Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận tổng hợp về thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.44 KB, 25 trang )

1.1. Khái niệm, bản chất, chức năng của thị trường tài chính
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường tài chính.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự phân công lao động xã
hội sâu sắc, trong nền kinh tế xuất hiện hai nhóm người đối lập nhau: nhóm những
người cần vốn, cần tìm nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và chi tiêu
của mình và nhóm những người có vốn, cần cung ứng vốn của mình.
Cả hai nhóm này đều nhằm một mục đích nhất định nào đó. Vấn đề quan
trọng là làm thế nào để hai nhóm người này gặp gỡ nhau và thỏa mãn những nhu
cầu của nhau. Sự việc sẽ không đơn giản mà ngược lại rất phức tạp bởi vì hai
nhóm người này có khoảng cách không gian và thời gian nên không dễ gì biết
được ai là người có vốn, ai là người cần vốn. Bởi vậy, xã hội nào, nền kinh tế nào
mà tìm được phương thức để người có vốn và người cần vốn gặp nhau hiệu quả,
tối ưu thì xã hội đó, nền kinh tế đó sẽ phát triển.
Có nhiều cách để người có vốn – người tiết kiệm và người cần vốn – người
chi tiêu gặp nhau. Song quy tụ có hai con đường cơ bản (Xem sơ đồ 1)
Sơ đồ 1: Luân chuyển vốn trong hệ thống tài chính

Con đường thứ nhất, được gọi là tài chính gián tiếp, bởi vì nó liên hệ đến một
chủ thể thứ ba: một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay – (người tiết
kiệm) và người đi vay – (người chi tiêu) và giúp chuyển vốn từ người này sang
người kia.
Các trung gian tài chính (NHTM và các tổ chức tín dụng) thực hiện điều này
bằng cách vay vốn của người cho vay, người tiết kiệm và sau đó sử dụng nguồn


vốn này để cho người cần vốn – người chi tiêu vay vốn. Ví dụ, một ngân hàng có
thể nhận được vốn bằng cách phát hành một tài sản Nợ cho công chúng ở dạng
những món tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu… và sau đó, dùng vốn này để
thực hiện một tài sản Có qua việc cho vay hoặc qua việc mua trái phiếu công ty,
kỳ phiếu, trái phiếu Chính phủ trên thị trường tài chính. Kết quả cuối cùng là vốn
đã được chuyển từ công chúng (những người giúp đỡ của các trung gian tài chính


(NHTM và các tổ chức tín dụng)
Ở đây, các trung gian tài chính không coi việc kinh doanh chuyển vốn từ
người cho vay – người tiết kiệm sang người vay – người chi tiêu làm trò vui. Bằng
việc họ bán quyền sử dụng vốn với giá bán (lãi suất cho vay) cao hơn giá mua (lãi
suất huy động) và phần chênh lệch này hình thành lợi nhuận của các NHTM và tổ
chức tín dụng. Như vậy, nhờ quá trình tài chính gián tiếp, thông qua các trung gian
tài chính đã giúp làm lợi cho phần lớn những người có món tiết kiệm nhỏ bằng
việc đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và có thể giúp những người vay các món
tiền nhỏ, nay có thể vay được tiền vốn mà họ khó có thể có được. Những người
vay các món tiền lớn cũng được lợi bởi quá trình trung gian tài chính nghĩa là có
thể vay được nhiều vốn hơn trong thị trường tài chính. Không có trung gian tài
chính, thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Đây là một sự tiến
bộ vượt bậc của quá trình luân chuyển vốn, vì nó giảm được chi phí cho cả hai bên
có vốn và cần vốn trong việc tìm gặp nhau, tạo ra cơ sở pháp lý cho lòng tin của
người có vốn, quy mô huy động và sử dụng vốn tăng lên gấp bội. Nhưng chỉ với
cách này thì chưa đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn về vốn cho các doanh
nghiệp và ngân sách nhà nước đặc biệt là vốn dài hạn.
Để khắc phục nhược điểm trên và đảm bảo một lượng vốn lớn phù hợp với
yêu cầu đầu tư phát triển kinh tế, người ta đã tìm ra con đường thứ hai để người có
vốn gặp người cần vốn, được gọi là tài chính trực tiếp, có nghĩa là việc chuyển vốn
từ người có vốn sang người cần vốn được tiến hành một cách trực tiếp bằng cách
người cần vốn phát hành các loại chứng khoán và bán cho người có vốn. Ở đây,
người mua chứng khoán là chủ sở hữu có quan hệ trực tiếp với người cần vốn, có
quyền nhất định phụ thuộc vào từng loại chứng khoán. Nếu người cần vốn là một
Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động nguồn vốn góp hình thành vốn
điều lệ Công ty, thì người mua cổ phiếu sẽ là chủ một phần vốn của Công ty và có
những quyền nhất định với Công ty như tham gia đại hội cổ đông, quyền được


biểu quyết, ứng cử Hội đồng quản trị và tham gia hoạch định chiến lược kinh

doanh, phân phối lợi nhuận…của Công ty, được hưởng cổ tức từ lợi nhuận hàng
năm của Công ty cũng như là tài sản khi Công ty giải thể. Do đó, họ phải quan tâm
đến thực trạng hoạt động của công ty. Hoặc các Công ty, các doanh nghiệp và nhà
nước phát hành các loại chứng khoán nợ như tín phiếu, trái phiếu…là hình thức
vay nợ trực tiếp những người mua những chứng khoán nợ đó. Với cách này người
phát hành chứng khoán (người vay) phải cam kết trả lãi và vốn đúng theo quy định
của hợp đồng phát hành. Còn người có vốn có thể trực tiếp lựa chọn người mình
muốn cho vay bằng cách mua chứng khoán của người phát hành chứng khoán nợ
phù hợp với yêu cầu và điều kiện của mình. Người mua chứng khoán phải trực
tiếp chịu rủi ro nếu mua phải chứng khoán của tổ chức làm ăn thua lỗ hoặc phá
sản. Đặc điểm chung của hai loại giấy chứng nhận góp vốn và chứng nhận nợ là có
thể chuyển nhượng, cho thừa kế, làm quà biếu và là hàng hóa mua bán trên một
loại thị trường đặc biệt gọi là thị trường tài chính.
Như vậy, sự ra đời và phát triển của các loại chứng khoán vốn và chứng nhận nợ gọi chung là chứng khoán, cũng như quá trình thương mại hóa các loại chứng
khoán vừa thỏa mãn được yêu cầu của người cần vốn và người có vốn, vừa là cơ
sở để hình thành nên thị trường tài chính vì chúng chính là hàng hóa được mua
bán, giao dịch trên thị trường này. Hoạt động của thị trường tài chính mang lại lợi
ích cho cả hai chủ thể có vốn và cần vốn. Vì vậy có thể nói rằng thị trường tài
chính là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung hòa lợi ích kinh tế khác nhau trên
thị trường, là công cụ tài trợ vốn cho sự phát triển kinh tế và là động lực để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được kết chuyển
từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thông qua việc trao đổi, mua bán
tài sản tài chính, thị trường tài chính là tổng hòa các mối quan hệ cung cầu về vốn.
Nếu hiểu một cách đơn giản, thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động
mua bán các loại giấy tờ có giá hay những người cung cấp tiền tệ đáp ứng nhu cầu
của những người khác về tiền tệ để sử dụng chúng, nó là chiếc cầu nối giữa cung
và cầu vốn trong nền kinh tế, nơi gặp gỡ của các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Qua đó, hình thành nên giá mua và bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín

phiếu, giấy nợ ngắn hạn, dài hạn…hình thành nên giá cả của các loại vốn đầu tư


bao gồm lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn, dài hạn…
Thị trường tài chính là môi trường trong đó hệ thống tài chính vận động. Do đó, đề
cập đến thị trường tài chính không chỉ đề cập đến phương thức giao dịch, công cụ
tài chính được trao đổi mà còn đề cập tới các chủ thể hoạt động và giám sát tại đó.
Việc chuyển đổi quyền sở hữu và sử dụng các nguồn tài chính trên thị trường tài
chính thông qua các phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định.
1.1.3. Chức năng thị trường tài chính
Sự tạo lập và phát triển thị trường tài chính đóng một vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Những
đóng góp của thị trường tài chính đối với nền kinh tế được thể hiện cụ thể trong
những chức năng sau:
Chức năng huy động vốn của thị trường tài chính
Với sự xuất hiện của thị trường tài chính chúng ta dễ dàng nhận thấy vai trò
của nó trong việc huy động vốn cho đầu tư. Qua thị trường sơ cấp cho phép “lấy”
vốn và trực tiếp chuyển đổi khoản tiết kiệm của các hộ gia đình thành các nguồn
vốn dài hạn cho các xí nghiệp quốc doanh, các công ty, các chính phủ…qua hai
con đường:
Con đường thứ nhất (tài chính trực tiếp) những người đi vay vốn trực tiếp từ
người cho vay trong các thị trường tài chính bằng cách trao đổi với họ “chứng
khoán” (công cụ của thị trường tài chính), những chứng khoán này hoặc là những
cổ phiếu (quyền sở hữu) đối với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người
phát hành hoặc trái phiếu đối với các khoản nợ của người vay. Như vậy, chứng
khoán là tài sản Có đối với người mua chúng và là tài sản Nợ đối với người phát
hành chúng. Do đó, ta thấy rằng nếu không có thị trường tài chính thì sẽ rất khó
chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư. Sự tồn
tại của thị trường tài chính cũng có lợi ngay cả khi người đi vay không có mục
đích kinh doanh.

Thực hiện chức năng chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư
sang người có cơ hội đầu tư, thị trường tài chính giúp nâng cao năng suất và hiệu
quả của toàn bộ nền kinh tế.
Con đường thứ hai (tài chính gián tiếp) thông qua các trung gian tài chính
(người thứ ba). Một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay.
Những trung gian tài chính thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ người dư


thừa sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món vay so
với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan trọng
hơn cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất phản ánh
đúng quan hệ cung cầu thị trường. Như vậy, nhờ hoạt động tài chính gián tiếp
(được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường tài chính được vận hành.
Chức năng tiết kiệm
Thị trường tài chính cung cấp điểm sinh lợi cho tiết kiệm. Mục đích của tiết
kiệm ngày hôm nay là để có thể mua sắm được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn vào
ngày tương lai. Tuy nhiên sẽ có rất ít động cơ khuyến khích tiết kiệm nếu vắng
bóng một thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính, người tiết kiệm có
thể kiếm được thu nhập dưới hình thức tiền lãi, cổ tức, tiền lời của vốn…Khi
những người chi tiêu cần thêm vốn của những người tiết kiệm, thị trường tài chính
gửi tín hiệu đến người tiết kiệm dưới hình thức tiết kiệm có lãi suất cao hơn nhằm
động viên các đơn vị, cá nhân thặng dư tiết kiệm nhiều hơn và tiêu dùng bớt đi.
Ngược lại, khi người chi tiêu cần ít quỹ hơn thì lãi suất có chiều hướng giảm bớt
và sự luân lưu tiết kiệm cũng yếu đi.
Như vậy, thị trường tài chính cung cấp một cơ chế động viên tiết kiệm và tạo
ra một luồng quỹ chảy vào đầu tư.
Chức năng thanh khoản:
Chức năng thanh khoản của thị trường tài chính được thực hiện nhờ vai trò
của thị trường thứ cấp. Ở đây, diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở thị trường sơ cấp. Nhờ có sự mua đi bán lại mà luôn có sự

chuyển sở hữu vốn kinh doanh từ người này sang người khác. Vậy là thị trường tài
chính cho phép huy động các khoản đầu tư dưới dạng các cổ phiếu và trái phiếu,
nhưng đồng thời cũng dành cho người đầu tư khả năng “rút chân” ra khỏi thị
trường, nghĩa là rút tiền đầu tư khi cần, hoặc chuyển từ dạng đầu tư này sang dạng
đầu tư khác một cách dễ dàng, thuận tiện trong khi người phát hành (người huy
động vốn) vẫn đảm bảo một lượng vốn ổn định để tiến hành sản xuất, kinh doanh.
1.2. Phân loại thị trường tài chính
Thị trường tài chính rất phong phú và đa dạng. Mỗi loại thị trường tài chính
được hình thành có những mục đích, chức năng nhất định tùy thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế, vào các công cụ và phương thức giao dịch, vào đối tượng tham
gia trên thị trường, tùy theo cách thức vận dụng của mỗi nước trong việc tổ chức


một mô hình thích hợp với bối cảnh nền kinh tế.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như
sau:
1.2.1. Căn cứ theo phương thức luân chuyển vốn:
- Thị trường trực tiếp
- Thị trường gián tiếp

Trong nền kinh tế, vốn được lưu chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu theo hai kênh:
• Kênh dẫn vốn trực tiếp hay còn gọi là kênh tài chính trực tiếp: là kênh dẫn vốn
trong đó vốn được dẫn thẳng từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn. Nói
cách khác, những người thiếu vốn trực tiếp huy động vốn từ những người thừa vốn
trên thị trường tài chính hoặc trực tiếp từ nhau ở những địa điểm cụ thể theo thỏa
thuận.
• Kênh dẫn vốn gián tiếp hay còn gọi là kênh tài chính gián tiếp: là kênh dẫn vốn
trong đó vốn từ người sở hữu vốn sang người sử dụng vốn thông qua các trung
gian tài chính phổ biến nhất là các ngân hàng, rồi đến các công ty tài chính, công
ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư .v.v... Các trung



gian tài chính thực hiện việc tập hợp các khoản vốn nhàn rỗi lại rồi cho vay, vì thế
những người sử dụng vốn và những người cung cấp vốn không liên hệ trực tiếp
với nhau trong kênh này.
Những người cung cấp vốn chủ yếu là các cá nhân hay hộ gia đình, ngoài ra các
công ty, chính phủ hoặc nước ngoài đôi khi cũng có dư thừa vốn tạm thời và vì
vậy có thể đem cho vay. Những người đi vay vốn quan trọng nhất là các công ty
và chính phủ, ngoài ra còn có các cá nhân (hay hộ gia đình) và nước ngoài. Nhu
cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thoả mãn nhu cầu chi
tiêu trước mắt.
Trong nền kinh tế hiện đại, các thị trường tài chính và trung gian tài chính không
giới hoạt động chỉ trong chức năng truyền thống là lưu chuyển vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu mà còn cung cấp nhiều phương tiện khác nhằm giúp phân bổ hiệu quả
các nguồn lực tài chính của nền kinh tế.Cụ thể các thị trường tài chính và trung
gian tài chính:
• Cung cấp phương tiện để lưu chuyển các nguồn lực qua thời gian, giữa các quốc
gia và giữa các ngành.
• Cung cấp phương tiện để quản lý rủi ro.
• Cung cấp phương tiện để giúp việc thanh toán trong thương mại được thực hiện
thuận lợi hơn.
• Tạo ra cơ chế để tập trung các nguồn lực hoặc chia nhỏ quyền sở hữu các doanh
nghiệp.
• Cung cấp thông tin về giá cả nhằm hỗ trợ cho việc phi tập trung quá trình ra
quyết định.
• Cung cấp cách thức giải quyết với các vấn đề về "động cơ" gây ra bởi tình trạng
thông tin bất cân xứng.
1.2.2. Căn cứ vào tính chất vận động vốn:
Thị trường công cụ nợ:
Thị trường công cụ nợ là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn

dựa trên việc phát hành các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu…) Thực
chất các công cụ nợ là thỏa thuận có tính hợp đồng trong đó người vay vốn thanh
toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoảng thời gian
nhất định (thanh toán lãi) cho tới thời điểm mãn hạn là lúc thực hiện đợt thanh
toán cuối cùng giá trị gốc. Người phát hành các công cụ nợ là người đi vay, còn
người giữ công cụ là người cho vay – chủ nợ của người phát hành.


Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm ba loại khác nhau:
Công cụ nợ ngắn hạn
Công cụ nợ trung hạn
Công cụ nợ dài hạn
Tùy mỗi nước mà việc quy định thời hạn cho từng loại công cụ có thể khác
nhau. Đặc điểm của công cụ nợ là dựa trên quan hệ vay mượn, có thời hạn, lãi suất
được ấn định trước và cố định, người sở hữu công cụ nợ không có tiếng nói trong
việc quản lý Công ty.
Thị trường công cụ vốn:
Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các
cổ phiếu bán cho những người có vốn. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là các cổ đông,
họ góp vốn vào công ty để tiến hành sản xuất kinh doanh với tinh thần lời ăn, lỗ
chịu. Họ có quyền được chia phần trên lãi ròng và tài sản của các công ty phát
hành cổ phiếu. Như vậy, khác với công cụ nợ, cổ phiếu không có số lãi cố định mà
cổ tức phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty phát hành. Các
cổ phiếu này được coi là những chứng khoán dài hạn vì chúng không quy định
thời gian mãn hạn. Người nắm giữ cổ phiếu là chủ sở hữu công ty phát hành.
Sự khác biệt giữa hai thị trường trên thể hiện bản chất ở bản chất công cụ tài
chính giao dịch trên đó. Các công cụ nợ thường có một mức lãi suất cố định và
thời hạn thanh toán được ấn định từ trước, do đó, việc mua các công cụ nợ an toàn
hơn và ít rủi ro hơn so với các cổ phiếu. Hơn nữa, công ty phải trả cho các chủ nợ
trước khi chia lãi cổ phần và khi công ty phá sản thì tài sản thanh lý được chia cho

các chủ nợ trước khi trả cho các cổ đông.
Thị trường công cụ phái sinh:
Thị trường công cụ phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các
chứng khoán phái sinh. Đây là thị trường cao cấp, giao dịch những công cụ tài
chính cao cấp như: chứng quyền, quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai…
1.2.3. Căn cứ vào cơ cấu thị trường:
Thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là một thị trường tài chính giao dịch mua bán những chứng
khoán mới phát hành. Chính vì vậy, người ta còn gọi thị trường sơ cấp là thị
trường của các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư
sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng


khoán mới phát hành.
Thị trường sơ cấp có vai trò:
Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động, vốn của Công ty được huy động
thông qua việc phát hành chứng khoán.
Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp, đưa các khoản tiền nhàn
rỗi tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển tiền sang dạng vốn dài hạn.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
Thị trường sơ cấp là thị trường không liên tục và là nơi duy nhất mà các
chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành.
Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là: Kho bạc
Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, các công ty phát hành, tập đoàn bảo lãnh phát
hành.
Giá cả ban đầu của chứng khoán bị thiết định nhiều hơn là do thị trường xác
định, thường là do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên
chứng khoán (mệnh giá)
Thị trường thứ cấp:
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên

thị trường sơ cấp:
Vai trò của thị trường thứ cấp:
Cung cấp thị trường, tạo ra những điều kiện dễ dàng để bán những công cụ
tài chính, tức là nó làm cho những công cụ này có tính “lỏng” thêm (tính thanh
khoản). Tính “lỏng” thêm của những công cụ này khiến chúng được ưa chuộng
hơn và như thế làm dễ dàng thêm cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường sơ
cấp.
Thị trường thứ cấp xác định giá của mỗi chứng khoán mà công ty phát hành
bán ở thị trường sơ cấp. Giá chứng khoán ở thị trường thứ cấp càng cao thì giá một
Công ty phát hành sẽ nhận được cho các chứng khoán của mình ở thị trường sơ
cấp sẽ càng cao và như vậy công ty phát hành nhận được tổng vốn đầu tư cao hơn.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
Trên thị trường thứ cấp, các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán
thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về
nhà phát hành. Nói cách khác, các luồng vốn không không chảy vào những người
phát hành chứng khoán mà luân chuyển giữa những người đầu tư chứng khoán


trên thị trường. Thị trường thứ cấp mà một bộ phận quan trọng của thị trường
chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp.
Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá
chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết định.
Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể
mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường này.
Như vậy, sự khác nhau cơ bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
thể hiện ở chỗ: hoạt động của thị trường sơ cấp làm tăng thêm vốn cho toàn bộ nền
kinh tế còn hoạt động của thị trường thứ cấp chỉ thực hiện việc chuyển đổi quyền
sở hữu chứng khoán đã phát hành mà không làm tăng thêm vốn cho nền kinh tế.
Hai thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau được ví như hai bánh
xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ

cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ không có chứng khoán để
lưu thông trên thị trường thứ cấp, và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì
việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ là khó khăn, khiến cho người đầu
tư sẽ dè dặt khi mua chứng khoán, làm thu hẹp thị trường sơ cấp, hạn chế huy
động vốn của các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt
lý thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường, không có sự phân biệt đâu là thị trường
sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường vừa có giao dịch
của thị trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp, vừa có việc mua
bán các loại chứng khoán mới phát hành, vừa có việc mua bán chứng khoán theo
tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị
trường phát hành, là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành, đồng thời phải
giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn
thị trường để bảo vệ thị trường tài chính trở thành công cụ hữu dụng của nền
kinh tế.
1.2.4 Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn
Thị trường tiền tệ: là nơi trao đổi, mua bán quyền sử dụng nguồn tài chính (
các công cụ taì chính) ngắn hạn. TT tiền tệ gồm TT vay nợ, TT liên ngân hàng,
TT hối đoái. Nền kinh tế tị trường thương mại hóa các hoá các hoạt động kinh tế
trong đó tiền tệ với tư cách là một loại hàng hóa đặc biệt. Nền kinh tế thị trường


các phát triển thì các hoạt động của thị trường tiền tệ càng hoàn chỉnh hơn, thị
trương tiền tệ phát triển càng rộng thì vai trò của của nó càng trở nên qua trọng
hơn đối với hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế -xã hội của một đất nước, là động lực
thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Các công cụ thị trường tiền tệ vì có kỳ
hạn ngắn nên giá của các công cụ tiền tệ thường ít biến động hơn so với các công
cụ dài hạn khi lãi suất thị trường thay đổi, vì vậy chúng có độ an toàn cao hơn và
khả năng thanh khoản cũng như mua bán chuyển đổi dễ dàng hơn

Lãi suất trên thị trường tiền tệ bị ảnh hưởng bởi sự tương tác giữa cung và cầu
với chính sách can thiệp của Ngân hàng Trung ương
Thị trường vốn: là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính có thời gian
đáo hạn trên 1 năm. Bao gồm : thị trường vay nợ và thị trường chứng khoán
2.1. Vai trò điều tiết của Nhà nước qua kênh tài chính trực tiếp
Chính phủ và thị trường là 2 thực thể gắn bó trong kinh tế thị trường.
Nhà nước có chức năng quản lí và điều tiết mọi mặt hoạt động của nền kinh
tế trong đó thị trường tài chính là một bộ phận rất quan trọng. Đồng thời trong quá
trình vận động, bản thân TTTC cũng đặt ra yêu cầu đòi hỏi phải có sự quản lý và
giám của nhà nước
TTTC có vai trò quan trọng trong thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Nhận
thức được điều đó, nhà nước sử dụng khả năng của mình để tạo điều kiện hình
thành và phát triển các TTTC
Mặt khác thông qua bộ máy các cơ quan, nhà nước giám sát hoạt động của
các TTTC nhằm duy trì sự ổn định và lành mạnh của chúng. Sự tác động của nhà
nước đến quá trình hoạt động của TTTC có thể bằng các biệp pháp trực tiếp hay
gián tiếp
Trong mỗi loại TTTC khác nhau, Nhà nước thể hiện vai trò của mình bằng
các biện pháp và công cụ khác nhau.Sự tác động của nhà nước đến hoạt động của
TTTC nhằm thúc duy trì sự ổn định và lành mạnh của chúng
Thị trường tài chính được xem là một thị trường bậc cao, một thị trường đặc
biệt. Điều tiết của Chính phủ đối với thị trường này; vì thế, cũng phải phù hợp với
những đặc điểm, đặc thù của thị trường. Có như vậy, thị trường mới có thể phát
triển bền vững
Nói chung, nhà nước thể hiện vai trò của mình bằng các biện pháp và công


cụ khác nhau nhưng nói chung thể hiện ở 3 mặt cơ bản:
1. Tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của thị trường tài
chính.

Môi trường pháp lý là vấn đề hết sức quan trọng cho thị trường tài chính
hình thành và phát triển. nhà nước ban hành luật pháp và quy chế để điều chỉnh
các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường .
thông qua môi trường pháp lý ổn định, Nhà nước quản lý, điều chỉnh, thúc đẩy và
làm lành mạnh hoạt động của TTTC, từ đó củng cố lòng tin vào thị trường. những
điều này thể hiện trên các mặt:
Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ để điều chỉnh các hoạt
động trên TTTC như: luật công ty, luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán,
luạt tín thác, luật lưu ký….( VD: công báo/số 55+56/24-01-2007/VBQPPL/NĐCP/128. Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng Khoán:
Quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết chứng khoán tại sở
giao dịch chứng khoán trung tâm giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán và
công ty quản lý quỹ…)
NN ban hành các văn bản dưới luật quy định chức năng, nhiệm vụ và phạm
vi hoạt động động của các tổ chức tài chính( ngân hàng nhà nước, ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm…).( VD:
Nghi định của chính phủ số 96/2008/NĐ-CP ngày 26 tháng 08 năm 2008 Quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước việt
nam: ND của nghị định như sau
Điều 1. Vị trí và chức năng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) là
cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền
tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi
quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 2. Nhiệm vụ và quyền hạn
Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị
định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và
những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:



Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ; dự thảo nghị định của
Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Ngân
hàng Nhà nước đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ………….
Quy định mô hình tổ chức và quy chế hoạt động của từng loại TTTC
2. Tạo môi trường kinh tế cho sự hình thành và phát triển của thị trường tài
chính
TTTC chỉ ra đời và phát triển trong điều kiện môi trường kinh tế ổn định và
phát triển ở một mức độ nhất định. NN tạo ra môi trường kinh tế cho sự hình thành
và phát triển của TTTC thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
NN sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tiền tệ, chính sách
thuế, chính sách tỷ giá, chính sách thu nhập…) nhằm ổn định môi trường kinh tế,
ổn định giá trị của đồng tiền, khuyến khích tích lũy và đầu tư, điều chỉnh cơ cấu
kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường hình thành và phát triển.
VD:Nền kinh tế Việt Nam
Năm 2008 nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng tác động của khủng hoảng tài
chính thế giới. Lạm phát và lãi suất tăng cao đã làm cho khả năng thanh khoản của
thị trường giảm sút, từ đó đã ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực tài chính cho
đầu tư phát triển, trước tình hình đó, nhà nước đã dùng các chính sách tiền tệ của
mình để quy định lãi suất cơ bản đối với đồng nội tệ tại các ngân hàng là
12%/năm (tháng 5/2008) và 14%/năm (tháng 6/2008), và lãi suất đối với đồng
ngoại tệ là 3%/năm, với chính sách vĩ mô hiệu quả, nền kinh tế đã trở nên ổn định
hơn vào cuối năm và lạm phát dừng lại con số có thể kiểm soát, hoạt động của các
ngân hàng đi vào ổn định, diều đáng mừng là trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm
2008 thì hầu hết các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều bị ảnh hưởng
nghiêm trọng và bị suy thoái nhưng Việt Nam là quốc gia duy nhất trong số các
nền kinh tế đang nổi lên ở khu vực Đông nam Á không rơi vào tình trạng suy thoái
năm 2008 dưới tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Dẫu vậy, các chỉ tiêu

kinh tế vĩ mô cũng đã cho thấy rằng cuộc khủng hoảng đã có ảnh hưởng sâu sắc
đến nền kinh tế. Tốc độ tăng GDP của cả năm đã giảm chậm lại từ 8,5% năm 2007
xuống còn 6,3% năm 2008 và tiếp đó là 5,3% năm 2009 trước khi hồi phục trở lại
mức 6,5% năm 2010. …..
Ví dụ điển hình của thị trường chứng khoán năm 2007


Đầu năm 2007 thị trường chứng khoán quá nóng, được thể hiện ở các điểm
như
Mức tăng trưởng chỉ số VN-index là 23,3% và HASTC index là 33,2% so với
2006
Hơn 330000 tài khoản được mở so với 130000 tk so với năm trước
7900 tài khoản đầu tư của nước ngoài
Thị trường quá nóng, sự dồn dập của chứng khoán khiến nhiều chuyên gia ví
VN như Second China
Chính việc này mang lại lợi nhuận dồn dập cho người chơi chứng khoán và
đỉnh điểm sự kỳ vọng là VN-Index lên tới 1,1070.67 điểm vào giữa tháng 7
Để điều tiết điều này thì các luật lệ đã được ban hành và nhà nước thu mua hơn
7 tỷ USD để giảm sự lạm phát, ban hành các luật mới đẻ thắt chặt và kìm hãm
giarm sức nóng thị trường.
Tuy nhiên đến 2010 và nhất là sang 2011 thị trường tài chính Việt Nam vì phát
triển quá nhanh dẫn tới sự suy thoái nhanh chóng. Bắt đầu từ các ngân hàng sau đó
kéo theo hệ lụy là các sàn chứng khoán và các công ty cổ phẩn. Vào thời điểm này
chỉ có những công ty thật sự có thực lực mới có thể chống chọi và đương đầu
đứng vững thị trường. Các công ty chứng khoán làm ăn thiếu minh bạch thiếu sự
đồng bộ dần dần sụp đồ. Thời kỳ này có thể thấy chuyện sau 1 đêm phá sản là
chuyện thường tình. Lý giải điều này có thể thấy đơn giản vi việc quản lý của nhà
nước chưa tốt. Các chính sách còn quá lỏng lẻo và không có những chính sách
nhất quán.
VD: nền kinh tế Mỹ

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar
Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư
toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar
Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt hại.
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp
bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng
hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp
tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức
tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ
5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-


30/4/2008). Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn
0,25%, mức lãi suất gần 0 hiếm thấy. FED còn thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
(mua lại các trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ mà các tổ chức tài chính nước này có) và
hạ lãi suất tái chiết khấu. Giữa tháng 12 năm 2008, FED tuyên bố có kế hoạch
thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ mặt lượng.
Tháng 12 năm 2007, Chính phủ Hoa Kỳ đã lập ra và giao cho Fed chủ trì
chương trình Term Auction Facility để cấp các khoản vay ngắn hạn có kỳ hạn từ
28 đến 84 ngày theo lãi suất cao nhất mà các tổ chức tài chính trả qua đấu giá.
Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ dollar được FED đem cho vay theo
chương trình này. FED còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài
chính với số tiền tổng cộng tới 1,6 nghìn tỷ tính đến tháng 11 năm 2008.

Mua repo MBS của Fed tăng vọt vào cuối năm 2007.
NN ban hành chính sách khuyến khích phát hành các công cụ cho TTTC , đồng
thời bản thân NN cũng tham gia vào phát hành trái phiếu chính phủ,, tín phiếu kho
bạc, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệpNN, đẩy mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu và tài chính đối ngoại
3. Giám sát hoạt động của thị trường tài chính

Việc giám sát của nhà nước đối với TTTC là cần thiết để đảm bảo cho
chúng hoạt động và phát triển ổn định, lành mạnh. Thông qua việc giám sát hoạt
động của thị trường, NN có các biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo trật
tự trên TTTC, từ đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia các hoạt động trên


TTTC. Mặt khác, thông qua giám sát NN có các biện pháp điều chỉnh hoạt động
của TTTC đảm bảo sự lành mạnh và ổn định của thị trường.
Việc kiểm tra giám sát của nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan
chức năng ngân hàng nhà nước, bộ tài chính, UB chứng khoán quốc gia
Hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam hiện nay về thực chất được tổ chức
theo mô hình phân tán chuyên ngành, tức là mỗi bộ phận của thị trường tài chính
được giám sát bởi một cơ quan giám sát chuyên ngành như: Thị trường ngân hàng
được giám sát bởi cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (trực thuộc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam); thị trường chứng khoán được giám sát bởi Uỷ ban chứng
khoán Nhà nước (trực thuộc Bộ Tài chính) ; thị trường bảo hiểm được giám sát bởi
Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (trực thuộc Bộ Tài chính). Với mô hình như vậy
tất yếu sẽ có những ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm: Bảo đảm giám sát được các định chế trung gian tài chính một
cách chặt chẽ, thường xuyên.
Nhược điểm: Với mô hình như trên sẽ tất yếu dẫn đến những khoảng trống
trong hoạt động giám sát như giám sát chéo hoạt động trong các tập đoàn tài chính
kinh doanh đa ngành và giám sát rủi ro đan xen giữa các bộ phận của thị trường
khó thực hiện, giám sát an toàn vĩ mô thị trường tài chính bị xem nhẹ, đồng thời
việc điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành không thực hiện được.
Để khắc phục những nhược điểm trên, tháng 03 năm 2008, Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định thành lập Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia. Uỷ ban
này có chức năng giám sát chung thị trường tài chính và tham mưu, tư vấn cho
Thủ tướng trong điều phối hoạt động giám sát thị trường tài chính.
Như vậy, TTTC là một trong những phần quan trọnghệ thống tài chính. Sự

tạo lập và phát triển TTTC đóng một vai trò không thể thay thế trong sự nghiệp
phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Một thị trường tài chính
hoạt động có hiệu quả sẽ tận dụng được ở mức cao nhất mọi nguồn vốn tiềm tang
trong nước và từ nước ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống của nhân
dân. Vai trò của nhà nước đối với TTTC vô cùng quan trọng, nhưng không thể ép
buộc hoàn toàn nền kinh tế dưới sự chỉ huy của Nhà nước mà vẫn phải để cho thị
trường tự điều tiết, để thị trường tài chính phát triển một cách hoàn thiện nhất
trong xu hướng của nền kinh tế thị trường hiện nay.


2.2. Vai trò điều tiết của Nhà nước qua kênh tài chính gián tiếp

2.2.1 Các trung gian tài chính (kênh tài chính gián tiếp gồm
những gì)
Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5 Ngân hàng thương mại lớn
(Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân
hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng chính sách, Ngân hàng
phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh; 36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài; 10 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê tài chính; 998 Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở.
Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các
hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính...
Tại Việt Nam, hiện có đầy đủ các loại hình tổ chức tài chính trung gian bao gồm:
 Ngân hàng thương mại
 Công ty tài chính
 Công ty bảo hiểm
 Các loại quĩ tiết kiệm
 Các quĩ tín dụng
 Các loại quĩ hỗ tương ...
a. Loại hình: Ngân hàng thương mại

Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/5/1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác
định: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".


Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì hiện Việt nam có: 5 Ngân hàng thương mại lớn
(Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công Thương, Ngân
hàng Đầu tư Phát triển, Ngân hàng Xuất nhập khẩu), Ngân hàng chính sách, Ngân hàng
phát triển; 6 Ngân hàng liên doanh; 36 Ngân hàng thương mại cổ phần; 46 chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài; 10 Công ty tài chính; 13 Công ty cho thuê tài chính; 998 Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở. Các đơn vị trên đều có chức năng cho vay, là chức năng chính của
ngân hàng.
Dân số nước ta hiện nay ước khoảng 86 triệu người, GDP khoảng 65 tỷ USD, số lượng
các ngân hàng này hiện này được xem là đông đảo với một thị trường tài chính nhỏ như
Việt Nam. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất nhanh trong những
năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân 35%/năm.
Bên cạnh sự tăng trưởng, hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại cũng được
nâng lên rõ rệt, đặc biệt là khối NHTMCP. Năm 2007, tỷ lệ ROA trung bình của toàn hệ
thống đạt 1,51%, ROE đạt 16,42% so với mức trung bình trong khu vực lần lượt là 1,18%
và 16,47%. Tỷ lệ NPL của toàn hệ thống ngân hàng trong đã giảm từ 14% trong năm
2006 xuống 3% trong năm 2007, tính theo chuẩn quốc tế (IFRS) tỷ lệ này lần lượt là 30%
năm 2006 và 6% năm 2007.
Tuy tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh nhưng hiện vẫn cao hơn nhiều so với mức 0,06% của các chi
nhánh Ngân hang nước ngoài tại Việt Nam.
b. Loại hình: Công ty Tài chính
Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, nó sinh ra một nhu cầu lớn về vốn. Khi này,
các Ngân hàng với những điều kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều kiện
giải ngân... sẽ rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Sự ra đời của các công ty
tài chính, cho thuê tài chính là một bước phát triển tất yếu của thị trường tài chính.



Tại Việt Nam, hiện có tới 17 công ty tài chính, phần lớn thuộc các tập đoàn kinh tế Nhà
nước. Các công ty tài chính thường trực thuộc những Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước
như: Công ty tài chính công nghiệp Tàu thủy, Công ty tài chính Điện lực, công ty tài
chính xi măng, công ty tài chính Than khoáng sản Việt nam, công ty tài chính Cổ phần
Dầu khí…

Các công ty tài chính với ưu thế về nguồn vốn lớn từ các tập đoàn rót xuống đã liên
tục đầu tư dài hạn, tài trợ các dự án như: Dự án đóng tàu, dự án thủy điện, đầu tư tài
chính...
Ưu điểm của các công ty tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung ứng cho
nhiều dự án lớn trọng điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam, các công ty tài chính lại trực thuộc
các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản chất là sử dụng vốn của Nhà nước.
Năm 2008 khi các Tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề chính
đều thua lỗ trong khi phần thu lãi lại xuất phát từ đầu tư tài chính. Trong khi đó, các Tổng
công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các dự án thì
vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài chính.
c. Loại hình: các Công ty Bảo hiểm
Dẫn lời một quan chức trong ngành Bảo hiểm thì Việt Nam vẫn là một thị trường bảo
hiểm năng động và tiềm năng. Sự ra đời và xuất hiện các công ty bảo hiểm trên thị trường
đem lại cho người tiêu dung nhiều lợi ích từ việc bảo hiểm những rủi ro trong cuộc sống
hàng ngày.
Các công ty bảo hiểm với rất nhiều sản phẩm bảo hiểm hầu như đã đáp ứng được những
nhu cầu bảo hiểm phong phú từ khách hàng. Hiện các công ty bảo hiểm đang quản lý một
lượng lớn nguồn vốn. Nguồn vốn này các Công ty bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn,
đầu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận.
Theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm Quốc gia thì tính đến tháng 6 năm 2009, tổng số tiền
các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ năm giữ là 250,43 ngàn tỷ đồng. Các công ty Bảo



hiểm tham gia tích cực khi tham gia đầu tư, tài trợ dự án, giải ngân vốn cho các tổ chức
tín dụng, các tổ chức kinh tế vay vốn. Và với lợi thế ngành, các doanh nghiệp Bảo hiểm
còn tư vấn cho các khách hàng vay vốn của mình nên mua bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro
và cũng là giảm thiểu rủi ro cho các doanh nghiệp Bảo hiểm.
Theo số liệu chưa kiểm toán thì tính đến thời điểm tháng 6 năm 2009 các doanh nghiệp
có tổng mức trách nhiệm cao trên thị trường bảo hiểm là: Prudential 94 ngàn tỷ, Bảo Việt
nhân thọ là hơn 67 ngàn tỷ, AIA là 27 ngàn tỷ đồng.

Như vậy, sự phát triển của các loại hình tài chính trung gian đã tạo ra một lượng cung
vốn dồi dào cho các doanh nghiệp, có tác dụng thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế

2.2.2 Vai trò điều tiết của nhà nước đối với các kênh tài chính
gián tiếp
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, Nhà nước khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân phát triển các ngành nghề. Cùng với sự phát triển thì nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh, cho nhu cầu xuất nhập khẩu ngày càng tăng cao:
Năm 2000 đánh dấu sự ra đời của thị trường Chứng khoán Việt Nam. Các doanh nghiệp
và các tổ chức tài chính sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong việc huy động vốn và sử dụng
đồng vốn của mình. Nếu từ trong giai đoạn năm 1998 đến thời điểm trước năm 2005, quy
mô vốn của các trung gian tài chính trên thị trường Việt Nam là rất nhỏ bé thì sau năm
2005 các mô hình, loại hình thị trường có sự phát triển mau lẹ, rõ rệt.
Ta luôn được chứng kiến có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ
chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư.
Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau:


- Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dụng thẻ...
Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000 tài khoản cá nhân, trong
đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ thể.

- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội. Giữa các tài
chính tín dụng cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực...
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm. Đây là hình thức huy động vốn truyền thống giữa
các tài chính tín dụng và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở.
Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra
dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp,
tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiền trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì
lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ lúc nào
có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ hạn gần nhất, tiết
kiệm dự thưởng...
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy động vốn có thời
hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn. Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh
sôi động trên thị trường thu hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ
chức trung gian tài chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu
hút tiền gửi, huy động vốn.
Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là chưa thu hút
được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng,
trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu
bất cứ lức nào có nhu cầu.
Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì
nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các tài chính tín
dụng. Trong năm 2007, cùng với sự phát triển nóng của thị trường Chứng khoán là sự ra
đời hàng loạt các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ.
Sự ra đời các Ngân hàng khiến thị trường tài chính Việt Nam có những sự phát triển rất
nóng. Cùng với những luồng tiền được đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam thì những
dự án đầu tư xem ra chưa thấy rõ được hiệu quả. Theo thống kê của WB thì hệ số ICOR
của Việt Nam đang ở mức rất cao, vào khoảng trên 5.
Khi thị trường phát triển quá nóng, các trung gian tài chính ngày càng phình to ra thì

nguy cơ về một cuộc “nổ bong bóng” kinh tế đã được nhiều chuyên gia kinh tế phản ánh
dự báo trước. Thị trường tài chính Việt Nam khi này được ví như một “lò hơi”, có thể xì
hơi bất cứ lúc nào.
Điều tai hại hơn ở chỗ, ngay cả các trung gian tài chính cũng lao vào cuộc chạy đua đầu
tư tài chính. Luồng vốn lớn không được đổ nhiều vào sản xuất kinh doanh mà lại sử dụng


vào việc mua bán vốn trên thị trường. Cùng với đó các tập đoàn cũng trích từ nguồn vốn
của mình một lượng vốn lớn để đổ vào thị trường tài chính: hiện trạng trên khiến thị
trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn năm 2007 phát triển nhanh và rất nóng.
Khi thị trường tài chính Việt Nam phát triển, kéo theo sự tăng điểm hàng ngày của thị
trường chứng khoán. Đã có thời điểm thị trường chứng khoán Việt Nam “cán đích” trên
1100 điểm. Số lượng các tài khoản được mở tại các Công ty chứng khoán luôn ở mức ấn
tượng. Lúc này các doanh nghiệp niêm yết rất dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ
qua các cuộc phát hành thêm cổ phiếu.
Nhận thấy những bất cập trên và dự đoán được những tác động tai hại nếu để thị trường
chứng khoán phát triên quá nóng, bộ tài chính quyết định dùng một chính sách nhằm điều
tiết thị trường.
Ngày 17/03/2008, Bộ Tài chính ban hành một nghị quyết mà theo đó các Ngân hàng
thương mại buộc phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Chính điều này đã một lúc
“ép” các ngân hàng thiếu vốn khả dụng, buộc họ phải tìm mọi cách thu hút lượng tiền gửi
từ dân cư.
Hành động của Bộ Tài chính có tác dụng thắt chặt tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Việc ban
hành quyết định phát hành tín phiếu đã hút khỏi thị trường một lượng vốn khồng lồ. Hành
động này Nhà nước kỳ vọng sẽ kiểm soát được tình trạng phát triển quá nóng của thị
trường tài chính.
Song kịch bản thị trường đã có nhiều điểm thăng trầm! Do hành động quá mạnh tay,
nhiều ngân hàng rơi vào tình trạng thiếu hụt nguồn vốn khả dụng nghiêm trọng. Và khi
đó diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường vốn giữa các Ngân hàng. Các Ngân
hàng liên tục hút người gửi tiền bằng hình thức chạy đua lãi suất huy động. Có nhiều

ngân hàng thương mại thậm chí đã đẩy mức lãi suất huy động lên tới hơn 20%/năm.
Điều này ngay lập tức tác động lớn đến tâm lý của công chúng đầu tư. Một lượng vốn lớn
bị rút khỏi thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán bị down liên tục, phá vỡ tất
cả các ngưỡng hỗ trợ mặc cho Bộ Tài chính liên tục có những sự động viên. Các công ty
chứng khoán, quỹ đầu tư rơi vào tình trạng heo hắt khi mà giao dịch cực thấp, lượng nhà
đầu tư đóng băng tài khoản rất lớn.
Sự ngừng hoạt động (giải thể) hoặc rút bớt nghiệp vụ của các công ty chứng khoán là một
tất yếu được dự báo trước. Một hệ quả tất yếu nữa là các doanh nghiệp càng ngày càng
gặp khó khăn qua các phương án tăng vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Mà việc
tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì rất khó khăn bởi lãi suất giải ngân rất lớn. Nhiều
doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã bị mất những đơn hàng quan trọng. Nhiều doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh bị đình đốn.
Vào thời điểm gần nửa cuối năm 2008, thị trường tài chính Việt Nam gặp khủng hoảng.
Các doanh nghiệp Việt Nam bị co cụm thu hẹp sản xuất. Nhiều doanh nghiệp ngành may
mặc, chế biến sa thải công nhân ồ ạt. Lượng người bị mất việc ở các khu công nghiệp
cộng thêm số lao động bị mất việc ở nước ngoài trở về nước đã trở thành “gánh nặng” lớn


đối với nền kinh tế đất nước.
Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới chính thức rơi vào khủng hoảng với sự bắt đầu
ở Mỹ khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng và sự phá sản của hàng loạt Ngân hàng lớn.
Cơn bão khủng hoảng lập tức lan nhanh ra khắp thế giới.
Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng này kéo theo suy thoái nền kinh tế. Mục tiêu phát triển
kinh tế cả năm khó có khả năng hoàn thành, vì thế Chính phủ đã chấp nhận mức điều
chỉnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hạ xuống dưới 6% so với mục tiêu tăng trưởng được đặt ra
đầu năm là 8.5%. Tất cả Chính phủ các quốc gia đều rất nỗ lực trong công cuộc cứu vãn,
đối phó với cơn bão khủng hoảng.
Chính sách được hầu hết các quốc gia đưa ra mà đi dầu là Mỹ và EU là các gói hố trợ
kinh tế khổng lồ. Ở các nước này, chính phủ chủ trương bơm thêm tiền vào thị trường tài
chính thông qua hệ thống Ngân hàng: Cho các doanh nghiệp vay ưu đãi sản xuất, hỗ trợ

cho vay xuất nhập khẩu, cho vay tiêu dùng.
Ở Việt Nam, chính phủ công bố gói hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh là hơn 1 tỷ USD được giải ngân thông qua hệ thống Ngân hàng. Mức hố trợ lên tới
4%/ năm Sự can thiệp của chính phủ phần nào có tác dụng tốt tới thị trường tài chính.
Các ngân hàng bớt sự khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Các doanh nghiệp vui mừng
sẽ được tiếp cận được luồng vốn rẻ.
Tuy nhiên, thực tế diễn ra không phải lúc nào cũng như mong đợi của Chính phủ. Các
doanh nghiệp vốn vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ
này bởi những điều kiện chặt chẽ do Ngân hàng đề ra. Còn các doanh nghiệp tập đoàn lớn
thì nhu cầu về vốn không quá bức thiết. Việc nguồn vốn hỗ trợ chưa thực sự đến “tận tay”
những đối tượng cần vốn phần nhiều đã giảm tác dụng của gói kích cầu do chính phủ đề
ra.
Tháng 6 năm 2009, Việt Nam tuyên bố thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng nhiều
chuyên gia còn khá thận trọng khi đề cập đến vấn đề này. Việc giải ngân vốn rất dễ gây ra
hiện tượng lạm phát cho Việt Nam trong tương lai gần. Sự kiềm chế lạm phát của chính
phủ trong những tháng vừa qua sẽ là vô nghĩa nếu như để hiện tượng lạm phát quay trở
lại.
Trong các buổi hội thảo, tọa đàm, Chính phủ luôn đề cao vai trò của các trung gian tài
chính, trong đó chủ chốt là ngành Ngân hàng trong việc điều tiết lượng cung cầu vốn trên
thị trường. Vai trò của các trung gian tài chính rất to lớn đối với sự phát triển của nền
kinh tế. Nó đảm bảo được sự thanh khoản trong nền kinh tế cũng như có tác động tốt tới
việc cung ứng vốn, điều tiết vốn. Tin rằng trong thời gian tới, thị trường tài chính sẽ có sự
phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển đi lên của nền kinh tế.

Ví dụ:
Giai đoạn 2008 -2010
Nhà nước chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, nền KT phát
triển quá nóng bất chấp nguy cơ tiềm tàng như cuộc khủng hoảng tài chính trên thế



giới đang diễn ra.
--> Chính phủ thực thi chính sách tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân
sách (5.8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu
tư công.
- Đầu tư công vượt kế hoạch (226%) làm ngân sách nhà nước mất cân đối, ảnh
hưởng đến khả năng vay và trả nợ. Tuy nhiên các khoản đầu tư công ko hiệu quả
dẫn đến việc mất cân bằng giữa lượng hàng hóa và lượng tiền trong nền kinh tế
-->hậu quả: xảy ra lạm phát.
-Lạm phát trong mấy năm liền ở mức 2 con số đã khiến CP sử dụng chính sách
tiền tệ thắt chặt. Lãi suất ngân hàng tăng cao để rút bớt tiền trong nền kinh tế
/>Vào thời điểm gần nửa cuối năm 2008, thị trường tài chính Việt Nam gặp khủng
hoảng. Các doanh nghiệp Việt Nam bị co cụm thu hẹp sản xuất. Nhiều doanh
nghiệp ngành may mặc, chế biến sa thải công nhân ồ ạt. Lượng người bị mất việc
ở các khu công nghiệp cộng thêm số lao động bị mất việc ở nước ngoài trở về
nước đã trở thành “gánh nặng” lớn đối với nền kinh tế đất nước.
Bước sang năm 2009, nền kinh tế thế giới chính thức rơi vào khủng hoảng với sự
bắt đầu ở Mỹ khi thị trường nhà đất Mỹ bị đóng băng và sự phá sản của hàng loạt
Ngân hàng lớn. Cơn bão khủng hoảng lập tức lan nhanh ra khắp thế giới.
Ở Việt Nam, cuộc khủng hoảng này kéo theo suy thoái nền kinh tế. Mục tiêu phát
triển kinh tế cả năm khó có khả năng hoàn thành, vì thế Chính phủ đã chấp nhận
mức điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hạ xuống dưới 6% so với mục tiêu tăng
trưởng được đặt ra đầu năm là 8.5%. Tất cả Chính phủ các quốc gia đều rất nỗ lực
trong công cuộc cứu vãn, đối phó với cơn bão khủng hoảng.
Chính sách được hầu hết các quốc gia đưa ra mà đi dầu là Mỹ và EU là các gói hố
trợ kinh tế khổng lồ. Ở các nước này, chính phủ chủ trương bơm thêm tiền vào thị
trường tài chính thông qua hệ thống Ngân hàng: Cho các doanh nghiệp vay ưu đãi
sản xuất, hỗ trợ cho vay xuất nhập khẩu, cho vay tiêu dùng.
Ở Việt Nam, chính phủ công bố gói hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh là hơn 1 tỷ USD được giải ngân thông qua hệ thống Ngân hàng.
Mức hố trợ lên tới 4%/ năm Sự can thiệp của chính phủ phần nào có tác dụng tốt

tới thị trường tài chính. Các ngân hàng bớt sự khó khăn trong vấn đề huy động
vốn. Các doanh nghiệp vui mừng sẽ được tiếp cận được luồng vốn rẻ.
Tuy nhiên, thực tế diễn ra không phải lúc nào cũng như mong đợi của Chính phủ.
Các doanh nghiệp vốn vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn
vốn hỗ trợ này bởi những điều kiện chặt chẽ do Ngân hàng đề ra. Còn các doanh
nghiệp tập đoàn lớn thì nhu cầu về vốn không quá bức thiết. Việc nguồn vốn hỗ


trợ chưa thực sự đến “tận tay” những đối tượng cần vốn phần nhiều đã giảm tác
dụng của gói kích cầu do chính phủ đề ra.
Tháng 6 năm 2009, Việt Nam tuyên bố thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng
nhiều chuyên gia còn khá thận trọng khi đề cập đến vấn đề này. Việc giải ngân
vốn rất dễ gây ra hiện tượng lạm phát cho Việt Nam trong tương lai gần. Sự kiềm
chế lạm phát của chính phủ trong những tháng vừa qua sẽ là vô nghĩa nếu như để
hiện tượng lạm phát quay trở lại.
Trong các buổi hội thảo, tọa đàm, Chính phủ luôn đề cao vai trò của các trung gian
tài chính, trong đó chủ chốt là ngành Ngân hàng trong việc điều tiết lượng cung
cầu vốn trên thị trường. Vai trò của các trung gian tài chính rất to lớn đối với sự
phát triển của nền kinh tế. Nó đảm bảo được sự thanh khoản trong nền kinh tế
cũng như có tác động tốt tới việc cung ứng vốn, điều tiết vốn. Tin rằng trong thời
gian tới, thị trường tài chính sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn, góp phần thúc đẩy
sự phát triển đi lên của nền kinh tế.
- Bài học từ khủng hoảng tài chính Mỹ

B8.pdf


×