nước thuộc quyền sở hữu nhà nước
không được phép mua bán nhưng đến thời Xuân Thu hiện tượng mua bán
ruộng đất đã xuất hiện. Đó là kết quả tất yếu của chế độ ruộng đất thuộc quyền
sở hữu tư nhân, đồng thời việc mua bán ruộng đất lại thúc đẩy chế độ ruộng tư
phát triển nhanh chóng. Bước sang thời Chiến Quốc, chế độ ruộng tư càng phát
triển mạnh mẽ, chế độ Tỉnh điền đi đến chỗ tan rã hoàn toàn.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nền thủ công nghiệp tư doanh cũng phát
triển. Tùy theo ngành nghề nhà nước tổ chức thành các xưởng khác nhau như
xưởng đồng, xưởng sắt, xưởng dệt, xưởng gốm, xưởng mộc… Các đồ đồng
bằng đồng đỏ, các đồ cẩn, khảm đã đạt kĩ thuật cao, đồ bạc và bằng ngọc đã
xuất hiện. Xuân Thu - Chiến Quốc cũng là thời kì khởi sắc của nền kinh tế
thương nghiệp. Vào thế kỉ VI - V tr.CN xuất hiện những thành thị thương
nghiệp buôn bán xuất nhập nhộn nhịp ở các nước Hàn - Tề - Tần - Sở. Đến thời
Chiến Quốc, tiền tệ được dùng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực: trao đổi hàng hóa,

trả tiền thuê nhân công, cho vay lấy lãi, nộp thuế. Thành thị đã có một cơ sở
kinh tế tương đối độc lập, từng bước thoát ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của
quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên hay
còn gọi là Hiển tộc.
Như vậy Trung Hoa cổ đại là thời kì tan rã suy tàn của một mô hình
kinh tế - xã hội cũ theo truyền thống thị tộc mà trong đó thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời kì biểu hiện rõ nhất. Sự tan rã này có nguyên nhân sâu xa
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển đó tất yếu dẫn đến sự

10


hình thành sở hữu tư nhân. Đồng thời sự suy yếu của thế lực chính trị của nhà
Chu đã khiến cho các thế lực địa phương thực hiện chiếm của công làm của
tư. Điều đó càng thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời của sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất ở thời cổ đại Trung Hoa. Lực lượng kinh tế tư hữu ra đời là một thế
lực đối chọi với chế độ sở hữu đất đai nhà Chu. Như vậy điều kiện kinh tế là
cơ sở hình thành đầu tiên, nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hình thành của Đạo
gia. Nguyên nhân của mọi biến động xã hội suy cho cùng bắt nguồn từ
nguyên nhân kinh tế. Chính những sự thay đổi to lớn trong lĩnh vực kinh tế đã
tạo ra những thay đổi trong điều kiện chính trị.
- Điều kiện chính trị
Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ
đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Tầng lớp mới
lên nắm quyền đã lấn chiếm một phần đất và một phần dân. Giai cấp quý tộc
thị tộc Chu bị mất đất mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và đương nhiên
vai trò thống trị, ngôi Thiên tử của vua Chu chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt
sang hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc tỏ ra không còn
phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản. Tầng lớp địa chủ mới lên
ngày càng giàu có, lấn át quý tộc thị tộc cũ, thậm chí còn chiếm cả chính
quyền như họ Quý thị ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề. Xã hội Trung Quốc xảy

ra những biến đổi mạnh mẽ. Các nước chư hầu của nhà Chu không còn phục
tùng vương mệnh nữa, không chịu cống nạp, không ngừng cải cách chính trị,
lần lượt xuất hiện nhiều đô thị buôn bán sầm uất và trở thành trung tâm chính
trị văn hóa của nước. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên,
mở đầu thời kì các nước lớn tranh nhau bá quyền. Thời Xuân Thu có khoảng
242 năm mà xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ, xuất hiện Ngũ bá thời Xuân
Thu. Các bá chủ chính là đại diện cho giai cấp mới đang lên sẽ thay thế cho
giai cấp chủ nô đó là giai cấp địa chủ phong kiến, đại biểu cho phương thức
sản xuất mới, phương thức sản xuất phong kiến. Thời Chiến Quốc được coi là

11


thời kì hỗn loạn nhất ở Trung Quốc, trái với thời Xuân Thu, đây là giai đoạn
mà các lãnh chúa địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để
củng cố quyền lực, hình thành bảy nước lớn gọi là Chiến Quốc thất hùng.
Thời này chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời
Xuân Thu. Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị, tầng
lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị hoặc có tài
thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời kì bấy giờ đã
dời họ về làm quan lại, tướng tá, mưu sĩ hay “thực khách”.
Về quan hệ giai cấp, sự xuất hiện chế độ ruộng tư đã dẫn đến sự phân
hóa trong giai cấp thống trị. Do có ruộng đất riêng, một số đại phu, sĩ đã biến
thành những địa chủ mới . Do có thế lực lớn về kinh tế, các nhà buôn cũng có
những ảnh hưởng nhất định về chính trị, họ mua nhiều ruộng đất và trở thành
những thương nhân kiêm địa chủ. Do sự phát triển của sức sản xuất, tổ chức
công xã nông thôn bị tan rã, trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ,
một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất
ruộng đất, phải đi cấy rẻ, cày thuê trở thành tá điền, cố nông.
Như vậy, tương ứng với cơ sở kinh tế mới là những lực lượng chính trị

mới, đó là thế lực địa chủ ở các địa phương. Xu hướng chính trị của những
thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung uy quyền và mở rộng sự
thống trị lật đổ triều Chu. Hệ quả xã hội của xu hướng này thật tàn khốc.
Những cuộc nội chiến kéo dài diễn ra. Điều đó đã làm đảo lộn mọi thiết chế,
nghi lễ truyền thống nhà Chu làm cho xã hội rơi vào cảnh loạn lạc, phá hoại
sức sản xuất ghê gớm.

Như vậy kết quả của những biến động của điều kiện

kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai
tầng mới xuất hiện, mới cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Có thể
tóm tắt mấy mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kì này là:
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư hữu tài sản có địa vị kinh tế
trong xã hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc

12


cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với
giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu.
- Trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra,
chuyển hóa lên giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt họ
cũng không hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con
đường cải lương cải cách.
- Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn
công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại
quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền.
- Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô dịch với nhà
Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.

Đó là những mâu thuẫn của thời kì lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ
nô lệ thị tộc, tiến nhập vào chế độ phong kiến, đòi hỏi giải thể nhà nước của
chế độ gia trưởng hay còn gọi là tông pháp, xây dựng nhà nước của giai cấp
quốc dân, giải phóng lực lượng sản xuất mở đường cho xã hội phát triển. Điều
đó được thể hiện rõ nét qua cuộc chiến tranh thôn tính khốc liệt nhằm thực
hiện mưu đồ xưng bá của các nước chư hầu.
- Điều kiện văn hóa - tư tưởng
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã có một số thành tựu nổi bật về văn hóa
khoa học và tư tưởng góp phần thúc đẩy, tác động đến sự nảy sinh hình thành và
phát triển những tư tưởng triết học của Đạo gia, trong đó có quan niệm về con
người của trường phái này.
Về thiên văn học vào thế kỉ thứ IV tr.CN Thạch Thán nhà thiên văn cổ
Trung Quốc đã có một bản tổng mục với 800 các tinh tú khác nhau trên bầu
trời. Căn cứ vào vị trí của 28 ngôi sao trên xích đạo thiên cầu, người ta phân
chia toàn bộ bầu trời thành 28 “túc”. Đối chiếu vị trí của mặt trời với các
“túc” có thể chia ra các “tiết” của một năm như lập xuân - xuân phân, lập hạ -

13


hạ chí, lập thu - thu phân, lập đông - đông chí. Thời Chiến Quốc y sinh học
cũng đạt tới một trình độ phát triển tương đối cao. Trong “Kinh Thi” chúng ta
thấy đã có nói tới khoảng 200 loại thảo mộc. Trong gieo trồng và chăm sóc
cây họ đã biết dựa theo tiết, luân canh, dùng phân bón, mở mang thủy
lợi…Trong y học họ đã biết các phương pháp chữa bệnh bấm huyệt, châm
cứu, sắc thuốc từ các loại thảo mộc, tập dưỡng sinh… thời kì này người
Trung Quốc đã biết chế tạo và sử dụng địa bàn, có một số phát minh trong
lĩnh vực toán học ... Trong văn học và sử học cũng xuất hiện những tác phẩm
kinh điển. Những kiệt tác về văn học như “Kinh Thi”, “Sở Từ”; về sử học có
“Xuân Thu”, “Tả Truyện”, “Quốc Ngữ”, “Chiến Quốc sách” đều là những tác

phẩm có giá trị văn hóa tư tưởng khá sâu sắc. Đáng chú ý nhất là sự ảnh
hưởng của Kinh Dịch đến tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại trong đó có
Đạo gia. Đây là bộ sách kinh điển của Trung Quốc. Nó là một hệ thống tư
tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Ban đầu Kinh Dịch được coi là một
hệ thống bói toán nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi những nhà triết
học. Những lí thuyết về Âm Dương, Ngũ hành, Thái cực, Vô cực… được Đạo
gia lấy từ trong Kinh Dịch và làm nền tảng cho những tư tưởng triết lí cơ bản
của mình.
Về mặt văn hóa tư tưởng trong thời kỳ này rất đáng chú ý, đó là hiện
tượng “Trăm nhà đua tiếng”. Chính không khí sôi nổi trong học thuật và sự đa
dạng phong phú của các học phái ở thời Xuân Thu Chiến Quốc là điều kiện
đưa đến một học thuyết triết học Đạo gia hoàn chỉnh. Có nhiều nguồn tư liệu
khác nhau về các học phái triết học thời kì này tham gia tranh luận. Theo sách
“Hán thư Nghệ văn chí‟ của Ban Cố (32-92) thì có tới 14 “gia đình” triết học
hay theo sách “Thất lược” của Lưu Hâm thì có 9 trường phái gọi là “Cửu
Lưu”. Theo bảng phân loại của Tư Mã Đàm, đời Tiền Hán thì chỉ có 6 nhà là
Âm Dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Đạo gia. Trong suốt
thời kì lịch sử triết học thì cách phân loại này là hợp lí hơn cả. Thời Xuân Thu

14


Chiến Quốc, cuộc chiến tranh thôn tính giữa các nước chư hầu diễn ra ngày
càng gay gắt khốc liệt, vì thế việc tìm ra một con đường hay biện pháp giải
quyết được đặt ra như một vấn đề cần được giải quyết một cách cấp bách
nhất. Thời kì này trong kho tàng văn hóa cũng đã ẩn chứa những tiền đề về tư
tưởng gợi mở sự sáng tạo của các học sĩ. Xã hội xuất hiện tầng lớp sĩ nhân
mới nổi lên, với việc nắm được kiến thức văn hóa khoa học là tiêu chí của
tầng lớp này, họ có thể quan sát, tổng kết thời thế xã hội cũng như đề xướng
các luận thuyết khoa học và các biện pháp giải quyết những vấn đề xã hội.

Hơn nữa thời kì này chế độ chính trị đã trở nên tương đối dân chủ hơn, chính
sách trọng dụng kẻ sĩ đã tạo điều kiện và môi trường khá thuận lợi cho sự
phát triển tư tưởng học thuật. Cùng với sự phổ biến của “tư học” và sự lớn
mạnh của tầng lớp kẻ sĩ thì phong trào “chiêu hiền, đãi sĩ” của các nước chư
hầu là nguyên nhân trực tiếp tạo ra “vườn hoa” tư tưởng đa sắc màu thời kì
này. Trong nước xuất hiện những trung tâm như Tắc Hạ của nước Tề, những
tụ điểm như nhà Mạnh Thường Quân mà ở đó “kẻ xử sĩ bàn ngang” hay “bàn
việc nước”. Nhìn chung họ đều đứng trên lập trường của giai cấp mình mà
phê phán để cải tổ hoặc để lật đổ trật tự xã hội cũ, xây dựng trong tư tưởng xã
hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Hàng loạt vấn đề về
xã hội, về triết học đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải
quan tâm. Một loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra
một kế sách quản lí xã hội tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh
thần của xã hội Trung Hoa. Lịch sử gọi đây là thời kì “Bách gia chư tử” hay
“Bách gia tranh minh”. Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã đẻ ra những
nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh,
mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc có ngôn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ.
Đạo gia là một trong số đó.
Như vậy xuất phát từ những điều kiện kinh tế, lực lượng sản xuất phát
triển dẫn đến những biến động mạnh mẽ về điều kiện chính trị xã hội, cùng

15


với nền tảng những điểu kiện văn hóa tư tưởng, Đạo gia đã ra đời. Trong quá
trình tan rã của chế độ nô lệ thị tộc thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Đạo gia đại
diện cho một bộ phận của tầng lớp quý tộc nhỏ không chuyển biến kịp sang
giai cấp địa chủ. Họ bị hai thế lực chèn ép: đại quý tộc áp bức và địa chủ mới
lên uy hiếp, địa vị kinh tế và địa vị chính trị rất mong manh. Họ ý thức được
sự tiêu vong không thể tránh nhưng tỏ ra bất lực, không dám đứng ra công

khai bảo vệ trật tự xã hội nhà Chu đang tan rã và cũng không chuyển kịp sang
giai cấp địa chủ mới để hô hào vận động cách tân. Một mặt tư tưởng của Đạo
gia là sản phẩm của thời đại nhưng mặt khác nó cũng là sự kết tinh trí tuệ sự
thể hiện nét sáng tạo độc đáo trong thế giới quan của các nhà hiền triết thuộc
phái Đạo gia.
1.1.2. Sự phát triển của Đạo gia
Đạo gia được khởi đầu từ Lão Tử rồi sau đó được phát triển qua một
quá trình dài với sự đóng góp của nhiều học giả, ẩn sĩ cùng những tác phẩm
của họ. Tư tưởng Đạo gia được thể hiện chủ yếu qua các tác phẩm “Đạo Đức
kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa kinh” của Trang Tử và một số tư tưởng của
Trang Tử được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh Tử”, “Hàn Phi Tử”,
“Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Theo Sử kí Tư Mã Thiên (175-?86 tr.CN), Lão Tử là người nước Sở,
huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ông họ Lí, tên
Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam. Ông làm quan giữ tàng thất nhà Châu… Tiểu
sử của ông còn gây nhiều tranh cãi trong giới học thuật, không có quan điểm
thống nhất về năm sinh năm mất của ông. Lão Tử trau dồi đạo đức, học thuyết
của ông cốt ở chỗ giấu mình, kín tiếng.
Người tiếp tục đường lối Đạo gia của Lão Tử là Dương Chu tự Tử Cư
sống ở thời Chiến Quốc. Chuyện về ông chỉ có vài dòng trong “Mạnh Tử”,
“Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Hoài Nam tử”. Học thuyết của ông được
biết đến là nhờ có chép trong sách Liệt tử. Không ai biết đích xác ông sinh,

16


mất năm nào. Nguyễn Hiến Lê đoán rằng ông sinh trước Mạnh Tử và sau
Mặc Tử. Chủ thuyết của Dương Chu là quý sự sống trọng bản thân.
Trang Tử sinh vào khoảng năm 369 TCN và mất khoảng năm 286
TCN, tức vào giữa thời Chiến Quốc, người huyện Mông tên là Chu có lần làm

quan lại ở thành Tất Viên thuộc huyện Mông, cùng thời với Lương Huệ
Vương và Tề Tuyên Vương tức là cùng thời với Mạnh Tử. Như vậy khi Trang
Tử sinh thì thời Chiến Quốc đã bắt đầu được khoảng 40 năm và khi ông mất
thì sau đó khoảng 60 năm thời Chiến Quốc mới chấm dứt. Do vậy ông đã
chứng kiến hầu hết những biến động lớn lao của xã hội Trung Quốc trong
buổi giao thời, đặc biệt là cuộc nội chiến đẫm máu và thảm cảnh của dân lành
trong xã hội loạn lạc. Học thuyết của ông không có gì là không xét đến nhưng
gốc là theo học thuyết Lão Tử. Ông làm sách có hơn mười vạn chữ đại để đều
theo lối ngụ ngôn.
Các đại thần đầu triều Hán có không ít người tôn sùng Đạo gia. Họ cũng
đã tiếp xúc với học thuyết Đạo một cách có hệ thống. Vì thế đầu triều Hán lấy
tư tưởng chính trị Đạo gia làm chủ đạo, trong hoàn cảnh riêng của xã hội
đương thời đã mang lại những hậu quả tích cực. Tuy nhiên đến giữa thời Tây
Hán, tư tưởng chính trị Đạo gia không đáp ứng được với yêu cầu xã hội cuối
cùng bị tư tưởng Nho gia thay thế. Tuy vậy trong ba thời kì lịch sử Sơ Hán,
Ngụy Tấn, Sơ Đường học thuyết Đạo gia từng giữ địa vị thống trị về tư tưởng.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc được coi là thời đại hoàng kim của triết
học Trung Hoa, hệ thống lí luận của các nhà tư tưởng Trung Hoa phản ánh
màu sắc và đáp ứng những yêu cầu của thời đại, bởi vậy các triết gia chỉ chú
trọng đến vấn đề thuộc chính trị và đạo đức mà ít đề cập đến vũ trụ luận và tri
thức luận, tuy nhiên học thuyết Đạo gia lại có nét đặc sắc khác biệt so với các
học thuyết đương thời. Nhân sinh quan của Đạo gia được đặt trên nền móng
của một vũ trụ quan sâu sắc. Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức
phong phú đa dạng song tựu trung lại không đi sâu vào giải quyết vấn đề cơ

17


bản của triết học theo cách lí giải của truyền thống triết học phương Tây mà
tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan và thống nhất với tự

nhiên, trực giác tâm linh và phi lí tính. Có lẽ với thân phận của tầng lớp thất
thế đã bị mất đi vai trò chính trị nên các triết gia của Đạo gia không còn gắn
trực tiếp với những biến động chính trị hiện thời và do đó họ có điều kiện để
suy ngẫm các vấn đề tự nhiên, về cuộc sống hơn nữa trong kho tàng văn hóa
Xuân Thu - Chiến Quốc đã có nhiều thành tựu văn hóa khoa học đồ sộ đã tạo
đà cho sự khám phá sáng tạo của họ. Bởi vậy họ đã vượt trước nhiều hiền giả
đương thời bởi những tư tưởng về cội nguồn bản chất của vạn vật nguyên
nhân sâu xa của hiện trạng xã hội và nhân sinh, với lăng kính đại diện cho
tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc đang suy tàn, nên tư tưởng của họ thể hiện sự bất
lực trước thời cuộc và tâm trạng hoài nghi tuyệt vọng của tầng lớp đó. Con
đường mà triết học Đạo gia đưa ra để cứu đời, dẹp loạn giống như một biện
pháp để giải thoát cá nhân. So với Nho gia những quan niệm triết học về con
người của Đạo gia đạt tới mức độ trừu tượng, lí tính hóa ở mức độ cao hơn do
chỗ Đạo gia xuất phát từ quan niệm Đạo như là “tính quy luật của tự nhiên” để
giải thích nguồn gốc tự nhiên của con người và đề cao tư duy trừu tượng trong
quan niệm về nhận thức…Đạo gia đã có ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực
như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, y thuật, sinh
học, hóa học, võ thuật, địa lí… ở Trung Quốc và một số nước châu Á khác.
Tuy chia làm nhiều quan điểm đa dạng và phong phú nhưng Đạo gia
nổi bật ở một điểm là đề cao con người đến mức đặt vấn đề lợi ích cá nhân,
rằng: Lợi ích cao nhất của cá nhân là gì? Làm thế nào để đạt tới lợi ích cá
nhân? Chẳng hạn Dương Chu nêu lên thuyết “toàn sinh” có nghĩa là bảo toàn
sinh mạng là quan trọng nhất, muốn vậy phải hạn chế dục vọng, coi thường
lợi ích của ngoại giới, giữa người với người phải giữ quan hệ hòa khí; Trang
Tử lại cho rằng lợi ích tối cao của con người không phải sống lâu hay không
sống lâu mà là thỏa mãn dục vọng, do vậy chủ trương tiêu dao, hồn nhiên

18



×