Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng quốc tế kiểm soát và giám sát hoạt động của ngân hàng quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.65 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÀI TẬP NHÓM
Đề tài:
KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

Giảng viên: TS. Đinh Xuân Cường
Lớp:

QH-2014-E.CH_TCNH3

Nhóm:

7

Hà Nội, tháng 11 năm 2015

1


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4.1
STT

Mã học viên

Họ và tên

1


14057665

Nguyễn Thị Vân

Anh

20/10/1990

2

14057029

Nguyễn Thị Thanh

Bình

02/05/1985

3

14057674

Nguyễn Minh

Dũng

15/05/1977

4


14057678

Lê Đức

Đạt

02/09/1990

5

14057762

Hoàng Thu

Trang

23/10/1991

6

14057723

Trần Ánh

Nguyệt

16/10/1990

2


Ngày sinh


Lời mở đầu
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó khu
vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế là dòng chảy chính, và Việt Nam cũng không
đứng ngoài xu thế đó. Hiện nay, Việt Nam đang là thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế quốc tế, hoặc tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực
và quốc tế, có phạm vi và tầm ảnh hưởng ở qui mô toàn cầu, như: Hiệp hội
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Diễn
đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – TBD
(APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...
Do đó, chúng ta phải tuân thủ các quy định và cam kết khi tham gia các
tổ chức hoặc diễn đàn này, trong đó có quy định về mở cửa thị trường cho bên
ngoài, bao gồm cả thị trường tiền tệ ngân hàng, đồng thời hoạt động kinh tế
không còn bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà còn vươn ra bên ngoài
lãnh thổ quốc gia, hoạt động giao thương kinh tế với các nước ngày càng phát
triển, đòi hỏi phải có các phương thức giao dịch tương ứng để phục vụ cho
các hoạt động giao thương kinh tế này.
Từ những đòi hỏi trên, mà hoạt động ngân hàng quốc tế cũng theo đó
phát triển không ngừng, từ các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của
các NHTM trong nước, đến hoạt động ngân hàng quốc tế của các ngân hàng
nước ngoài, đã làm cho hoạt động ngân hàng quốc tế tại Việt Nam ngày càng
mở rộng và phát triển.
Tuy nhiên, để hoạt động ngân hàng quốc tế phát triển lành mạnh, ổn
định, an toàn, hiệu quả đóng góp vào sự phát triển chung của hệ thống ngân
hàng, của nền kinh tế đất nước, cũng như tránh được những tác động tiêu cực
từ hoạt động ngân hàng quốc tế đến hoạt động của cả hệ thống ngân hàng Việt
Nam, cũng như tác động xấu đến hoạt động của nền kinh tế thì việc kiểm soát
và giám sát hoạt động của ngân hàng quốc tế là điều cần thiết.


3


I. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
1. Khái niệm về ngân hàng quốc tế
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc hiểu thế nào là ngân hàng quốc tế.
Có cách hiểu là ngân hàng có các chi nhánh hoạt động ở nước ngoài. Cách
hiểu khác lại lấy đồng tiền sử dụng trong giao dịch làm cơ sở phân loại ngân
hàng quốc tế với ngân hàng nội địa, theo đó, một ngân hàng vẫn chỉ được coi
là ngân hàng nội địa nếu tiền gửi cho dù của khách hàng nước ngoài gửi vào
ngân hàng đó là đồng nội tệ. Một cách hiểu nữa về ngân hàng quốc tế xuất
phát từ quốc tịch của khách hàng và của ngân hàng, theo đó, quốc tịch của
khách hàng và ngân hàng khác nhau thì ngân hàng đó được coi là ngân hàng
quốc tế. Tóm lại, yếu tố thực chất quyết định một ngân hàng có là ngân hàng
quốc tế hay không bao gồm: (1) Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc
tế; (2) Ngân hàng là một ngân hàng đa quốc gia.
Vậy, ngân hàng quốc tế được hiểu là ngân hàng cung cấp các dịch vụ
ngân hàng quốc tế hoặc ngân hàng là một ngân hàng đa quốc gia. Do đó, có
thể đưa ra khái niệm về ngân hàng quốc tế như sau: ngân hàng quốc tế là ngân
hàng thực hiện các giao dịch đan chéo nhau giữa nhiều quốc gia hoặc ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ xuyên biên giới của các quốc gia.
Có hai loại chính của ngân hàng quốc tế:
- Foreign banking bao gồm các ngân hàng có giao dịch với người
không cư trú bằng đồng tiền nội tệ tạo điều kiện cho tài trợ thương mại.
- Eurocurrency banking bao gồm các ngân hàng cung cấp các giao dịch
ngoại hối (huy động và cho vay) với các khách hàng là người cư trú và người
không cư trú.
2. Các loại hình tổ chức của Ngân hàng quốc tế
Các Ngân hàng thương mại thường tạo lập sự hiện diện của mình tại

các nước khác ngoài quốc gia mà nó đăng ký thành lập, hay còn được gọi là
“nước đặt trụ sở ngân hàng mẹ - nước nguyên xứ”. Quốc gia mà Ngân hàng
đó có sự hiện diện sẽ được gọi là “nước đặt cơ sở” hay “nước sở tại”. Khi đó
nước sở tại sẽ gọi thực thể ngân hàng đó là “ngân hàng nước ngoài”, trong cả
các văn bản pháp luật và thực tiễn.
Tùy theo quy định của luật pháp nước sở tại mà các Ngân hàng nước
ngoài thành lập cơ sở của mình dưới một hoặc nhiều hình thức.

4


Tại nước sở tại, Ngân hàng nước ngoài thường được thành lập dưới các
hình thức sau:
2.1. Văn phòng đại diện
Đây là mô hình tổ chức đơn giản nhất của ngân hàng hoạt động tại thị
trường nước ngoài. Nó có thể cung cấp hữu hạn các dịch vụ giống như ở hội
sở chính, nhưng không được phép nhận tiền gửi và cho vay. Văn phòng dạng
này được thiết lập để cung cấp các dịch vụ bổ trợ cho ngân hàng sở hữu và
khách hàng của nó. Ví dụ: hiện nay, Vietcombank có một văn phòng đại diện
tại Singapore, Ngân hàng Kasikorn của Thái Lan chính thức mở hai văn
phòng đại diện ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội để đáp ứng nhu cầu thương mại
và đầu tư tăng cao của các công ty Thái Lan đang hướng vào Việt Nam.
2.2. Văn phòng đại lý
Loại hình này có cơ cấu hoàn thiện hơn so với mô hình văn phòng đại
diện. Đối với hình thức này, nó không được nhận tiền gửi của công chúng
nhưng lại được phép cho vay, mua nợ, cung cấp các hợp đồng tín dụng luận
chuyển, phát hành thư bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tư vấn
khách hàng, quản lý tiền mặt và giúp khách hàng mua bán chứng khoán. Ví
dụ:
2.3. Chi nhánh

Đây là mô hình tổ chức phổ biến nhất đối với phần lớn các ngân hàng
hoạt động trên phạm vi quốc tế. Nó không có sự độc lập với hội sở chính về
mặt pháp lý, nó chỉ đơn thuần là một văn phòng ở địa phương đại diện cho
một ngân hàng lớn. Chi nhánh này cung cấp đẩy đủ các dịch vụ của ngân
hàng, tuy nhiên cũng vẫn phải theo các quy định của đất nước nơi chi nhánh
ngân hàng này hoạt động. Ưu điểm của loại hình này là có thể tránh được
những quy định tại quốc gia nơi đặt trụ sở chính.
2.4. Ngân hàng thành viên
Loại hình này sinh ra khi một ngân hàng quốc tế nắm được phần lớn
quyền sở hữu đối với ngân hàng thành viên của ngân hàng đó. Tức là ngân
hàng quốc tế này đã thôn tính một ngân hàng đang hoạt động ở nước khác. Vì
ngân hàng thành viên có vốn chủ sở hữu riêng, có giấy phép kinh doanh riêng
nên khi bị ngân hàng quốc tế sở hữu phần lớn cổ phần thì cũng không nhất
thiết phải chấm dứt hoạt động. Và cho dù ngân hàng thành viên này bị đóng

5


cửa đi chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng gì đến ngân hàng quốc tế sở hữu
nó. Các ngân hàng thành viên có lợi thế hơn so với chi nhánh chính là những
lợi ích về thuế mang lại, về cơ sở khách hàng sẵn có ban đầu.
2.5. Ngân hàng liên doanh
Loại hình này xuất hiện khi mà một ngân hàng mới gia nhập một thị
trường mới ở nước ngoài. Họ cảm thấy lo ngại về vấn đề rủi ro, vấn đề thiếu
kinh nghiệm chuyên môn cần thiết, còn bỡ ngỡ với cách tiếp cận khách hàng
ở thị trường mới hay ngân hàng đó muốn cung cấp các dịch vụ mà theo quy
định ở nước sở tại là không được phép đối với các ngân hàng nước ngoài độc
lập. Do vậy, họ có thể lựa chọn hình thức liên doanh với một ngân hàng nước
ngoài để cùng nhau chia sẻ rủi ro, chi phí và lợi nhuận.
3. Các dịch vụ ngân hàng quốc tế

Dịch vụ ngân hàng quốc tế là các dịch vụ ngân hàng được cung cấp trên
thị trường quốc tế. Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế
thế giới, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, các ngân hàng hoạt động trên thị
trường quốc tế đã cung cấp các dịch vụ rất đa dạng và phong phú như tín
dụng, thanh toán, hỗ trợ marketing, dịch vụ tư vấn… để đáp ứng các nhu cầu
của khách hàng. Sau đây là một số dịch vụ chính mà ngân hàng quốc tế cung
cấp.
Ngày nay, những khách hàng năng động đòi hỏi NH hoạt động trên thị
trường quốc tế phải cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ từ tín dụng,
thanh toán cho đến dịch vụ tư vấn và hỗ trợ Marketing. Các dịch vụ này đã
được mở rộng đáng kể để tương xứng với sự tăng trưởng trong nhu cầu dịch
vụ của khách hàng và sự gia tăng không ngừng trong cạnh tranh quốc tế.
Những dịch vụ chính mà một ngân hàng quốc tế cung cấp cho khách
hàng bao gồm:
STT
DANH MỤC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
1
Cung cấp ngoại tệ đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng
Tiến hành các nghiệp vụ phòng chống rủi ro hối đoái (thông qua hợp
2
đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hợp đồng
trao đổi ngoại tệ)
Tiến hành bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty (Cổ
3
phiếu, trái phiếu và giấy nợ)
4
Tiến hành các nghiệp vụ phòng chống rủi ro lãi suất (thông qua hợp

6



đồng quyền chọn, hợp đồng tài chính tương lai, hợp đồng trần và hợp
đồng trao đổi lãi suất)
Cung cấp tín dụng, thực hiện bảo lãnh tín dụng (các khoản vay trực
5
tiếp, phát hành giấy nợ như giấy nợ Châu Âu, ADRs v.v…)
Cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế và quản lý tiền mặt (thương
6
phiếu chấp nhận thanh toán, thư tín dụng và hối phiếu)
Phát hành các công cụ tiết kiệm (CDs, tài khoản tiết kiệm, kế hoạch
7
hưu trí)
Giúp đỡ khách hàng nghiên cứu thị trường nước ngoài (phân tích thị
8
trường nước ngoài, các biện pháp bảo hiểm và tài trợ thương mại)
(Nguồn: Peter S.Rose. Quản trị ngân hàng thương mại. Nhóm tác giả trường
Đại học Kinh tế Quốc Dân biên dịch, Bảng 23-2, trang 849)
Dịch vụ cung cấp ngoại tệ đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách
hàng: cung cấp cho khách hàng ngoại tệ để thanh toán cho việc nhập khẩu
hàng hoá, nguyên vật liệu, để mua chứng khoán của nước ngoài và để tiến
hành các hoạt động thôn tính và sáp nhập. Đồng thời, đổi ngoại tệ ra bản tệ
cho khách hàng có ngoại tệ thu từ bán hàng hóa, chứng khoán ra nước ngoài.
Nghiệp vụ phòng chống rủi ro hối đoái: các ngân hàng quốc tế sử
dụng đa dạng những kỹ thuật phòng chống rủi ro tỷ giá để hạn chế rủi ro cho
khách hàng và chính bản thân ngân hàng. Các kỹ thuật này bao gồm: hợp
đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hợp đồng trao đổi
ngoại tệ. Cụ thể:
+ Hợp đồng kỳ hạn: Khi khách hàng dự tính được nhu cầu ngoại tệ cần
mua (bán) trong tương lai, khách hàng thông qua ngân hàng sẽ lập một hợp
đồng kỳ hạn với đối tác của họ để mua (bán) số ngoại tệ đó theo mức giá định

trước ở một ngày xác định trong tương lai. Do giá cả được xác định vào thời
điểm lập hợp đồng nên khách hàng đã được bảo vệ trước rủi ro hối đoái khi tỷ
giá biến động ngoài dự kiến.
+ Hợp đồng quyền chọn: là loại hợp đồng kỳ hạn trong đó cho phép
người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc phải mua hoặc bán ngoại tệ
vào một ngày xác định trong tương lai theo tỷ giá được thỏa thuận. Hợp đồng
này bảo vệ khách hàng khi họ không biết chắc được quy mô và thời diểm xuất
hện dòng tiền

7


+ Hợp đồng tương lai: Là loại thỏa thuận giữa người mua và người bán
trong hợp đồng, đảm bảo giao một lượng ngoại tệ cụ thể ở mức giá định trước
vào ngày đáo hạn hay trước ngày đáo hạn. Có 2 loại hợp đồng tương lai là:
Hợp đồng phòng chống thế trường và hợp đồng phòng chống thế đoản.
Hợp đồng phòng chống thế trường được thiết lập để bảo vệ các nhà
nhập khẩu trước áp lực tăng giá của đồng tiền mà khách hàng phải mua trong
tương lai. Với loại hình hợp đồng này, khách hàng cam kết nhận tiền vào
ngày đáo hạn của hợp đồng ở mức giá X và bán lại các hợp đồng tương lai
với mức giá Y cao hơn mức giá X (do giá của ngoại tệ tăng) để hưởng lợi từ
chênh lệch giá (Y-X) - (hoa hồng+thuế).
Hợp đồng phòng chống thế đoản được thiết lập để bảo vệ lợi ích cho
các nhà xuất khẩu trước áp lực giảm giá của đồng tiền mà họ phải giao tại
mức giá ấn định X vào ngày đáo hạn. Khi đó, khách hàng này có thể gia nhập
vào thị trường tương lai vào ngày đáo hạn hoặc trước ngày đáo hạn của hợp
đồng đầu tiên và mua lại các hợp đồng tương lai tương tự ở mức giá Y thấp
hơn mức giá X, đồng thời hưởng lời từ chênh lệch giá X-Y- (hoa hồng+thuế)
+ Hợp đồng trao đổi ngoại tệ: là thỏa thuận trong đó bên có một số
ngoại tệ vào một ngày cụ thể trong tương lai sẵn sàng cho bên có nhu cầu vay

số ngoại tệ đó vay đồng bản tệ căn cứ theo tỷ giá hoán đổi khi hợp đồng đến
hạn và sau đó khách hàng nhận được ngoại tệ vào đúng thơi gian hoàn trả
toàn bộ tiền vay. Loại hợp đồng này loại trừ được rủi ro, toàn bộ dòng ngoại
tệ vào và ra bù trừ lẫn nhau một cách chính xác
Dịch vụ cung cấp cho khách hàng các khoản tín dụng ngắn hạn và
dài hạn hay các công cụ bảo đảm tín dụng:
Ngân hàng quốc tế là nguồn cung cấp tín dụng hàng đầu cho các công
ty đa quốc gia và các cơ quan thuộc chính phủ ở trong và ngoài nước. chúng
cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn và dài hạn để tài trợ cho việc mua
nguyên liệu, xây dựng các công trình và các dự án có tầm quan trọng khác.
Bảo lãnh phát hành giấy nợ (NIF): phần lớn các khoản tín dụng của
ngân hàng quốc tế là những khoản cho vay ngắn hạn có lãi suất thả nổi,
thường được gắn với lãi suất cơ bản trên thị trường quốc tế hay một lãi suất
tham chiếu phổ biến (ví dụ: LIBOR). Tuy nhiên, trong những năm gần đây thì
các ngân hàng quốc tế đã không ngừng cung cấp các dịch vụ đảm bảo tín

8


dụng cho những khoản vay của khách hàng trên thị trường mở. Và NIF là
hình thức được sử dụng rộng rãi nhất. Một khách hàng theo mô hình NIF định
kỳ được phép phát hành giấy nợ ngắn hạn có kỳ hạn trong phạm vi 90 đến
180 ngày. Căn cứ vào hợp đồng ký kết, các ngân hàng cam kết mua lại toàn
bộ các giấy nợ mà khách hàng không bán hết hết hoặc cung cấp tin dụng bổ
sung dựa trên lãi suất LIBOR hay lãi suất tham chiếu khác.
Giấy nợ Châu Âu: các ngân hàng quốc tế đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển thị trường giấy nợ Châu Âu (ECP). Thị trường này là nơi
các công ty đa quốc gia có thể huy động khoản vay ngắn hạn trong vài tuần
hay vài tháng. Ở thị trường giấy nợ Châu Âu, những công ty không có phân
hạng tín dụng đủ mạnh để tham gia thị trường nợ ngắn hạn Mỹ cũng có thể

tham gia thị trường này và các công ty có thể bán các loại giấy nợ có thời hạn
dài hơn so với hình thức NIF.
Cung cấp các công cụ tiết kiệm và thanh toán quốc tế cho khách
hàng quốc tế như:
+ Ngân hàng quốc tế không chỉ cung cấp ngoại tệ cho khách hàng để
đáp ứng nhu cầu thanh toán cho đối tác nước ngoài mà còn thực hiện chuyển
tiền thông qua hệ thống ngân hàng đại lý toàn cầu.
+ Phát hành và chấp nhận hối phiếu trong thanh toán hàng hóa dịch vụ
giữa các quốc gia. Bao gồm hai loại: hối phiếu giao ngay và hối phiếu kỳ hạn.
+ Cung cấp dịch vụ Séc du lịch có mệnh giá bằng ngoại tệ và sẽ chuyển
tiền thông qua mạng lưới điện tử tới bất cứ nơi nào mà khách hàng có nhu
cầu.
+ Các công cụ tiết kiệm phần lớn là chứng chỉ tiền gửi (CDs) hưởng lãi
(lãi suất cố định hoặc thả nổi). Các ngân hàng lớn ở Châu Âu và các nước
phát triển trên thế giới thì phổ biến sử dụng hình thức CDs đô la Châu Âu.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty: như bảo lãnh phát
hành cổ phiếu để các công ty huy động được nhiều vốn CSH hơn, bảo lãnh
phát hành trái phiếu, giấy nợ (NIF) trên thị trường trái phiếu Châu Âu để đảm
bảo cho các công ty lớn có thể vay được tiền bằng trái phiếu Châu Âu với chi
phí đi vay rẻ hơn khi mà lãi suất trong nước nơi mà các công ty này đang hoạt
động đang tăng lên. Trên thế giới, các ngân hàng tích cực trong hoạt động này
có thể kể đến: Bank PLC, Citi Corp, và Chemical Banking Corp.

9


Bảo vệ khách hàng chống lại rủi ro lãi suất: các ngân hàng quốc tế
giúp khách hàng của mình hạn chế rủi ro lãi suất bằng cách: dàn xếp những
hợp đồng trao đổi lãi suất nhằm làm giảm chi phí trả lãi cho mỗi bên và cho
phép các bên tham gia trao đổi cân bằng chính xác hơn dòng tiền vào được

tạo ra bởi các tài sản với dòng tiền ra được tạo ra bởi các khoản nợ; áp dụng
trần lãi suất đối với các khoản vay có lãi suất thả nổi của khách hàng để đảm
bảo khi lãi suất thị trường tăng lên không làm lãi suất của khoản vay vượt quá
trần lãi suất; sử dụng hợp đồng tài chính tương lai và hợp đồng quyền chọn để
bù đắp tổn thất cho khách hàng khi lãi suất biến động bất lợi với khách hàng
Dịch vụ giúp đỡ khách hàng nghiên cứu thị trường nước ngoài: một
loại hình ngày càng được sử dụng phổ biến đó là giúp đỡ khách hàng bán sản
phẩm qua các công ty thương mại xuất khẩu (ETC). Các ETCs có vai trò
nghiên cứu thị trường nước ngoài, tìm ra những hãng trong thị trường có khả
năng phân phối sản phẩm của khách hàng sau đó tiến hành cung cấp, bảo
hiểm và vận chuyển hàng óa tới thị trường đó. Ví dụ các ETCs hàng đầu của
Nhật như Sumitomo, Mitshubishi, hay các ETCs của Mỹ như Bank American,
Citi Corp.
II. KIỂM SOÁT VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
QUỐC TẾ
Để đạt được những mục tiêu kinh doanh đã đề ra, các ngân hàng trên
phạm vi toàn thế giới đã phải sử dụng các mô hình tổ chức khác nhau để cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng quốc tế. Hiện nay ở Việt Nam, thống kê
ngành ngân hàng cho biết có: 7 NHTM Nhà nước; 28 NHTMCP; 3 NH Liên
doanh và 61 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện
ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
1. Những vấn đề lớn ngân hàng quốc tế phải đối mặt
1.1. Vấn đề liên quan đến môi trường hoạt động
a. Môi trường pháp lý
Trên thế giới hoạt động ngân hàng quốc tế được kiểm soát chặt chẽ bởi
cả nước sở tại và nước cấp giấy phép hoạt động cho ngân hàng quốc tế (nước
ngân hàng quốc tế đóng trụ sở chính).
Mục đích ngân hàng quốc tế được kiểm soát bởi nhiều lí do tương tự
như đối với hoạt động ngân hàng trong nước, như để bảo vệ những người gửi


10


tiền, để hạn chế rủi ro… Các quy định thường hạn chế hoạt động kinh doanh
phi ngân hàng phòng ngừa rủi ro và ngăn chặn các hoạt động tội phạm. Đồng
thời, do khả năng tạo tiền thông qua chức năng huy động tiền gửi và cấp tín
dụng, hoạt động ngân hàng quốc tế cần phải được điều tiết chặt chẽ để đảm
bảo sự tăng trưởng ổn định về tiền tệ và tín dụng cũng như để thúc đẩy sự
phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Có nhiều quy định chỉ được áp dụng cho lĩnh vực hoạt động ngân hàng
quốc tế mà không được áp dụng với hoạt động ngân hàng trong nước. Ví dụ,
việc kiểm soát ngoại hối sẽ bảo vệ cho một quốc gia trước những tổn thất về
dự trữ ngoại tệ, điều đó có thể phương hại đến việc hoàn trả các khoản nợ
quốc tế và kế hoạch thu mua hàng hóa, dịch vụ của nước ngoài. Một ví dụ
khác, đó là việc áp dụng quy định nhằm hạn chế sự rò rỉ ra nước ngoài của
những nguồn vốn khan hiếm, điều vẫn được chính phủ xem là tối cần thiết
cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Hơn nữa, nhiều nước trên thế giới áp dụng những quy định nhằm bảo
vệ các tổ chức và thị trường tài chính nội địa trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gia tăng của các đối thủ nước ngoài. Một số quốc gia cũng không muốn
lệ thuộc quá nhiều vào quốc gia khác về một số chủng loại hàng hóa dịch vụ,
và nguyên vật liệu thiết yếu.
b. Môi trường văn hóa:
Ngân hàng quốc tế phải đương đầu với những khó khăn bởi sự phân
biệt lớn về văn hoá giữa các nước và bởi thái độ kiên định đối với các ngân
hàng nước ngoài.
Những thách thức trên thị trường quốc tế đòi hỏi phải có kế hoạch cẩn
trọng, đặc biệt trong mô hình chiến lược đầu tư dài hạn toàn cầu. Các kế
hoạch này phải chú ý tới khác biệt về ngôn ngữ, tập quán và hệ thống pháp lý.
Ngoài những yếu tố kể trên cũng cần phải có tính linh hoạt về mặt tổ

chức để đảm bảo khả năng thích ứng nhanh với những cơ hội mới khi thị
trường khu vực được thiết lập, cần sớm nhận ra những vấn đề nảy sinh khi
các thị trường hiện thời suy giảm hay các rào cản pháp lý mới xuất hiện.
1.2. Vấn đề liên quan đến cạnh tranh

11


Ngày nay, các ngân hàng quốc tế đang gặp phải một thách thức lớn
trong lĩnh vực cho vay kinh doanh đó là sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ
thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán cung cấp một kênh dẫn vốn đáp ứng yêu cầu
của người vay về giấy nợ ngắn hạn và trái phiếu trên thị trường tiền tệ. Các
công ty bảo hiểm lớn và các tổ chức tài chính phi ngân hàng lớn khác cũng
tăng trưởng cạnh tranh, cố gắng thu hút, giúp đỡ khách hàng của ngân hàng
tham gia thị trường mở để bán chứng khoán, huy động thêm vốn.
Liệu các ngân hàng có thể dành lại thị phần cho vay kinh doanh trên
phạm vi quốc tế hay không? Câu hỏi này vẫn còn để ngỏ bởi những quy định
hạn chế sự chấp nhận rủi ro của ngân hàng.
Các hãng kinh doanh chứng khoán, công ty bảo hiểm và các hãng cung
cấp dịch vụ tài chính khác đã rất tích cực mở rộng thị phần trong lĩnh vực tài
trợ cho các doanh nghiệp. Đó là các dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp và
bảo lãnh phát hành chứng khoán. Và giờ đây các hãng kinh doanh chứng
khoán và các công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới đã đạt được quy mô tài sản
và có được danh mục dịch vụ tương đối đầy đủ so với các ngân hàng lớn nhất
trên phạm vi toàn cầu.
Có thể thấy rằng, hiện nay, đang có sự cạnh tranh gay gắt giữa ba loại
hình tổ chức quan trọng này của ngành công nghiệp cung cấp dịch vụ tài
chính là Ngân hàng, Công ty chứng khoán và Công ty bảo hiểm. Chính vì
những thách thức nay mà các ngân hàng quốc tế ngày nay phải hoạt động

nghiêm túc để tìm ra những nguồn thu nhập và những nguồn vốn mới để đối
phó với sự cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng khác và từ các tổ chức cung
cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng.
Ở Việt Nam, việc tăng cường hiện diện của các ngân hàng nước ngoài
tại đã đem lại cho nước ta một lượng vốn cần thiết, tạo động lực để phát triển.
Tuy nhiên, việc này cũng tạo áp lực cạnh tranh rất lớn trong hệ thống ngân
hàng. Theo thống kê, hiện nay khối doanh nghiệp FDI nắm tới gần 70% kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, các khách hàng béo bở này gần như
nằm trọn trong tay ngân hàng ngoại. Không chỉ có thế, khối ngân hàng ngoại
còn nhắm tới cả khối doanh nghiệp trong nước. Đây thực sự là thách thức lớn
đối với ngân hàng trong nước.

12


Trong Đề án Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, NHNN đã đưa ra mục
tiêu hướng tới xây dựng 1-2 ngân hàng có quy mô ngang tầm khu vực. Song
hiện quy mô của các ngân hàng lớn của Việt Nam vẫn còn thua xa so với các
ngân hàng lớn trong khu vực. Vì vậy, để có thể cạnh tranh, xứng tầm khu vực,
giải pháp khả dĩ nhất hiện nay là các ngân hàng phải có kế hoạch mua bán,
sáp nhập để mở rộng quy mô hoạt động.
1.3. Vấn đề liên quan đến rủi ro tín dụng quốc tế
Ngày nay, đối với phần lớn ngân hàng quốc tế, các khoản cho vay nước
ngoài luôn tiềm ẩn những rủi ro lớn nhất. Lĩnh vực cho vay nước ngoài nhìn
chung chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với cho vay trong nước bởi:
+ Nguồn thông tin ở nước ngoài thường kém tin cậy hơn so với nguồn
thông tin trong nước, việc kiểm soát các khoản tín dụng ở gần dễ hơn nhiều.
+ Hơn nữa hiện chưa có hệ thống tòa án quốc tế hợp thức để đảm bảo
tính hiệu lực cho các hợp đồng cũng như để đảm bảo việc giải quyết những
tranh chấp khi xảy ra phá sản.

+ Rủi ro gia tăng đối với những khoản cho vay quốc tế thường được gọi
là rủi ro mang tính quốc gia, nó xảy ra khi chính phủ nước ngoài can thiệp
vào việc hoàn trả khoản vay quốc tế, chẳng hạn thoái thác toàn bộ nghĩa vụ
trả nợ nước ngoài, tịch thu tài sản của cá nhân hay trì hoãn thanh toán nợ
trong một thời gian để duy trì dự trữ ngoại hối của chính phủ nước đó.
2. Kiểm soát và giám sát hoạt động của ngân hàng quốc tế
Sự phát triển của ngoại thương và kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự tham
gia ngày càng nhiều của những doanh nghiệp, cá nhân vào thị trường thế giới.
Vì vậy hoạt động ngân hàng quốc tế (NHQT) ra đời và phát triển không
ngừng như là một tất yếu khách quan và ngày nay chúng đã chiếm được vị trí
ngày càng quan trọng. Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại (NHTM), hoạt động NHQT không chỉ đơn thuần mang
lại những lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro,
tổn thất trực tiếp cho ngân hàng, cho doanh nghiệp kinh doanh và cho đất
nước.
Rủi ro trong hoạt động NHQT của NHTM là vấn đề xảy ra ngoài ý
muốn trong quá trình cung cấp các dịch vụ NHQT. Chúng có ảnh hưởng đến
cả lợi nhuận và toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, quản trị

13


rủi ro luôn là hoạt động trung tâm trong các tổ chức tài chính – ngân hàng, bởi
kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng đồng vốn có
hiệu quả. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, nếu không chấp nhận rủi ro
thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Không ngoài mục
đích đó, kiểm soát và giám sát hoạt động NHQT cũng mang nội dung chính là
kiểm soát và giám sát các rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải khi cung cấp
các dịch vụ NHQT.
2.1.1 Về phía cơ quan quản lý và giám sát

Hiện nay ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chịu sự
quản lý và giám sát của NHNN. Để làm được việc này, NHNN đã xây dựng
và ban hành một hệ thống văn bản quy định liên quan đến việc quản lý ngân
hàng trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Có thể kể đến một số văn bản
như:
- Luật số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 của Quốc hội: Luật các tổ chức tín
dụng.
- Pháp lệnh Ngoại hối ngày 13/12/2005; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh Ngoại hối ngày 18/3/2013
- Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng
nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 về Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh ngoại hối.
- Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của Ngân hàng Nhà
nước về Quy định về việc cấp Giấy phép và tổ chức, hoạt động của ngân
hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện
của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động
ngân hàng tại Vệt Nam.
- Thông tư số 37/2012/TT-NHNN ngày 28/12/2012 của Ngân hàng Nhà
nước về quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng.

14


- Thông tư số 43/2014/TT-NHNN ngày 25/12/2014 của Ngân hàng Nhà
nước về quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú.

- Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của Ngân hàng Nhà
nước về quy định giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Và còn nhiều thông tư hướng dẫn khác. Với diễn biến phức tạp của thị
trường tài chính quốc tế thì NHNN ngày càng quản lý chặt chẽ hơn hoạt động
ngân hàng quốc tế tại Việt Nam để bảo đảm anh ninh tài chính quốc gia và
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.
Việc kiểm tra xem ai là người quản lý ngân hàng và họ quản lý như thế
nào được gọi là giám sát ngân hàng. Đây là một phương pháp quan trọng để
làm giảm sự lựa chọn tiêu cực và suy giảm đạo đức trong hoạt động ngân
hàng. Bởi vì ngân hàng có thể bị kẻ xấu hay các doanh nhân quá nhiều tham
vọng lợi dụng để tham gia vào các hoạt động mang tính đầu cơ cao. Do vậy,
việc cấp phép thành lập ngân hàng là một phương pháp để phòng ngừa vấn đề
lựa chọn tiêu cực này. Thông qua quy trình cấp phép, người ta sàng lọc
khuyến nghị thành lập các ngân hàng mới để ngăn không cho những kẻ không
xứng đáng quản lý chúng.
Việc giám sát tại chỗ, ví dụ như thông qua các biện pháp để kiểm tra
xem ngân hàng có tuân thủ các yêu cầu về vốn và những hạn chế về nắm giữ
tài sản không, cũng giúp các nhà giám sát hạn chế bớt vấn đề suy giảm đạo
đức.
Các cuộc kiểm tra ngân hàng được các giám sát viên ngân hàng thực
hiện. Tại Việt Nam, hoạt động kiểm tra thường do hệ thống kiểm tra, kiểm
soát nội bộ của ngân hàng kiểm tra hoặc do thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà
nước kiểm tra. Việc kiểm tra có thể thực hiện theo kế hoạch hoặc đột suất.
Giám sát viên nghiên cứu sổ sách của ngân hàng để tìm hiểu xem họ có tuân
thủ các quy định và biện pháp điều hành đối với tài sản không. Nếu ngân
hàng nắm giữ các chứng khoán hoặc thực hiện các khoản cho vay quá rủi ro,
giám sát viên ngân hàng có thể buộc ngân hàng có các biện pháp để xử lý
chúng. Nếu sau khi kiểm tra, giám sát viên có đủ căn cứ để kết luận rằng ngân
hàng không đáp ứng được các quy định về hoạt động của ngân hàng hoặc


15


tham gia vào các hoạt động sai trái, thì ngân hàng có thể bị tuyên bố là “ngân
hàng có vấn đề” và sẽ bị kiểm tra thường xuyên hơn, thậm chí đưa vào diện
“ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt” theo quy định.
Một cơ chế thanh tra giám sát phù hợp đối với mô hình chi nhánh ngân
hàng nước ngoài yêu cầu phải phân chia nhiệm vụ một cách phù hợp giữa các
cơ quan giám sát của nước nguyên xứ và nước sở tại, và phải có cơ chế liên
lạc và hợp tác thích hợp giữa các cơ quan này.
Sự hợp tác hiệu quả của các cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên
xứ và nước sở tại là cực kỳ quan trọng đối với công tác thanh tra giám sát chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. NHNNVN cần phải đảm bảo là cơ quan thanh
tra giám sát tại nước nguyên xứ phải được thông báo ngay lập tức về bất cứ
vấn đề nghiêm trọng nào phát sinh tại chi nhánh của ngân hàng mẹ tại nước
ngoài. Tương tự như vậy, NHNNVN phải được biết chắc chắn là cơ quan
giám sát tại nước nguyên xứ sẽ thông báo cho Cơ quan Thanh tra Giám sát
Ngân hàng Việt Nam khi có vấn đề phát sinh trong hoạt động của ngân hàng
mẹ, mà vấn đề này có thể ảnh hưởng tới chi nhánh của ngân hàng này tại Việt
Nam.
Sẽ nảy sinh vấn đề nếu NHNNVN cho rằng quốc gia đặt trụ sở ngân
hàng mẹ chưa tiến hành thanh tra giám sát hoặc giám sát không đầy đủ ngân
hàng mẹ. Khi đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần hạn chế hoặc cấm ngân
hàng từ quốc gia đó lập chi nhánh tại Việt Nam. Hoặc NHNNVN có thể đặt ra
các điều kiện cụ thể để điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các chi nhánh
ngân hàng đó.
Thanh tra NHNNVN chịu trách nhiệm thanh tra giám sát hoạt động của
chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam với tư cách là một thực thể
ngân hàng độc lập, trong khi cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ

chỉ thanh tra giám sát chi nhánh đó như một bộ phận của một ngân hàng, theo
đó sẽ tiến hành thanh tra tổng thể các hoạt động của nhóm ngân hàng đó trên
toàn thế giới trên cơ sở hợp nhất. Nhiệm vụ thanh tra giám sát đó của
NHNNVN và của cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ là bổ sung
cho nhau và có một số nội dung cả hai bên cùng phải thực hiện.
Nguyên tắc thanh tra giám sát hợp nhất là ngân hàng mẹ và cơ quan
thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ theo dõi mức độ rủi ro – bao gồm khả

16


năng tích tụ các rủi ro và chất lượng tài sản – của ngân hàng và nhóm các
ngân hàng thuộc trách nhiệm của mình, cũng như tính an toàn vốn trên cơ sở
tổng nguồn vốn của nhóm ngân hàng đó, bất chấp việc ngân hàng đó đặt các
cơ sở tại đâu. Nguyên tắc này không có nghĩa là trách nhiệm thanh tra giám
sát chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
của Thanh tra NHNNVN bị giảm đi.
Có thể xem xét vấn đề thanh tra giám sát chi nhánh ngân hàng nước
ngoài trên ba (03) lĩnh vực là: khả năng chi trả, khả năng thanh toán, tình
trạng và hoạt động ngoại hối. Trong một chừng mực nào đó thì ba lĩnh vực
này có chồng chéo nhau. Ví dụ, vấn đề về khả năng thanh toán và khả năng
chi trả có thể không có ranh giới rõ ràng. Ngoài ra, các cân nhắc đánh giá về
khả năng thanh toán và khả năng chi trả khi tiến hành thanh tra giam sát tình
hình và hoạt động ngoại hối của ngân hàng.
Khả năng chi trả: Khả năng chi trả của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài chính là khả năng chi trả của ngân hàng mẹ. Do vậy, mặc dù NHNNVN
có nhiệm vụ giám sát chung tính lành mạnh về mặt tài chính của chi nhánh,
nhưng cơ quan thanh tra giám sát tại nước đặt trụ sở của ngân hàng mẹ mới
chịu trách nhiệm chính về việc giám sát khả năng chi trả này. Quy định về
“vốn pháp định” của chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong Luật các TCTD

không hề cản trở nguyên tắc này. Quy định này trước tiên là để buộc phải có
và duy trì một khoản đầu tư tối thiểu nhất định tại chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam, và để đảm bảo các điều kiện cạnh tranh công bằng giữa
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước.
Khả năng thanh toán: Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì
phải nói ngay là việc giám sát khả năng thanh toán chủ yếu là nhiệm vụ của
NHNNVN. Cơ quan này được trang bị đầy đủ nhất để giám sát khả năng
thanh toán, vì khả năng thanh toán liên quan tới các hoạt động của chi nhánh
tại Việt Nam, các quy định và hoạt động của thị trường trong nước. Đồng
thời, khả năng thanh toán của tất cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng
luôn là mối quan tâm của cơ quan thanh tra giám sát nước nguyên xứ, vì khả
năng thanh toán của chi nhánh thường do ngân hàng mẹ trực tiếp kiểm soát và
không thể coi đó chỉ là vấn đề cục bộ, không liên quan tới toàn bộ nhóm ngân
hàng này. NHNNVN và cơ quan thanh tra giám sát tại nước nguyên xứ cần

17


phải bàn bạc thường xuyên mỗi khi không chắc chắn là cơ quan nào sẽ thực
hiện trách nhiệm thanh tra giám sát khả năng thanh toán trong một trường hợp
cụ thể.
Tình trạng và hoạt động ngoại hối: Về mảng giám sát này, cả
NHNNVN lẫn cơ quan giám sát tại nước nguyên xứ phải cùng chịu trách
nhiệm. Các ngân hàng mẹ rất cần phải có hệ thống theo dõi rủi ro ngoại hối
của toàn bộ hệ thống từ trụ sở chính đến chi nhánh, và cơ quan thanh tra giám
sát tại nước nguyên xứ cũng cần phải theo dõi các hệ thống này. NHNNVN
cần có khả năng theo dõi các rủi ro ngoại hối của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và được cung cấp thông tin về tính chất và phạm vi công tác thanh
tra giám sát các chi nhánh này của các cơ quan thanh tra giám sát tại nước
nguyên xứ.

Nhìn một cách tổng quát, đối với việc kiểm soát và giám sát hoạt động
của các ngân hàng, trong đó có hoạt động của ngân hàng quốc tế tại Việt Nam
thì chủ yếu là kiểm soát và giám sát việc tuân thủ các quy định tại Thông tư
số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra đối với từng nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế cụ thể thì phải tuân theo các quy định cụ thể của Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước đối với từng loại nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cụ
thể đó. Sau đây là một số nội dung quan trọng quy định tại Thông tư 36 mà
qua đó cơ quan chức thực hiện nhiệm vụ kiểm soát và giám sát hoạt động của
các ngân hàng:
- Điều 1. Phạm vi điều chỉnh: Thông tư này quy định về các giới
hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động mà các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì, bao gồm: Tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu; Giới hạn cấp tín dụng; Tỷ lệ khả năng chi trả; Tỷ lệ tối đa
của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay hạn và dài hạn; Giới hạn
góp vốn, mua cổ phân; Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi.
- Điều 9. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Quy định các tổ chức tín dụng
(gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu
hợp nhất), chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu 9%.

18


- Điều 13. Giới hạn cấp tín dụng:
Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và
người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân

hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Điều 15. Tỷ lệ khả năng chi trả
Hằng ngày, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài căn
cứ quy định tại Phụ lục 3 Thông tư này lập bảng dòng tiền vào, dòng tiền ra
tại thời điểm cuối ngày làm việc để theo dõi, quản lý các tỷ lệ khả năng chi trả
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
* Tỷ lệ dự trữ thanh khoản:
> Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải nắm
giữ những tài sản có tính thanh khoản cao để dự trữ đáp ứng các nhu cầu chi
trả đến hạn và phát sinh ngoài dự kiến.
> Tỷ lệ dự trữ thanh khoản được xác định theo công thức sau:
Tỷ lệ dự trữ
Tài sản có tính thanh khoản cao
=
x 100%
Tổng Nợ phải trả
thanh khoản
> Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ
dự trữ thanh khoản như sau: (i) Ngân hàng thương mại: 10%; (ii) Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài: 10%; (iii) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 1%;
(iv) Ngân hàng hợp tác xã: 10%.
* Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày:
> Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải tính toán và
duy trì tỷ lệ khả năng chi trả đối với: (i) Đồng Việt Nam; (ii) Ngoại tệ (bao
gồm đô la Mỹ và các ngoại tệ khác được quy đổi sang đô la Mỹ theo tỷ giá
bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày hoặc
theo tỷ giá do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hạch toán
nếu không có tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công
bố);
Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày được xác định theo công thức sau:

Tỷ lệ khả năng chi trả
=
Tài sản có tính thanh x 100%
trong 30 ngày (%)
khoản cao
Dòng tiền ra ròng
19


trong 30 ngày tiếp theo
Tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày đối
với đồng Việt Nam như sau: (i) Ngân hàng thương mại: 50%; (ii) Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài: 50%; (iii) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 20%;
(iv) Ngân hàng hợp tác xã: 50%.
Tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày
quy định đối với ngoại tệ như sau: (i) Ngân hàng thương mại: 10%; (ii) Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài: 5%; (iii) Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 5%;
(iv) Ngân hàng hợp tác xã: 5%.
- Điều 17. Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho
vay trung hạn và dài hạn
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sử dụng nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn tính theo đồng Việt Nam, bao gồm
đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ được quy đổi sang đồng Việt Nam (theo
tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày
hoặc theo tỷ giá do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hạch
toán nếu không có tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước
công bố) theo tỷ lệ được tính theo công thức sau:

Trong đó: A: là tỷ lệ của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay
trung hạn, dài hạn; B: là tổng dư nợ cho vay trung hạn, dài hạn quy định tại

khoản 2 Điều này trừ đi tổng nguồn vốn trung hạn, dài hạn quy định tại khoản
3 Điều này; C: là nguồn vốn ngắn hạn quy định tại khoản 4 Điều này.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được sử
dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn theo tỷ lệ tối đa
như sau: Ngân hàng thương mại: 60%; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
60%; Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: 200%; Ngân hàng hợp tác xã: 60%.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được mua, đầu tư
trái phiếu Chính phủ (bao gồm cả các khoản ủy thác cho tổ chức khác mua,
đầu tư trái phiếu Chính phủ nhưng không bao gồm các khoản mua, đầu tư trái
phiếu Chính phủ bằng nguồn vốn ủy thác từ tổ chức khác) theo tỷ lệ tối đa so
với nguồn vốn ngắn hạn như sau: Ngân hàng thương mại nhà nước: 15%;
Ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn
20


nước ngoài: 35%; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15%; Tổ chức tín dụng
phi ngân hàng: 5%; Ngân hàng hợp tác xã: 40%.
- Điều 18. Giới hạn góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại,
công ty tài chính
Mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại và các công
ty con, công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó (trừ trường hợp công ty
con, công ty liên kết là công ty quản lý quỹ góp vốn, mua cổ phần từ nguồn
vốn của các quỹ do công ty quản lý) vào một doanh nghiệp hoạt động trên
lĩnh vực được quy định tại khoản 4 Điều 103 Luật các tổ chức tín dụng không
được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một ngân hàng thương mại vào
các doanh nghiệp, bao gồm cả mức vốn cấp, vốn góp vào các công ty con,
công ty liên kết của ngân hàng thương mại đó không được vượt quá 40% vốn
điều lệ và quỹ dự trữ của ngân hàng thương mại.
Mức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính và các công ty

con, công ty liên kết của công ty tài chính vào một doanh nghiệp không được
vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính vào các
doanh nghiệp, bao gồm cả mức vốn cấp, vốn góp vào các công ty con, công ty
liên kết của công ty tài chính đó không được vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ
dự trữ của công ty tài chính.
Ngân hàng thương mại, công ty tài chính không được góp vốn, mua cổ
phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác là cổ đông, thành viên góp
vốn của chính ngân hàng thương mại, công ty tài chính đó; không được góp
vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác là người có
liên quan của cổ đông lớn, của người quản lý của ngân hàng thương mại, công
ty tài chính đó.
- Điều 21. Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi
Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài thực hiện tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi theo đồng
Việt Nam, bao gồm đồng Việt Nam và các loại ngoại tệ được quy đổi sang
đồng Việt Nam (theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước
công bố hàng ngày hoặc theo tỷ giá do tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng

21


nước ngoài hạch toán nếu không có tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân
hàng Nhà nước công bố), được xác định theo công thức sau:

Trong đó:
- LDR: là tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi.
- L: là tổng dư nợ cho vay quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
- D: là tổng tiền gửi quy định tại khoản 4 Điều này.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trừ công ty tài

chính và công ty cho thuê tài chính) phải duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay so với
tổng tiền gửi như sau: Ngân hàng thương mại nhà nước: 90%; Ngân hàng hợp
tác xã: 80%; Ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài: 80%; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
90%;
Đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mới thành
lập trong 3 (ba) năm đầu tiên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ
cụ thể khác với các tỷ lệ nêu trên đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài không phải thực hiện tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi quy
định tại khoản 5 Điều này nếu vốn điều lệ, vốn được cấp còn lại sau khi đầu
tư, mua sắm tài sản cố định và góp vốn, mua cổ phần lớn hơn dư nợ cho vay.
2.2. Về phía các ngân hàng
Trong quá trình cung cấp các dịch vụ ngân hàng ra thị trường quốc tế,
ngoài các rủi ro cơ bản mà bất kỳ ngân hàng nào cũng phải đối mặt như rủi ro
tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản… thì ngân hàng còn phải đối mặt
với rủi ro quốc gia, rủi ro hối đoái… Quản lý các rủi ro này rất khó khăn và
phức tạp.
a. Đối với rủi ro quốc gia
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi thực hiện hoạt động kinh doanh ở
một quốc gia khác thì sẽ chịu sự tác động của môi trường kinh doanh nước sở
tại. Nếu đất nước đó ổn định về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội
thì ngân hàng mới có được một môi trường kinh doanh tốt. Ngược lại, nếu đất
nước đó chứa đựng nhiều bất ổn như thiên tai, bất ổn chính trị - pháp luật hay
22


chiến tranh… thì ngân hàng có thể sẽ chịu tổn thất và phải ngừng hoạt động
kinh doanh. Để phòng tránh được loại rủi ro này, trước khi thực hiện hoạt

động kinh doanh ở nước ngoài, các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ môi trường
kinh doanh, môi trường chính trị - xã hội của nơi mà ngân hàng muốn hướng
đến. Đồng thời ngân hàng cũng xây dựng các kịch bản về các biến động có
thể xảy ra để từ đó có các đối sách hợp lý nhằm tối thiểu hóa tổn thất có thể
xảy đến.
b. Đối với rủi ro hối đoái
Khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, huy động và
cấp tín dụng bằng ngoại tệ… Hay nói rộng hơn là khi ngân hàng thực hiện các
nghiệp vụ có liên quan đến ngoại tệ cho chính ngân hàng thì việc đối mặt với
rủi ro hối đoái là điều hiển nhiên. Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính –
tiền tệ - ngân hàng như ngày nay càng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá. Điều này
làm cho nghiệp vụ phái sinh phát triển nhanh chóng, đa dạng và phức tạp. Các
nghiệp vụ này được sử dụng trong kinh doanh và trong phòng ngừa rủi ro.
Đối với hoạt động nội bảng: Các hoạt động nội bảng của NHTM sẽ
gây ra rủi ro tỷ giá nếu Tài sản Có (TSC) và Tài sản Nợ (TSN) của một loại
ngoại tệ nào đó không cân xứng với nhau (tức là trạng thái ngoại tệ mở), đồng
thời tỷ giá có sự biến động. Từ nguyên nhân xuất phát này mà có thể tối thiểu
hóa rủi ro tỷ giá bằng cách làm cho TSN và TSC bằng ngoại tệ cân bằng
nhau. Với biện pháp này thì kết quả kinh doanh của Ngân hàng gần như sẽ
không phụ thuộc vào biến động của tỷ giá, nghĩa là ngân hàng sẽ không chịu
rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng có thể làm được,
bởi vì:
Một là, một số nhà kinh doanh muốn duy trì trạng thái ngoại tệ mở nội
bảng để đầu cơ khi tỷ giá thay đổi.
Hai là, việc huy động vốn ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu vay bằng
ngoại tệ không phải lúc nào cũng làm được. Chính vì vậy, ngoài các biện
pháp phòng ngừa nội bảng, các ngân hàng còn sử dụng biện pháp phòng ngừa
ngoại bảng.
Đối với hoạt động ngoại bảng: ngân hàng sử dụng các công cụ phái
sinh như hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, hay


23


hợp đồng trao đổi tiền tệ để phòng ngừa rủi ro hối đoái như đã được trình bày
ở phần trên.
c. Kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng
Kiểm soát và giám sát nội bộ ngân hàng là một vấn đề rất cấp thiết hiện
nay, đó là tiền đề giúp các ngân hàng hoạt động tốt và chủ động nắm bắt
những biến động trên thị trường. Kiểm soát và giám sát nội bộ nội bộ bao
gồm nhiều mảng liên quan từ kiểm soát và giám sát nguồn nhân lực, kiểm
soát và giám sát tài chính đến quản trị khách hàng, kiểm soát và giám sát
thương hiệu, kiểm soát và giám sát thị trường, ... Nói chung là tất cả các hoạt
động trong phạm vi nội bộ liên quan đến các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng.
Ở các nước, vai trò của kiểm soát và giám sát nội bộ ngân hàng được
đánh giá rất cao vì ngân hàng là một ngành kinh doanh nhạy cảm và thường
xuyên đối mặt nhiều rủi ro. Do các ngân hàng ngoại đều được các ngân hàng
mẹ tại các nước phát triển đầu tư công nghệ, vốn, nhân lực nên kiểm soát và
giám sát nội bộ rất phát triển và hoản chỉnh. Thể hiện rõ nhất chính là hệ
thống kiểm soát và giám sát của HSBC, ANZ … Vào những năm 2010 khi
mà HSBC và ANZ bắt đầu tham gia hệ thống tài chính Việt Nam, do những
chính sách còn khó khăn trong cho phát triển tín dụng có TSBĐ, HSBC và
ANZ bắt đầu phát triển mạnh theo tín dụng tín chấp như thẻ tín dụng, vay tiêu
dùng không có tài sản bảo đảm… bằng hệ thống chấm điểm (một trong những
ngân hàng có bộ chấm điểm tốt nhất trong nhưng năm 2010) đã kiểm soát tốt
nợ xấu phát sinh từ thẻ tín dụng và vay tiêu dùng tín chấp.
Song cái khó trong kiểm soát và giám sát nội bộ ngân hàng không chỉ
nằm ở nguồn nhân lực mà còn ở yếu tố công nghệ. Bởi nếu không có công
nghệ thông tin thì hầu như các thông tin mà doanh nghiệp kiểm soát và giám

sát là rời rạc và không kịp thời. Nhờ công nghệ thông tin, ngân hàng quản lý
được các thông tin quan hệ trong nội bộ và hoạt động tác nghiệp đang xảy ra
trong ngân hàng và có được các thông tin hỗ trợ cho quản lý và điều hành. Hệ
thống công nghệ thông tin của những ngân hàng ngoại được đầu tư rất mạnh
như HSBC đang dùng hệ thống Digipass của VASCO dành cho bảo mật hệ
thống thanh toán lẻ trực tuyến , nâng cao tính cạnh tranh trong phát triển dịch
vụ … Chính những đầu tư mạnh mẽ và đúng đã đem lại cho những ngân hàng

24


ngoại một bước đi riêng đầy cạnh tranh trong một môi trường tài chính mới
phát triển như Việt Nam.
3. Kết luận
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế giúp cho các hoạt động động
ngân hàng quốc tế ngày càng được mở rộng với sự gia tăng mạnh mẽ về số
lượng và giá trị giao dịch. Đi đôi với sự phát triển đó, cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro hơn trong hoạt động ngân hàng, nhất là ngân hàng quốc tế. Thực tế này đặt
ra yêu cầu cấp thiết đòi hỏi Ngân hàng Trung ương các nước phải giám sát,
kiểm soát chặt chẽ hơn các hoạt động ngân hàng quốc tế nhằm đảm bảo hệ
thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả hơn, ngăn ngừa rủi
ro, nhất là rủi ro hệ thống, góp phần duy trì sự ổn định tài chính.

25


×