Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 195 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ LAN






QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG
VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ







LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
















HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ LAN






QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ VỀ XÃ HỘI LÝ TƯỞNG
VÀ Ý NGHĨA HIỆN THỜI CỦA NÓ




Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62 22 80 05




LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT






HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
Thứ nhất, hướng nghiên cứu những nội dung cơ bản của Nho giáo 5
Thứ hai, hướng nghiên cứu quan niê

̣
m của Nho giáo sơ kỳ về xa
̃

̣
i lý tưởng 10
Thứ ba, hướng nghiên cứu ý nghĩa trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã
hội lý tưởng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay 13
Những vấn đề đặt ra mà luận án cần giải quyết 22
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO SƠ KỲ VỀ
XÃ HỘI LÝ TƢỞNG 24
1.1. Những điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự ra đời quan niệm của Nho giáo
sơ kỳ về xã hội lý tưởng 24
1.1.1. Về kinh tế - xã hội 24
1.1.2. Về chính trị - xã hội 27
1.1.3. Về văn hóa, tư tưởng 30
1.2. Những đại biểu của Nho giáo sơ kỳ 36
1.2.1. Khổng Tử 36
1.2.2. Mạnh Tử 39
1.2.3. Tuân Tử 42
Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN NIỆM CỦA NHO
GIÁO SƠ KỲ VỀ XÃ HỘI LÝ TƢỞNG 47
2.1. Mục tiêu của xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ 47
2.1.1. Nguồn gốc và nội dung tư tưởng “Đại đồng” trong sách Lễ ký và
Luận ngữ 48
2.1.2. Xã hội có trật tự, kỷ cương 58
2.1.3. Xã hội thái bình, con người đối xử với nhau thân ái, hòa mục 68
2.1.4. Con người có đời sống vật chất tương đối đầy đủ và được giáo dục 73
2.2. Cách thức tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho

giáo sơ kỳ 79
2.2.1. Chủ trương Đức trị 79


2.2.2. Thực hiện “dưỡng dân”, “giáo dân” 101
2.3. Lực lượng tạo lập và duy trì xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho
giáo sơ kỳ 117
2.3.1. Những phẩm chất đạo đức cần có của người cầm quyền 117
2.3.2. Đào tạo và sử dụng người cầm quyền 124
Chƣơng 3. SỰ KẾ THỪA BIỆN CHỨNG QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO SƠ
KỲ VỀ XA
̃

̣
I LÝ TƢỞNG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 134
3.1. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với việc kế thừa những
giá trị trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng 134
3.1.1. Tính tất yếu của việc kế thừa những giá trị của Nho giáo đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 134
3.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng 145
3.2. Kế thừa những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế trong quan niệm
của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam 156
3.2.1. Kế thừa những mặt tích cực trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về
xã hội lý tưởng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 156
3.2.2. Khắc phục những hạn chế trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã
hội lý tưởng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 170
KẾT LUẬN 178

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 182
TÀI LIỆU THAM KHẢO 183



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lựa chọn trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn dân tộc ta. Tuy nhiên, Chủ
nghĩa xã hội là gì và làm thế nào để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và hoàn cảnh lịch sử Việt Nam đang là vấn đề
đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta cần phải giải quyết. Đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, việc xây
dựng thành công Chủ nghĩa xã hội trên thực tế chưa có tiền lệ. Việt Nam đang
vừa xây dựng, vừa tìm tòi con đường và mô hình thích hợp cho việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc xác định những đặc trưng của
chủ nghĩa xa
̃

̣
i và cách thức xây dựng xa
̃

̣
i xa
̃


̣
i chủ nghĩa đòi hỏi phải có
sự nghiên cứu liên ngành của nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có khoa
học xã hội. Quá trình đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc và
có hệ thống các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác và Chủ nghĩa xã hội khoa
học. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu trong lịch sử triết học các tư tưởng về mô
hình xã hội lý tưởng để từ đó, xác định cơ sở lý luận cho quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, theo chúng tôi là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Giữa thế kỷ XIX, các nhà sáng lập Chủ nghĩa xã hội khoa học đã luận giải
tính tất yếu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản của xã
hội loài người. Trong chủ nghĩa xã hội, tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về toàn xã
hội, lực lượng sản xuất phát triển tạo ra năng suất lao động cao, mọi người cùng
lao động, trên cơ sở đó, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, có cuộc sống bình đẳng, ấm no, hạnh phúc, văn minh. Học thuyết cách
mạng và khoa học đó đã soi sáng cho cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 80
năm qua, đã giúp đất nước ta giành được độc lập dân tộc, nhân dân ta được tự
do; đời sống của nhân dân được cải thiện, xã hội ngày càng tiến bộ, nhà nước
pháp quyền đang từng bước được xây dựng và hoàn thiện . Đồng thời, chúng ta
cũng xác định được các mục tiêu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân


2
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, tư tươ
̉
ng của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác một mặt , xuất phát từ qui luật phát triển chung
của lịch sử xa
̃

̣

i loài người, luận giải về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và
mặt khác, trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa xã hội không tưởng châu Âu, bổ sung và
luận chứng khoa học cho một số yếu tố của nó để xây dựng Chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Thực tế đó cho thấy, chúng ta không thể vận dụng một cách rập khuôn,
máy móc Chủ nghĩa xã hội khoa học vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, mà phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện học thuyết đó cũng như tìm tòi
con đường thích hợp lên chủ nghĩa xã hội trên nền tảng kinh tế - xã hội và tư
tươ
̉
ng phương Đông nói chung và hoàn cảnh cụ thể ở nước ta nói riêng.
Xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ nói trên, chúng tôi muốn đi sâu tìm
hiểu tư tưởng phương Đông về mô hình xa
̃

̣
i lý tưởng và con đường tạo lập xa
̃


̣
i đó nhằm góp phần mình vào việc hình thành cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây
dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và
văn minh. Qua nghiên cứu tìm tòi và học tập, chúng tôi nhận thấy rằng, tư tươ
̉
ng
về xa
̃

̣
i lý tưởng không chỉ có ở châu Âu được C .Mác và Ph .Ăngghen quan

tâm, mà ở phương Đông các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ cũng đã đề cập tới , đó
là xã hội lý tưởng , hay còn gọi là xa
̃

̣
i “Đ ại đồng”, xã hội “Tiểu khang” . Nội
hàm của các kha
́
i niê
̣
m này cần phải được làm rõ trên cơ sở vận dụng triết học
Mác- Lênin để tìm ra những hạt nhân hợp lý của chúng để lý giải tính tất yếu và
đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xa
̃

̣
i của một nước phương Đông như
Viê
̣
t Nam chúng ta . Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Quan niệm của Nho
giáo sơ kỳ về xa
̃

̣
i lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó” cho luận án tiến sĩ
triết học của mình với kỳ vọng góp phần nghiên cứu lý luận, luận chứng khoa
học về con đường xây dựng chủ nghĩa xa
̃

̣

i ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
* Mục đích: Luận án trình bày một cách hệ thống quan niê
̣
m của Nho
giáo sơ kỳ về xa
̃

̣
i lý tưởng và cách thức , lực lượng tạo lập, duy trì xa
̃

̣
i lý
tưởng, đồng thời luận án làm rõ ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự nghiệp xây


3
dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
* Nhiệm vụ:
- Trình bày khái quát sự ra đời của Nho giáo sơ kỳ và quan niệm của Nho
giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng.
- Làm rõ mục tiêu của xã hội lý tưởng và cách thức, lực lượng tạo lập, duy
trì xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ.
- Phân tích ý nghĩa trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý
tưởng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xa

̃

̣
i lý
tưởng; ý nghĩa trong quan niê
̣
m của Nho giáo sơ kỳ về xa
̃

̣
i lý tưởng đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu quan niệm của Nho giáo sơ kỳ và một số trường phái triết
học Trung Quốc cổ đại về xã hội lý tưởng.
- Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Nghiên cứu những giá trị và hạn chế trong quan niệm của Nho giáo sơ
kỳ về xã hội lý tưởng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xã hội và con người.
* Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận chủ đạo của luận án là
phương pháp luận biện chứng duy vật. Trong luận án còn sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lịch sử - lôgic,
phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp đối chiếu - so sánh. Cụ thể là,



4
trong chương 1, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - lôgic nhằm làm
rõ những tiền đề tư tưởng, những điều kiện kinh tế- xã hội của xã hội Trung
Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc, khẳng định tính tất yếu của sự ra đời các
quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng. Trong chương 2, tác giả chủ
yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thông qua các tác phẩm kinh điển
của Nho giáo sơ kỳ nhằm làm rõ quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về mục tiêu,
phương thức và lực lượng tạo lập, duy trì xã hội lý tưởng. Trong chương 3, tác
giả chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh- đối chiếu nhằm làm rõ sự tương đồng
và khác biệt giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Nho giáo sơ
kỳ về xã hội lý tưởng, khẳng định những giá trị khoa học của Chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội, làm rõ những yếu tố không
tưởng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng; đồng thời khẳng
định những giá trị trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án góp phần làm rõ quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý
tưởng (về mục tiêu, cách thức và lực lượng tạo lập, duy trì xã hội lý tưởng); làm
rõ những yếu tố không tưởng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý
tưởng; đồng thời khẳng định những giá trị trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ
về xã hội lý tưởng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử triết học, lịch sử tư tưởng xã hội chủ
nghĩa và chủ nghĩa xã hội khoa học.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả liên
quan đến luận án, nội dung của luận án gồm 3 chương, 7 tiết.





5


TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quan niệm về xã hội lý tưởng là một trong những nội dung cơ bản Nho
giáo. Vì thế, các công trình nghiên cứu về Nho giáo đều ít nhiều đề cập đến vấn
đề này ở mức độ nhất định tùy theo mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Nho giáo có ảnh hưởng lâu dài, toàn diện và sâu sắc đến mọi khía cạnh của đời
sống xã hội ở Trung Quốc, Việt Nam và một số nước châu Á khác. Vì thế, các
quốc gia này không thể không nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo đối
với quá trình xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Qua quá
trình khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề Quan niệm của
Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng và ý nghĩa hiện thời của nó cho thấy, vấn đề
này được nghiên cứu ở các khía cạnh và mức độ sau đây:
Thứ nhất, hƣớng nghiên cứu những nội dung cơ bản của Nho giáo
Các công trình thuộc hướng nghiên cứu này được một số nhà nghiên cứu
Nho giáo có tên tuổi trong giới khoa học xa
̃

̣
i Viê
̣
t Nam công bố như Phan Bội
Châu với Khổng học đăng; Trần Trọng Kim với Nho giáo; Đào Duy Anh với
Khổng giáo phê bình tiểu luận, v.v. Đây là những công trình nghiên cứu Nho
giáo đầu thế kỷ XX trong bối cảnh Nho giáo bị thực dân Pháp phế truất khỏi nền

học thuật của nước nhà, thay vào đó là nền tân học phương Tây. Các tác giả kể
trên đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phân tích, trình bày những nội
dung cơ bản của Nho giáo, đồng thời nhấn mạnh những yếu tố tích cực và nêu
được những ý nghĩa cũng như vai trò của nó trong đời sống tinh thần của xa
̃

̣
i.
Trần Trọng Kim trong cuốn Nho giáo đã nghiên cứu sự hình thành, phát triển
của Nho gia qua các thời kỳ lịch sử, từ khi ra đời thời Xuân Thu - Chiến
Quốc, trải qua các giai đoạn Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh
và Nho giáo ở Việt Nam. Trong đó, tác giả không chỉ trình bày khá chính xác
một số nguyên lý cơ bản của Nho giáo, mà còn nêu ra cái hay, cái dở của Nho
giáo. Song, nhìn chung, điểm nổi bật trong quan điểm của ông là đề cao Nho


6
giáo. Đào Duy Anh là học giả mácxít đã có những nhận xét đúng đắn trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tư tươ
̉
ng chính trị - xã hội của Nho
giáo, cho rằng sự phủ nhận sạch trơn những nội dung tư tươ
̉
ng của Nho giáo là
sai lầm. Trong tác phẩm Khổng học đăng, Phan Bội Châu đề cập đến chủ
trương chính trị của các nhà nho sơ kỳ, đó là chú trọng đến lợi chung mà ghét
lợi riêng, chú trọng hòa bình và ghét chiến tranh, nhà cầm quyền cần chú ý
“dưỡng dân” và “giáo dân”. Trong tác phẩm này, Phan Bội Châu phân tích
những nội dung trên nhằm làm rõ chủ trương chính trị của các nhà sáng lập
Nho giáo sơ kỳ là thiết lập trật tự xã hội, song ở đó ông chưa bàn đến những

vấn đề về những đặc trưng và phương pháp tạo lập xã hội lý tưởng.
Như vậy, trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, nghiên cứu về xã hội lý tưởng
của Nho giáo sơ kỳ chỉ được đề cập một cách sơ lược để làm rõ mục đích cuối
cùng của học thuyết này là việc tạo lập một xã hội có trật tự kỷ cương.
Tiếp theo là những công trình nghiên cứu trong những năm 90 của thế kỷ
20 như, Nguyễn Khắc Viện với cuốn Bàn về đạo Nho; Quang Đạm với Nho giáo
xưa và nay; Nho giáo tại Viê
̣
t Nam của Viện Triết học, Viện Khoa học xa
̃

̣
i Viê
̣
t
Nam; Trần Đình Hượu với Nho giáo và văn học Viê
̣
t Nam trung cận đại, Các bài
giảng về tư tưởng phương Đông; Cao Xuân Huy với Tư tươ
̉
ng triết học phương
Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu; Nguyễn Đăng Duy với Nho giáo với văn
hóa Việt Nam; Phan Đại Doãn với Một số vấn đề về Nho giáo Viê
̣
t Nam; Nguyễn
Tài Thư với Nho học và Nho học ở Viê
̣
t Nam , Vấn đề con người trong Nho học
sơ kỳ, v.v. . Trong những công trình này , việc đánh giá Nho giáo nói chung và
quan niê

̣
m về xa
̃

̣
i lý tưởng của nó nói riêng được các tác giả đánh giá một
cách khách quan hơn. Vào thời kỳ này, vấn đề được đặt ra mang tính thời sự cấp
bách về vai trò của Nho giáo ở các nước được xếp vào hàng “những con rồng
châu Á” được đưa ra bàn thảo và do đó, phần lớn các công trình đều có quan
điểm chung là cần phải kế thừa những yếu tố tích cực của Nho giáo và khắc phục
những hạn chế của nó để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh và xa
̃

̣
i hài
hòa.


7
Cuốn Các bài giảng về tư tưởng phương Đông là tập hợp những bài giảng
của Trần Đình Hượu. Trong cuốn sách này, ông đã đánh giá khá sâu sắc những
nội dung cơ bản của Nho giáo như Nhân, Nghĩa, Lễ, Hiếu đễ, Đức trị. Ông cũng
đề cập đến những phẩm chất đạo đức cần có của mẫu người lý tưởng như Nhân,
Trí, Dũng. Tác giả bàn đến những nội dung này như là những vấn đề cơ bản của
học thuyết Nho giáo chứ không phải theo văn cảnh cách thức và lực lượng xây
dựng xã hội lý tưởng.
Trong cuốn Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nguyễn Đăng Duy đề cập
đến mối quan hệ giữa Nho giáo với văn hóa gia đình, văn hóa chính trị, kiến trúc
nghệ thuật, văn hóa y học và văn học. Trong đó ông đề cập đến Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín với ý nghĩa là các chuẩn mực đạo đức Nho giáo; mẫu người đạo đức

Nho giáo - người quân tử với những phẩm chất đạo đức cần có; ông cũng đi sâu
phân tích những giá trị đạo đức của Nho giáo mà Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận
dụng. Trong phần “Những nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo”, ông đề cập
đến chủ trương chính trị của Nho giáo là Đức trị và Chính danh, từ đó chỉ ra tính
chất không tưởng của tư tưởng Đức trị và những bài học rút ra cho chúng ta
ngày nay trong việc xác định các giải pháp chính trị cho sự nghiệp xây dựng đất
nước. Những vấn đề mà Nguyễn Đăng Duy nêu ra trong cuốn sách này chủ yếu
là những nội dung cơ bản của Nho giáo từ góc nhìn văn hóa, chứ không phải với
ý nghĩa là những mục tiêu và giải pháp xây dựng xã hội lý tưởng của Nho giáo
sơ kỳ.
Giáo sư Nguyễn Tài Thư có công trình nghiên cứu chuyên biệt về Vấn đề
con người trong Nho học sơ kỳ. Trong đó, ông đã trình bày những khía cạnh liên
quan đến vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ. Trong chương 5 của cuốn sách,
ông đã trình bày một cách khá hệ thống và sâu sắc về “các nhân cách lý tưởng
trong Nho học sơ kỳ”, đó là các danh hiệu Sĩ, Quân tử, Thánh nhân. Qua đó, tác
giả cũng chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế về nhân cách lý tưởng của nhà
nho. Vấn đề nhân cách lý tưởng trong Nho học sơ kỳ được giáo sư Nguyễn Tài
Thư đặt trong tổng thể Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ chứ không nghiên
cứu vấn đề này dưới góc độ mẫu người người lý tưởng - lực lượng tạo lập và duy


8
trì xã hội lý tưởng. Do vậy, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về lực lượng tạo lập và
duy trì xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ.
Sử gia nổi danh thế giới là William James Durant đã dành gần 40 năm để
soạn bộ Lịch sử văn minh thế giới. Do phạm vi đối tượng rộng lớn của bộ sách,
mà phần Lịch sử văn minh Trung Quốc, Will Durant chỉ dành dung lượng khiêm
tốn về học thuyết chính trị - xã hội của các nhà nho sơ kỳ như Khổng Tử, Mạnh
Tử và Tuân Tử. Song, có thể nói đó là sự đánh giá khá sâu sắc về những nội
dung cơ bản của Nho giáo, bởi lẽ, tác giả đề cập đến những những vấn đề như

đạo đức của người cầm quyền, mẫu người lý tưởng, trật tự xã hội, phương thức
xây dựng xã hội lý tưởng như dưỡng dân, giáo dân, phân phối bình quân. Điều
đáng tiếc là ông không phân tích những vấn đề trên như là những chuyên đề
nghiên cứu, mà chỉ trình bày những nội dung đó như là những yếu tố cấu thành
hệ thống tư tưởng cơ bản của Nho giáo sơ kỳ.
Ở Trung Quốc, nơi phát tích của học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo đã
diễn ra sự phê phán gay gắt đối với Nho giáo vào những năm 60 và 70 của thế kỷ
XX. Các học giả Trung Quốc thời kỳ này đã xem học thuyết của Khô
̉
ng Tư
̉
nói
riêng và Nho giáo nói chung như một học thuyết phản động mà mục đích của nó
chính là công cụ bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến bóc lột. Từ đó, họ phủ
định sạch trơn những yếu tố tích cực của Nho giáo mà Khô
̉
ng Tư
̉
và các thế hệ
học trò của ông đã đóng góp vào giá trị truyền thống của văn hóa Trung Hoa.
Tuy nhiên, trong mấy thập kỷ gần đây , do nhu cầu về xây dựng mô hình
chủ nghĩa xa
̃

̣
i đặc sắc Trung Quốc mà nhiều vấn đề về tư tươ
̉
ng chính trị - xã

̣

i của Nho giáo được bàn thảo lại . Trái ngược với tình hình nghiên cứu Nho
giáo những năm 60, 70 của thế kỷ XX , hiện nay Trung Quốc đang có xu hướng
đề cao những giá trị thực tiễn của Nho giáo trong việc xây dựng xa
̃

̣
i khá giả
(Tiểu khang) và hài hòa. Chính vì thế mà Trung Quốc đã đưa ra chủ trương mở
các lớp bồi dưỡng kiến thức Nho học để các học viên nắm vững nội dung của Tứ
thư, sau đó họ trực tiếp truyền bá Nho học trong các trường phổ thông. Đây là xu
hướng chủ đạo của giới nghiên cứu Nho giáo hiện nay ở Trung Quốc.


9
Trong cuốn Đại cương Triết học sử Trung Quốc, nhà nghiên cứu Phùng
Hữu Lan (Trung Quốc) khái quát tiến trình lịch sử triết học Trung Quốc. Trong
hai mươi tám chương của cuốn sách này, ông trình bày những nội dung cơ bản
của các trường phái triết học Trung Quốc. Trong phần nói về các nhà Nho thời
sơ kỳ Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, ông đề cập đến những nội dung căn bản
như Chính danh, Nhân nghĩa, Trung thứ. Những vấn đề này được tác giả đề cập
với tư cách là những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nho giáo nói chung mà
chưa phải là quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng nói riêng.
Nhà nghiên cứu Lã Trấn Vũ (Trung Quốc) đứng trên lập trường chủ nghĩa
Mác- Lênin để đánh giá lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc qua các thời kỳ
lịch sử từ thời cổ đại đến trung đại và cận đại (theo cách gọi của ông là từ chế độ
nô lệ đời nhà Thương đến thời phong kiến sơ kỳ, thời kỳ phong kiến đang lên và
chủ nghĩa phong kiến suy vong). Trong công trình nghiên cứu có tính chuyên
biệt về tư tưởng chính trị này, Lã Trấn Vũ trình bày một cách có hệ thống tư
tưởng chính trị trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc nói chung và của Nho giáo sơ
kỳ nói riêng. Ông cũng chỉ ra phương pháp cải tạo xã hội trong quan niệm của

Nho giáo sơ kỳ như việc thực hiện Chính danh, Lễ trị, tu thân. Ông đưa ra những
đánh giá về “đức trị” và “pháp trị” trong chủ trương chính trị của các nhà Nho sơ
kỳ. Điều đáng chú ý là, Lã Trấn Vũ đã phân tích, so sánh sự kế thừa, phát triển,
những điểm tương đồng và khác biệt trong tư tưởng chính trị của các nhà sáng
lập Nho giáo sơ kỳ về các vấn đề như: nguồn gốc của sự phân chia đẳng cấp
trong xã hội; cách thức xây dựng xã hội có trật tự; các giải pháp kinh tế làm cho
dân giàu, binh mạnh. Điểm mạnh trong công trình nghiên cứu của Lã Trấn Vũ là
đã trình bày một cách hệ thống sự phát triển của lịch sử tư tưởng chính trị Trung
Quốc. Ông đã có công lao tạo dựng bức tranh tổng thể, nhưng cũng chứa đựng
chiều sâu tri thức về kho tàng lịch sử tư tưởng chính trị đồ sộ của Trung Quốc
trong chiều dài lịch sử mấy ngàn năm. Những thành quả của công trình nghiên
cứu này là tài liệu vô cùng hữu ích giúp tác giả luận án đi sâu nghiên cứu quan
niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng nói riêng.


10
Ngoài các hình thức nghiên cứu nói trên, ở trong nước cho đến nay đã có
nhiều công trình khoa học các cấp , luận án tiến sĩ , luận văn được công bố . Tuy
nhiên, cũng tương tự như các công trình đã được nêu ở trên, việc đi sâu phân tích
quan niê
̣
m về xa
̃

̣
i lý tưởng của Nho giáo nói chung và Nho giáo sơ kỳ n ói
riêng dường như còn bỏ ngỏ , các học giả chỉ chú trọng đến mô hình xa
̃

̣

i lý
tưởng như là mục đích, là kỳ vọng hướng tới của Nho giáo mà chưa làm rõ được
nội hàm của xa
̃

̣
i lý tưởng đó là gì , tính không tưởng và khả năng hiện thực
của nó đến đâu vẫn chưa được đề cập.
Thứ hai, hƣớng nghiên cứu quan niê
̣
m của Nho giáo sơ kỳ về xa
̃

̣
i lý
tƣởng
Trong hướng nghiên cứu này, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê có rất
nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử triết học Trung Quốc nói chung và Nho
giáo nói riêng, như các tác phẩm Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Lão Tử - Đạo
đức kinh, Mặc học (Mặc Tử và Biệt Mặc), Đại cương triết học Trung Quốc.
Trong tác phẩm Khổng Tử, ông đề cập đến những nội dung cơ bản trong tư
tưởng của Khổng Tử như về vấn đề con người, tư tưởng chính trị, chính sách trị
dân, đạo làm người. Trong phần Xã hội lý tưởng của Khổng Tử, Nguyễn Hiến Lê
nêu trích đoạn nói về xã hội Đại Đồng và Tiểu Khang trong Lễ Ký, thiên Lễ vận,
đồng thời so sánh nó với các tư tưởng về quốc gia lý tưởng của các phái Mặc gia,
Lão gia và Pháp gia. Theo ông, quan niệm về xã hội lý tưởng của Nho gia “thực
tế hơn đạo Mặc, đạo Lão, nhân bản hơn thuyết của Pháp gia, trọng văn hóa hơn
cả ba phái kia, hợp tình hợp lý” [69, tr.191]. Tuy vậy, Nguyễn Hiến Lê chưa đi
đến phân tích những đặc trưng của xã hội lý tưởng của Nho giáo là gì. Mặc dù ở
các phần trước của cuốn sách này, ông cũng có đề cập đến những vấn đề như

dưỡng dân, giáo dân, những đức tính cần có của người cầm quyền, do đó, có thể
nói, ở mức độ nhất định, ông cũng đã bàn đến cách thức xây dựng xã hội lý tưởng
của Khổng Tử. Trong cuốn Mạnh Tử, Nguyễn Hiến Lê trình bày tư tưởng chính trị
và tư tưởng kinh tế xã hội của Mạnh Tử. Trong đó, tác giả đề cập đến chính sách
trọng hiền, vai trò của dân, chủ trương “dưỡng dân”, “giáo dân”, chủ trương hạn
chế chiến tranh của Mạnh Tử. Ông cũng dành nhiều dung lượng của cuốn sách


11
này để phân tích chính sách kinh tế - xã hội của Mạnh Tử như việc điều chế điền
sản, giảm thuế cho dân, nhắc nhở người cầm quyền quan tâm đến những hạng
người cần trợ giúp trong xã hội nhằm ổn định xã hội, khắc phục tình trạng phân
hóa giầu nghèo, tình trạng hỗn loạn của xã hội đương thời. Trong cuốn Tuân Tử,
Nguyễn Hiến Lê viết một chương Bàn về chính trị trong tư tưởng của Tuân Tử.
Trong đó, ông đã trình bày những nội dung cơ bản trong chủ trương chính trị của
Tuân Tử, thể hiện tập trung ở các phần Vương chính, Lễ trị, Phú quốc, Cường
binh, những nội dung này thể hiện rõ nét chính sách của Tuân Tử nhằm thực hiện
một quốc gia thịnh trị.
Bộ sách về Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử của Nguyễn Hiến Lê là
những công trình nghiên cứu khá hệ thống và công phu. Trong đó tác giả trình
bày tương đối đầy đủ những nội dung cơ bản của Nho giáo sơ kỳ. Quan niệm
của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng được thể hiện rõ nhất trong chủ trương
chính trị của các nhà tư tưởng đó. Điểm đặc biệt là, trong các công trình nghiên
cứu này, Nguyễn Hiến Lê đã bước đầu so sánh, đánh giá sự kế thừa, phát triển và
những điểm khác biệt trong chủ trương chính trị từ Khổng Tử đến Mạnh Tử và
Tuân Tử. Tuy nhiên, những vấn đề được bàn đến trong những công trình nghiên
cứu này chưa phải là những nghiên cứu chuyên đề về xã hội lý tưởng của Nho
giáo sơ kỳ. Do đó, chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu quan niệm của Nho giáo
sơ kỳ về xã hội lý tưởng.
Trong cuốn Đại cương triết học Trung Quốc của Giản Chi và Nguyễn

Hiến Lê, tập 2, các tác giả cuốn sách đã dành riêng chương XI để viết về Quốc
gia lý tưởng của Nho giáo, trong đó, ngoài việc so sánh xã hội Đại đồng và Tiểu
khang với xã hội lý tưởng của Mặc gia, Pháp gia và Lão gia, các tác giả cũng đề
cập đến tư tưởng về xã hội Đại đồng thời Nguyên, Minh của Lưu Cơ và những
nội dung cơ bản trong Đại đồng thư của Khang Hữu Vi đời Thanh. Điều đáng
tiếc là, cuốn sách chưa đề cập đến xã hội lý tưởng của Nho giáo sơ kỳ với đầy đủ
các khía cạnh của nó. Chúng tôi sẽ nghiên cứu sâu hơn về những đặc trưng của
xã hội lý tưởng và cách thức, lực lượng xây dựng xã hội lý tưởng trong quan
niệm của Nho giáo sơ kỳ.


12
Cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm bàn về những nội dung cơ bản
của Nho giáo như Trời, Đất và Người; về mối quan hệ đạo đức và chính trị; về
những phạm trù như Nhà, Nước và Thiên hạ. Trong cuốn sách này, tác giả cũng
đề cập đến xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo trong phần “Từ thuyết
đồng quy đến thuyết trung dung”. Trong đó, tác giả đề cập đến xã hội Đại đồng
và Tiểu khang theo quan niệm của các nhà nho, cho rằng, “Đại đồng là thời “nhị
đế” Nghiêu, Thuấn, Tiểu khang là thời “tam đại” Hạ, Thương, Chu. Và so với
Đại đồng thì Tiểu khang là bước đi xuống” [32, tr.342]. Ông cũng chỉ ra tính
không tưởng và những hạn chế cơ bản của tư tưởng Đại đồng. Tuy nhiên, tác giả
cuốn sách không đề cập một cách có hệ thống và đầy đủ tư tưởng Đại đồng với ý
nghĩa là xã hội lý tưởng với những đặc trưng và cách thức xây dựng nó.
Trong cuốn sách Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam, và trong bài viết Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng
trên Tạp chí Triết học, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình đề cập đến Một số tư tưởng
cơ bản của Nho giáo về chính trị - xã hội, trong đó, tác giả có trình bày những
đặc trưng của xã hội lý tưởng một cách khái quát với ý nghĩa là một nội dung tư
tưởng cơ bản của Nho giáo nói chung, chứ không phải Nho giáo sơ kỳ nói riêng.
Tác giả cũng không đặt vấn đề so sánh, chỉ ra sự kế thừa, phát triển và khác biệt

trong quan niệm về xã hội lý tưởng của các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ như
Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử.
Lý Tường Hải (Trung Quốc) trong cuốn sách giới thiệu thân thế và
những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Khổng Tử nhan đề Khổng Tử đã
dành chương 2 Lý tưởng xã hội an thuận thái hòa để nói về xã hội lý tưởng
trong tư tưởng của Khổng Tử. Ông phác thảo những nét cơ bản về xã hội lý
tưởng của Khổng Tử, đó là xã hội mà trong đó các mối quan hệ xã hội rất hài
hòa. Trong chương này, Lý Tường Hải cũng bàn đến “thế giới đại đồng,
vương quốc lý tưởng của đạo đức” trong tư tưởng của Khổng Tử. Ông cho
rằng: “Nói đại đồng có thể xem là một bức tranh xã hội lý tưởng hóa thời
Nghiêu Thuấn. Nói rằng Tiểu Khang là chỉ xã hội Tây Chu có văn vẻ dồi dào


13
do Chu Võ Vương, Chu Công xây dựng. Xã hội đại đồng và Tiểu Khang về
đại thể phù hợp với Khổng Tử” [42, tr.138].
Giáo sư Tào Thượng Bân, một học giả người Đài Loan, trong cuốn Tư
tưởng Nhân bản của Nho học Tiên Tần đề cập đến cội nguồn của tinh thần nhân
bản Nho gia thời kỳ Tiên Tần. Nội dung của cuốn sách khá sâu rộng, đề cập tới
những vấn đề cơ bản của tư tưởng Nhân bản Nho gia như: Nhân học Khổng Tử,
Đạo Hiếu, thuyết thiên nhân hợp nhất. Trong đó, tác giả không luận giải toàn bộ
các nội dung nói trên mà luận giải nó với tính chất là nhân tố cội nguồn của toàn
bộ tư tưởng Nhân bản Nho gia. Giáo sư Tào Thượng Bân cũng bàn đến phạm trù
Nhân, Lễ, Nghĩa, Chính danh, Dân vi bang bản, Pháp hậu vương trong mối quan
hệ với tư tưởng nhân bản. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến xã hội Đại đồng
trong Lễ ký, thiên Lễ vận. Theo ông, xã hội Đại đồng đó tiêu biểu cho tinh thần
nhân bản của Khổng Tử, là nguồn gốc tư tưởng của chủ nghĩa dân sinh. Như
vậy, giáo sư Tào Thượng Bân đã bàn đến xã hội đại đồng nhưng lại tiếp cận từ
góc độ tư tưởng nhân bản trong Nho học Tiên Tần mà chưa bàn đến Đại đồng
với ý nghĩa là những đặc trưng của xã hội lý tưởng.

Như vậy, quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng chủ yếu được
trình bày trong những công trình nghiên cứu chung về Nho giáo với ý nghĩa là
một nội dung cơ bản của học thuyết này. Trong đó, xã hội lý tưởng được xem
như là mục đích vươn tới một xã hội ổn định, trật tự và thịnh trị của các nhà sáng
lập Nho giáo sơ kỳ. Một số học giả cũng đã đề cập ở một mức độ nhất định đến
quan niệm của Nho giáo sơ kỳ về những vấn đề như: Xã hội Đại đồng, Tiểu
khang; phẩm chất đạo đức cần có của người cầm quyền như Nhân, Nghĩa Lễ,
Trí, Dũng; những giải pháp cải tạo xã hội như dưỡng dân, giáo dân… Tuy nhiên,
vấn đề mục tiêu của xã hội lý tưởng, cách thức và lực lượng tạo lập, duy trì xã
hội lý tưởng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Các học giả cũng chưa
đặt vấn đề so sánh chỉ ra sự kế thừa, phát triển và khác biệt trong quan niệm về
xã hội lý tưởng của các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ như Khổng Tử, Mạnh Tử và
Tuân Tử. Đó là những vấn đề đặt ra mà luận án tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.


14
Thứ ba, hƣớng nghiên cứu ý nghĩa trong quan niệm của Nho giáo sơ
kỳ về xã hội lý tƣởng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay
Một thực tế trong nghiên cứu Nho giáo và vai trò của nó trong đời sống
tinh thần xã hội là khó tách bạch những điểm tích cực và hạn chế của nó trong
lịch sử với hiện đại. Thực tế cho thấy, đối với nhiều nguyên lý đạo đức của Nho
giáo, ngay cả những nguyên lý mang tính phổ quát toàn nhân loại thì chúng có
tính hai mặt, vừa có mặt tích cực lại vừa có mặt hạn chế. Hoặc có thể nếu khai
thác ở khía cạnh này thì nó tích cực, nhưng nhìn nhận ở góc độ khác thì lại có
hạn chế. Điều tác giả luận án quan tâm khi tiến hành nghiên cứu đề tài của mình
là: Những giá trị trong quan niê
̣
m của Nho giáo sơ kỳ về xa
̃


̣
i lý tưởng đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xa
̃

̣
i chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay được giới học giả quan tâm đến mức nào. Những ý kiến mang tính khẩu hiệu
chung chung vốn có từ trước đến nay là cần kế thừa những yếu tố tích cực của
Nho giáo và khắc phục các mặt hạn chế của nó trong điều kiện hiện nay dường
như đã trở nên sáo rỗng và mờ nhạt. Như vậy, theo quan điểm của chúng tôi, cần
phải có những công trình đứng trên lập trường của chủ nghĩa xa
̃

̣
i khoa học để
nghiên cứu chuyên sâu, chỉ ra những mặt tích cực cần kế thừa và những hạn chế
cần khắc phục, đồng thời, đề xuất những giải pháp để hiện thực hóa chúng có ý
nghĩa rất thiết thực.
Tuy nhiên, thực tế lịch sử cho thấy, việc vận dụng học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội và học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác một cách máy móc,
thô thiển không chỉ làm tổn hại đến nền khoa học mácxít, mà còn làm cho xa
̃

̣
i
đi theo đường hướng trái qui luật. Về vấn đề này, báo cáo của giáo sư Nguyễn
Đình Chú tại Hội thảo khoa học quốc tế “Nho giáo ở Viê
̣

t Nam” (2006) đã gợi cho
chúng tôi những ý tưởng cần đi sâu nghiên cứu vai trò của Nho giáo trong việc
xây dựng hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xa
̃

̣
i ở nước ta . Theo
ông, “Không thể giải mã Nho giáo bằng lối vận dụng lý thuyết giai cấp và lý
thuyết về hình thái xã hội một cách máy móc mang tính phổ biến hiện có. Hãy bổ
sung vào các thứ lý thuyết có tính chất phương pháp luận đó bằng phương pháp


15
tiếp cận văn minh luận, văn hóa luận, nhân tính luận”. Yêu cầu này trên thực tế là
phù hợp với đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng đất nước ta hiện nay, tức là vừa phải
khắc phục những sai lầm của chủ nghĩa xa
̃

̣
i hiện thực dẫn đến sự s ụp đổ của
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu cuối thế kỷ XX, vừa
phải xây dựng hệ thống lý luận nhằm định hướng cho con đường tất yếu mà loài
người trong tương lai vươn tới là chủ nghĩa xa
̃

̣
i . Điều đáng tiếc là tham luận
của giáo sư Nguyễn Đình Chú chỉ dừng lại ở việc khẳng định các giá trị đạo đức
Nho giáo mà Nhật Bản là nước vận dụng triệt để theo cách của mình để phát triển
đất nước, đồng thời kêu gọi cần có cách tiếp cận mới đối với Nho giáo mà chưa

làm rõ mục đích vươn tới xa
̃

̣
i lý tưởng của nó.
Trong cuốn Nho giáo xưa và nay tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả
bàn về những nội dung liên quan đến phương pháp tiếp cận các giá trị của Nho
giáo, những nội dung và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam; Nho giáo và sự
phát triển ở một số nước châu Á. Trong các bài viết này, thể hiện những quan
điểm, cách nhìn nhận đánh giá rất đa chiều của nhiều học giả về những mặt tích
cực và tiêu cực của Nho giáo với xã hội hiện đại nói chung và sự phát triển ở
Việt Nam nói riêng. Rất nhiều học giả cho rằng, Nho giáo có nhiều giá trị mà
chúng ta có thể kế thừa trong quá trình xây dựng đất nước hiện nay, như các bài
Cách tiếp cận của Khổng Tử của Phan Ngọc, Hiện đại đối thoại với Nho giáo
của Bùi Đăng Duy, Giá trị của Nho giáo trong xã hội ta ngày nay của Hoàng
Việt, Nho giáo và kinh tế của Trần Đình Hượu, Nho giáo và văn hóa Việt Nam
của Trần Quốc Vượng, Từ phê phán đến khẳng định ở Trung Quốc gần đây của
Trần Lê Sáng, Những vấn đề Nho giáo được đánh giá lại trong giới học thuật
Trung Quốc của Phan Văn Các, Những vấn đề cần tiếp tục đi sâu và nghiên cứu
của Vũ Khiêu… Trong đó, khi đánh giá về những giá trị mà chúng ta có thể kế
thừa từ Nho giáo, phó giáo sư Bùi Đăng Duy viết: “Những giá trị đạo đức của
Nho giáo như: sự hòa mục giữa con người, lòng nhân của con người, lý tưởng
thẩm mỹ về sự đại đồng của con người… có thể gia nhập kho tàng về những giá
trị nhân loại của thời đại ngày nay” [134, tr.81]. Tác giả Hoàng Việt cũng khẳng
định “Chúng ta đã thoát thai từ một xã hội mà Nho giáo chi phối. Chúng ta cần
nhận biết và coi trọng nó với tư cách là một học thuyết đã có những đóng góp


16
cho nền văn hóa của chúng ta ở các thế kỷ trước đây” [134, tr.89]. Ông cũng cho

rằng, Nho giáo có tác dụng tích cực với xã hội hiện đại ở hai điểm, một là ở
truyền thống coi trọng học thức, tôn sư trọng đạo, trọng dụng nhân tài, hai là ở
tinh thần dấn thân vào việc cải tạo xã hội.
Trong bài Nền giáo dục theo tinh thần Nho giáo, Đặng Đức Siêu cho rằng,
Nho giáo đã thấm vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân Việt Nam trong
quá khứ, đã gây những ảnh hưởng rất sâu rộng. Hiện nay những ảnh hưởng này
vẫn tồn tại ở những mức độ khác nhau trong mọi mặt của cuộc sống, nhiều khi
quá sâu sắc, tinh vi, phức tạp, dưới muôn hình vạn trạng. Những di sản của
Khổng giáo, xấu cũng như tốt vẫn tiếp tục phát huy những ảnh hưởng của nó.
Khi nhận xét về những giá trị của Nho giáo ở Việt Nam, Đặng Đức Siêu viết:
“Những yếu tố văn hóa Khổng giáo sở dĩ có thể sống lâu dài ở Việt Nam trước
hết có lẽ là do bản thân chúng có mang theo những giá trị có tính phổ quát toàn
nhân loại. Những giá trị phổ quát này đã tích hợp các giá trị văn hóa bản địa
tương ứng, trên chừng mực nào đó đã được cấu trúc lại cho phù hợp với tâm thế
Việt Nam” [134, tr.215]. Trần Lê Sáng và Phan Văn Các đã lược thuật những
bước thăng trầm của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, có khi được
đề cao, có lúc lại bị mạt sát thậm tệ. Trong bài viết của mình, các ông cũng khái
quát xu hướng nghiên cứu, đánh giá lại một cách nghiêm túc, khoa học hơn của
giới học thuật Trung Quốc trong thời gian gần đây, và xu hướng chủ đạo là
khẳng định những giá trị của Nho giáo trong tư tưởng giáo dục, triết lý chữ
“nhân” của Khổng Tử, Năm 1984, Trung Quốc tổ chức hội thảo toàn quốc về
Mạnh Tử. Năm 1987 tổ chức hội thảo quốc tế về Khổng học, năm 1989 hội thảo
về Khổng học. Đầu năm 1987, tạp chí Khổng học nghiên cứu ra ba tháng một kỳ
càng thúc đẩy việc nghiên cứu Nho giáo. Trần Lê Sáng kết luận: “Khổng Tử nói
riêng, đạo Khổng nói chung, đang được giới học thuật Trung Quốc đánh giá cao.
Khổng học đang được coi là cốt lõi của văn hóa truyền thống nước họ” [134,
tr.267].
Phan Văn Các cũng tổng kết một trong những nhận định của Hội thảo
khoa học quốc tế về Nho học tháng 10 năm 1987: “Nghiên cứu Nho học có liên



17
hệ mật thiết với xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Mục
đích của xây dựng hiện đại hóa là xây dựng chủ nghĩa xã hội có màu sắc riêng
của Trung Quốc. Muốn tìm hiểu tình hình đất nước, truyền thống văn hóa, tính
cách dân tộc của Trung Quốc thì cần phải tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Nho học
đã từng ảnh hưởng lâu dài đến văn hóa, lịch sử Trung Quốc, hút lấy tinh hoa vứt
bỏ cặn bã” [134, tr.283-284]. Trong cuốn sách này, một số tác giả cũng trích dẫn
những nghiên cứu của các học giả nước ngoài về vai trò của Nho giáo đối với sự
phát triển của những nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo trong lịch sử,
cho rằng, “Nho giáo ít nhất không gây trở ngại cho việc hiện đại hóa mà thậm
chí còn có tác dụng tích cực” [134, tr.304].
Ngược lại, cũng có quan điểm phủ nhận vai trò tích cực của Nho giáo đối
với sự phát triển của xã hội, nhất là tác động tiêu cực của nó đối với sự phát triển
kinh tế. Trần Đình Hượu cho rằng, tuy Nho giáo chủ trương làm cho dân no đủ,
tạo cho dân “hằng sản”, lo phân phối của cải cho đều, coi trọng thời vụ và giảm
thuế, nhưng nó không đặt trên góc độ kinh tế mà trên góc độ chính trị [134,
tr.96-100]. Tựu trung lại, hầu hết các bài viết trong cuốn sách này đều cho rằng,
Nho giáo chứa đựng cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng. Vấn đề đặt ra là, những mặt
tích cực và tiêu cực đó là gì và chúng ta kế thừa những mặt tích cực và khắc
phục những hạn chế đó như thế nào? Đó cũng chính là vấn đề đặt ra mà luận án
cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
Trong cuốn sách Nho giáo và phát triển ở Việt Nam Giáo sư Vũ Khiêu đã
trình bày hoàn cảnh ra đời và sự thăng trầm của Nho giáo qua các thời kỳ lịch
sử. Ông cũng đề cập đến sự du nhập của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
xã hội Việt Nam. Đồng thời, trong các tác phẩm này, Giáo sư đã nhận xét khá
thuyết phục về những bài học kinh nghiệm của những nước được coi là con rồng
châu Á đã vận dụng Nho giáo trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapo. Ông đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải

khai thác những giá trị của Nho giáo trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với
văn hóa, những bài học rút ra từ tư tưởng trị nước của Nho giáo, ý nghĩa của


18
những giá trị đạo đức Nho giáo đối với việc xây dựng xã hội mới hiện nay.
Trong đó, Giáo sư đã đưa ra mười kết luận và kiến nghị khẳng định cần phải kế
thừa, khai thác những giá trị của Nho giáo đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay [60, tr.185-196].
Cùng với chủ đề này, trong bài viết Về giá trị đương đại của Nho giáo
Việt Nam, Giáo sư Vũ Khiêu đã phân tích một cách ngắn gọn nhưng súc tích
những giá trị đương đại của Nho giáo mà Việt Nam cần khai thác một cách hợp
lý trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, giáo sư đặt
ra và phân tích những vấn đề như việc cần phải kết hợp đức trị và pháp trị đúng
đắn, việc giải quyết mối quan hệ cá nhân và xã hội, về xây dựng những phẩm
chất đạo đức của con người mới, mối quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế mà chưa
đề cập đến những giải pháp cụ thể để hiện thực hóa những kiến nghị đó.
Học giả Vi Chính Thông (Trung Quốc) trong cuốn Nho gia với Trung
Quốc ngày nay đã thể hiện một cách nhìn phản biện đối với ảnh hưởng của Nho
giáo đối với xã hội Trung Quốc trong truyền thống cũng như trong hiện đại. Tác
giả cuốn sách đã dành phần lớn dung lượng để chỉ ra những vấn đề mà ông cho
là khiếm khuyết căn bản của tư tưởng đạo đức Nho gia. Tuy cuốn sách đề cập
đến những ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự phát triển của Trung Quốc ngày
nay, nhưng chúng tôi cho rằng, đó cũng là những ý kiến tham khảo hữu ích đối
với Việt Nam hiện nay. Bởi vì, cũng giống như Trung Quốc, Việt Nam chịu ảnh
hưởng lâu dài của Nho giáo không chỉ trong quá khứ mà trong cả hiện tại Nho
giáo vẫn còn những ảnh hưởng nhất định.
Thời gian gần đây, một số bài viết trên Tạp chí Triết học đề cập đến vấn
đề giá trị của Nho giáo đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay, như bài Một số quan điểm chính trị Khổng học với sự phát triển ở Việt

Nam của Bùi Thanh Quất và Phan Chí Thành, trong đó, dưới góc độ tiếp cận
chính trị học, các tác giả đề cập đến tính tất yếu của sự kế thừa những yếu tố tích
cực trong quan điểm chính trị Khổng học đối với sự phát triển ở Việt Nam, các
tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa của Khổng học đối với việc cải cách
hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng nhu cầu của thời kỳ đổi mới hiện


19
nay. Bài viết cho rằng: “Trong công cuộc đổi mới nhằm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, nhằm đạt tới một xã hội phát triển phồn vinh, văn minh và
hạnh phúc, một số quan niệm Khổng học, đặc biệt là quan điểm về tổ chức đời
sống chính trị và quan niệm về phẩm chất của quan chức nhà nước, về phẩm chất
cá nhân vẫn còn có giá trị khuyến cáo khá tích cực” [105, tr.29].
Trong bài viết Khai thác các giá trị của truyền thống Nho học phục vụ
cho sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa, Giáo sư Nguyễn
Trọng Chuẩn đã đưa ra những quan điểm hết sức biện chứng rằng, lịch sử của
nhân loại không ngừng phát triển, sự phát triển đó không thể tách rời quá khứ và
không thể không kế thừa những di sản đã trở thành giá trị truyền thống được lưu
lại từ trong quá khứ. Ông thừa nhận rằng, văn hóa truyền thống Việt Nam đã
chịu ảnh hưởng nhất định và đã tiếp thu không ít giá trị của Nho học, cải biến
các giá trị đó cho phù hợp với bản sắc riêng của mình. Ông viết: “Sẽ không thể
phủ nhận siêu hình đối với Nho học,… phải đối xử với Nho học một cách khoa
học. Khai thác các giá trị của Nho học, nhất là Nho học đã được Việt hóa qua
các thời đại cũng như các học thuyết khác của nhân loại, phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa nước nhà trong bối cảnh nhân loại đang bước vào nền kinh tế tri
thức và toàn cầu hóa ngày hôm nay” [26, tr.30]. Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn
cũng chỉ ra những giá trị của Nho học mà chúng ta có thể kế thừa, phát huy trong
quá trình xây dựng đất nước hiện nay như: thái độ đối với việc học và việc dạy,
quan điểm coi dân là gốc nước.

Thời gian gần đây, trên tạp chí Triết học, có một số bài viết bàn về những
giá trị của Nho giáo mà chúng ta có thể kế thừa trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội hiện nay như: Ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam và bài Chúng ta
kế thừa tư tưởng gì ở Nho giáo của Minh Anh, Cách xem xét, đánh giá con
người thông qua các mối quan hệ xã hội cơ bản của Nho giáo-một giá trị cần kế
thừa và phát triển của Nguyễn Văn Bình. Trong những bài viết này, xuất phát từ
góc độ nghiên cứu của mình, các tác giả chỉ ra những hạn chế mang tính lịch sử
của Nho giáo, đồng thời, khẳng định những giá trị của Nho giáo mà chúng ta có


20
thể kế thừa. Các bài viết kể trên, trong phạm vi bài báo, mới chỉ đưa ra những
gợi ý, những khuyến nghị bước đầu về những giá trị của Nho giáo mà chúng ta
có thể kế thừa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
mà chưa có điều kiện trình bày vấn đề một cách có tính toàn diện và có hệ thống
về những giá trị đó. Tuy nhiên, những ý kiến đề cập đến trong các bài viết đó là
những tài liệu tham khảo, những gợi ý quan trọng giúp tác giả luận án tiếp tục đi
sâu nghiên cứu những vấn đề đang đặt ra.
Trong xu thế cần nghiên cứu chuyên sâu và đánh giá đúng đắn vai trò của
Nho giáo trong lịch sử cũng như hiện đại, ở nước ta thời gian gần đây đã có
nhiều hội thảo khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau, từ cấp cơ sở đến cấp quốc gia
và cao hơn nữa là các cuộc hội thảo khoa học quốc tế về Nho giáo. Điển hình là
cuộc hội thảo khoa học quốc tế gần đây do viện Hán Nôm kết hợp với Đại học
Havard - Yenching (Mỹ) tổ chức năm 2006. Tại Hội thảo này , các học giả đã
thống nhất quan điê
̉
m cho rằng , nhiều nguyên lý quan trọng của Nho giáo về xa
̃



̣
i và con người có sức trường tồn cả trong lịch sử và ngày nay. Chẳng hạn GS
Đỗ Duy Minh (Đại học Havard-Yenching) đã khẳng định: “Tất cả năm giá trị cốt
lõi của truyền thống Khổng giáo: nhân, lễ, nghĩa, trí và tín giữ vai trò chủ đạo
của đạo đức phổ quát”.
Tháng 9 năm 2011, Viện Triết học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
phối hợp với Trung Quốc và Hàn Quốc tổ chức hai Hội thảo quốc tế với chủ đề:
Nho giáo Việt Nam truyền thống và đổi mới và Mối quan hệ giữa Nho giáo và
các trào lưu tư tưởng khác trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và Hàn Quốc. Trong
đó, tập trung nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu của Việt Nam, Trung Quốc
và Hàn Quốc về tư tưởng của các Nhà Nho Việt Nam như Ngô Thì Nhậm, Phan
Bội Châu, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đức Đạt; về Mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí
Minh và Nho giáo. Trong đó, có nhiều bài viết đề cập đến những giá trị của Nho
giáo đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Dân là gốc
nước và quan niệm về xây dựng xã hội của Nho giáo với công cuộc đổi mới hiện
nay ở Việt Nam của Nguyễn Văn Hòa, Một vài nét về ảnh hưởng của Nho giáo
trong xã hội Việt Nam hiện nay của Hoàng Kim Kính. Trong bài viết của mình,


21
Hoàng Kim Kính (Viện Triết học Việt Nam) khai thác những ảnh hưởng của
Nho giáo đối với xã hội Việt Nam ở các khía cạnh như về văn hóa gia đình, văn
hóa giáo dục, văn hóa giao tiếp và sự hình thành nhân cách con người. Nguyễn
Văn Hòa (Đại học Huế) cũng khai thác giá trị của Nho giáo ở góc độ chủ trương
Đức trị và tư tưởng Nhân của Nho giáo [131, tr.252].
Ngoài hai hướng nghiên cứu mà tác giả luận án đề cập đến ở trên, có một
số công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nho giáo và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong hướng nghiên cứu này, các công trình tập trung vào những nội
dung như: Phương pháp tiếp cận của Hồ Chí Minh đối với Nho giáo; những nội
dung của Nho giáo được Hồ Chí Minh kế thừa và cải biến. Tiêu biểu cho hướng

nghiên cứu này có các bài viết như: Từ xuất thân nhà Nho của Đào Phan, Từ cái
nhìn cách mạng và khoa học của Phan Văn Các. Các học giả cho rằng, Hồ Chí
Minh xuất thân nhà Nho, am hiểu Nho giáo và sau này, trong quá trình hoạt
động cách mạng và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã có phương pháp
tiếp thu và cải biến Nho giáo mà ngày nay chúng ta vẫn cần học tập. Học giả
Đào Phan viết: “Trong các trước tác suốt 60 năm hoạt động cách mạng phong
phú và sôi nổi của mình, Hồ Chí Minh đã hàng trăm lần vận dụng những câu chữ
có liên quan đến đến những khái niệm và những mệnh đề Nho giáo. Vấn đề là tất
cả các từ ngữ ấy đều được Hồ Chí Minh dùng với một ý nghĩa hoàn toàn mới.
Người đã cải tạo chúng, đã đem lại cho các từ ngữ ấy nội dung ý nghĩa chân
chính, cao đẹp nhất: nội dung đạo đức cộng sản chủ nghĩa Việt Nam” [57,
tr.227-228]. Phó giáo sư Phan Văn Các khái quát quá trình Hồ Chí Minh tiếp thu
và cải biến Nho giáo qua các giai đoạn lịch sử, ông kết luận: “Thái độ của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với Khổng Khâu và Nho giáo có sự phát
triển qua các chặng thời gian nhưng rõ ràng nhất quán một quan điểm lịch sử
đánh giá đúng đắn, khẳng định đúng mức với lòng tôn kính những giá trị chân
chính mà người xưa đã đạt được” [57, tr.228]. Tóm lại, trong quan điểm của các
học giả này, Hồ Chí Minh đã có cách quan điểm biện chứng khi vừa tiếp nhận,
vừa cải tạo và nâng cao, khai thác những hạt nhân hợp lý trong tư tưởng của Nho
giáo, đó là thái độ mác xít mà chúng ta cần học tập khi đánh giá những ảnh
hưởng của Nho giáo đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

×