Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng quốc tế tài trợ thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.52 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------**------

BÀI TẬP NHÓM 4

TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Lớp

: QH 2014 E - TCNH3

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Đinh Xuân Cường

Hà Nội, 11/2015


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4
STT

Mã học viên

Họ và tên

Ngày sinh

1

14057037



Phạm Hải Định

06/7/1982

2

14057052

Phạm Thị Thu Hương

03/04/1980

3

14057079

Nguyễn Thị Thu

29/11/1988

4

14057067

Nguyễn Thị Nhâm

18/10/1990

5


14057073

Kiều Văn Quyền

05/03/1989

6

14057036

Nguyễn Anh Dũng

02/05/1989


TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

MỞ ĐẦU

Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trên con đường Công nghiệp hoá Hiện đại hoá để đạt tới một nước công nghiệp ngang tầm với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Với những mục tiêu đặt ra, việc chuyển hướng kinh doanh của các ngân
hàng thương mại, đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ để phát huy tối đa nội lực và
tận dụng tối đa nguồn vốn từ bên ngoài đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong những năm gần đây, khi đất nước ta ngày càng hội nhập sâu và rộng với
thế giới thì hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam và các nước khác càng diễn ra
sôi động. Khi hoạt động trong lĩnh vực thương mại quốc tế, các doanh nghiệp Việt
Nam phải đối phó với rất nhiều khó khăn, một mặt thì thiếu vốn mặt khác lại chưa có uy
tín lớn do thời gian tham gia chưa lâu. Chính vì vậy mà việc các hoạt động tài trợ

thương mại trong thời gian gần đây phát triển rất mạnh cũng là một điều tất yếu. Tài trợ
thương mại quốc tế được coi là bà đỡ cho hoạt động thương mại quốc tế, nó có thể giải
quyết hầu hết các khó khăn, vướng mắc của các bên trong giao dịch thương mại quốc tế.

1


PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm về hoạt động tài trợ TMQT của NHTM
1.1. Khái niệm tài trợ thương mại quốc tế
Tài trợ thương mại quốc tế là tập hợp các biện pháp và hình thức hỗ trợ về tài
chính trực tiếp hay gián tiếp cho các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế tham gia trong
lĩnh vực thương mại quốc tế, trong các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ.
Nếu xét về hình thức tài trợ thương mại quốc tế được thực hiện dưới hai hình thức
là:
- Tài trợ thương mại quốc tế trực tiếp: là tập hợp các biện pháp hoặc hình thức hỗ
trợ về tài chính trực tiếp tác động đến hoạt động kinh doanh TMQT của doanh nghiệp
thường xuyên được thực hiện thông qua việc tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu
nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị…
- Tài trợ thương mại quốc tế gián tiếp: là tập hợp các biện pháp hoặc hình thức
hữu hiệu nhằm tạo ra môi trường kinh doanh TMQT thuận lợi cho các doanh nghiệp như:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu; chính sách tỷ giá hối đoái; môi trường pháp lý ổn định
phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế; các hiệp định tài trợ thương mại song phương
và đa phương; chính sách lãi suất…
1.2 Vai trò của hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
Tài trợ thương mại như là một chất xúc tác cho sự phát triển.
Các quốc gia ngày nay đang phải đối đầu với hai xu hướng phát triển: Một là, toàn
cầu hoá kinh tế thế giới; Hai là, khi khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì
vấn đề tăng trưởng bền vững, tốc độ cao và độ nhạy cảm thích ứng nhanh trong dịch

chuyển cơ cấu kinh tế và xã hội trở thành quy luật phát triển cho mọi nền kinh tế hiện
đại. Chính phủ các nước thường xem lĩnh vực thương mại là một trong những mũi nhọn
kinh tế then chốt trong chiến lược phát triển quốc gia. Nguồn thu nhập to lớn từ nước
ngoài thông qua hoạt động xuất khẩu, việc làm và thu nhập quốc dân tăng nhanh, công
nghệ hiện đại phục vụ phát triển kinh tế đất nước…
Tài trợ thương mại quốc tế tạo điều kiện cho hàng hóa xuất nhập khẩu được lưu
thông trôi chảy. Hàng hóa xuất nhập khẩu được thực hiện thường xuyên, liên tục, thuận
lợi và dễ dàng hơn, góp phần tăng tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trường.
2


Tài trợ thương mại quốc tế góp phần phân phối lại vốn đầu tư, do đó góp phần
thúc đẩy sự bình quân hóa lợi nhuận xã hội. Trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng
hóa và dịch vụ, lợi nhuận đã tạo điều kiện thúc đẩy vốn ở những ngành kinh doanh mà
lợi nhuận tương đối thấp sang những ngành kinh doanh lợi nhuận thu được cao hơn. Do
vậy mà TTTM đã góp phần phân phối lại vốn, lợi nhuận bình quân trong các ngành.
Tài trợ thương mại quốc tế là đòn bẩy mạnh mẽ để phát triển sản xuất và tiêu thụ.
Thương mại là khâu cuối cùng và là một bộ phận của quy trình tái sản xuất xã hội.
Có thể nói, hệ quả của tài trợ thương mại đôi khi lại có tính quyết định đến hệ quả của
ngành sản xuất. Một mặt khác, tài trợ thương mại còn góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển
hoá giá trị thặng dư thành vốn kinh doanh, gia tăng tốc độ tích tụ và tập trung vốn sản
xuất, một thành tố rất quan trọng để tái sản xuất mở rộng với tốc độ cao.
Vốn đầu tư vào các ngành thường gắn với hình thái tự nhiên đã định sẵn ở nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, đất đai..vvv cho nên rất khó chuyển hướng
đầu tư sang các ngành khác có lợi nhuận cao hơn. Nhờ vào tài trợ mà các doanh nghiệp
có thể chuyển hướng đầu tư một cách dễ dàng mà không cần phải thông qua thị trường
hàng hoá để bán nhà xưởng, máy móc thiết bị..vv.. Rõ ràng là với hình thức huy động
vốn thông qua tài trợ, một mặt doanh nghiệp huy động thêm được “vốn tức thì” cho kinh
doanh, một mặt khác có thể chuyển vốn đầu tư mau lẹ, nhờ đó mà khả năng dành lấy cơ
hội kiếm lợi nhuận có tính hiện thực hơn.

Tài trợ thương mại quốc tế góp phần gắn kết thị trường quốc gia với thị trường
quốc tế.
Các thị trường quốc gia thông thương được với nhau là bằng xuất khẩu và nhập
khẩu. Khác biệt rõ nét nhất của thương mại quốc tế so với thương mại quốc gia là ở quy
mô trao đổi. Quy mô trao đổi trong thương mại quốc tế thường lớn hơn trong thương mại
quốc gia. Nguyên do là bởi tính hiệu quả trong trao đổi thương mại quốc tế tăng dần theo
quy mô trao đổi.
Sự tăng quy mô trao đổi trong thương mại quốc tế lại mâu thuẫn với giới hạn chật
hẹp về lượng và về thời gian sử dụng vốn của từng giới thương nhân riêng lẻ. Nhờ vào
tài trợ thương mại quốc tế mà các giới thương nhân có thể tăng quy mô cũng như kéo dài
thời hạn sử dụng vốn đầu tư vào hoạt động thương mại quốc tế, qua đó gắn kết được thị
trường quốc gia với thị trường quốc tế.

3


Thương mại quốc tế hình thành và phát triển phần lớn phụ thuộc vào sự khác biệt
về năng suất lao động giữa các nước, trong đó sự khác biệt về khoa học và công nghệ sản
xuất giữ vai trò quyết định.
Tài trợ thương mại quốc tế hỗ trợ vốn tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện
chuyên môn hoá sản xuất hiệu quả hơn, nhanh hơn nếu so với khả năng vốn của từng
doanh nghiệp riêng lẻ. Sản xuất càng được chuyên môn hoá ở cấp quốc gia bao nhiêu thì
nhu cầu hoạt động thương mại quốc tế càng lớn bấy nhiêu, hay nói một cách khác, tài trợ
thương mại quốc tế như một chất keo gắn kết thị trường thương mại quốc gia với thị
trường thương mại quốc tế.
1.3. Khái niệm về tài trợ thương mại quốc tế của NHTM
- Tài trợ thương mại quốc tế của tổ chức tín dụng: Là tập hợp các biện pháp hoặc
hình thức hỗ trợ tài chính của tổ chức tín dụng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế của doanh nghiệp như cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư, thanh
toán, bảo lãnh thanh toán nợ cho doanh nghiệp.

- Các tổ chức tín dụng thường gồm có : Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư,
Ngân hàng phát triển, các Công ty Factoring, Công ty Forfaiting, các Ngân hàng chấp
nhận ( accepting houses), các Công ty cho thuê tài chính, Ngân hàng nhà, Hợp tác xã tín
dụng ... Các tổ chức trung gian tài chính khác thường gồm có: Công ty tài chính, Công ty
bảo hiểm, Công ty chứng khoán, Nhà cầm đồ, Quỹ đầu tư .... Tổ chức tín dụng chiếm đa
số tuyệt đối trong các trung gian tài chính của một quốc gia. Tại các nước kinh tế phát
triển như Mỹ, Nhật, Anh, Đức.., các ngân hàng thương mại chiến tỷ trọng tới gần 70%
các tổ chức trung gian tài chính, còn ở Việt Nam tỷ trọng này có thể lên tới 90%. Điều đó
chứng tỏ rằng, ngân hàng thương mại sẽ là người tài trợ chủ yếu cho hoạt động thương
mại quốc tế.
- Đặc trưng của tài trợ thương mại quốc tế của các tổ chức tín dụng là tài trợ trực
tiếp từ người tài trợ đến người nhận tài trợ, không phải thông qua các tổ chức trung gian.
Nhờ vào đặc trưng này mà hình thức tài trợ này có những khác biệt so với hình thức tài
trợ gián tiếp.
Khác biệt thứ nhất dễ nhận thấy là nhu cầu tài trợ hình thành thực sự từ yêu cầu
duy trì, phát triển và mở rộng các hoạt động thương mại quốc tế. Nhu cầu này khó có thể
bị các tầng lớp trung gian thổi phồng hay bóp méo.

4


Khác biệt thứ hai là chi phí xin và nhận tài trợ rẻ hơn nhiều nếu so với tài trợ phải
thông qua trung gian.
Khác biệt thứ ba là các thủ tục hành chính có liên quan đến khoản tài trợ thường ít
hơn, đơn giản hơn nếu xin tài trợ thông qua các tổ chức trung gian..vv..v
- Các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của các tổ chức trung gian tài chính
chủ yếu là tín dụng (Credit), bảo lãnh (Guarantee), chiết khấu chứng từ (Documentary
Discount), bao thanh toán (Factoring/Forfaiting), thuê mua (Leasing), tín dụng chứng từ
(Documentary Credit), tín dụng dự phòng (Standby Credit), nhờ thu (Collection), biên lai
tín thác (Trust Receipt), chấp nhận hoặc tái chấp nhận hối phiếu (Bill’s Acceptence/ ReAcceptence) ...

2. Các hình thức tài trợ thương mại quốc tế của NHTM
2.1 Tín dụng chứng từ trong thanh toán hàng xuất nhập khẩu
2.1.1 Khái niệm về tín dụng chứng từ:
Tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán mà trong đó theo yêu cầu của khách
hàng, một ngân hàng gọi là ngân hàng phát hành sẽ phát hành một bức thư, bức thư này
được gọi là L/C (Letter of credit – L/C), cam kết trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền cho bên
thứ ba (người hưởng lợi) khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành các chứng từ
phù hợp với những điều kiện và điều khoản được quy định trong L/C.
Như vậy, L/C thực chất là một cam kết bằng văn bản của một ngân hàng (ngân
hàng phát hành), được phát hành theo chỉ thị của người mua (người yêu cầu mở L/C) cho
người bán hưởng (người hưởng lợi L/C) và có thể được thanh toán theo phương thức trả
ngay (at sight) hoặc theo phương thức trả chậm (usance payment).
2.1.2 Các loại tín dụng chứng từ:
Trong thương mại quốc tế việc mua bán trao đổi hàng hóa được thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, việc mua bán có thể được thực hiện trực tiếp giữa người bán
và người mua, hoặc cũng có thể thông qua trung gian. Mỗi loại hình mua bán lại chứa
đựng những rủi ro riêng đối với người mua, người bán và ngân hàng tài trợ cho cỏc bờn.
Do đó, để phù hợp với từng loại hình mua bán người ta chia ra nhiều loại thư tín dụng
chứng từ khác nhau. Trong từng loại thư tín dụng thì quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia cũng khác nhau.
- Theo tính chất có các loại:
* Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable L/C): Là loại L/C mà sau khi nó
được phát hành thì mọi việc liên quan đến sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong thời hạn
5


hiệu lực L/C chỉ có thể tiến hành trên cơ sở thỏa thuận và được chấp nhận của các bên có
liên quan. Đây là một cam kết tài trợ ổn định, chắc chắn và không thể hủy bỏ. Việc đơn
phương tuyên bố hủy bỏ hay sửa đổi L/C là không có giá trị pháp lý. Loại L/C này thể
hiện sự ràng buộc trách nhiệm pháp lý của NHPH với cam kết thanh toán có điều kiện

với người hưởng lợi. Do quyền lợi của người xuất khẩu theo loại L/C này được đảm bảo
hơn nên loại L/C này được sử dụng phổ biến nhất hiện nay trong thanh toán quốc tê.
* Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C): là
loại thư tín dụng không thể hủy ngang, được xác nhận bởi một ngân hàng thứ ba thông
thường là ngân hàng quốc tế có uy tín bảo đảm tối đa khả năng thanh toán thư tín dụng.
Loại thư tín dụng này có hai ngân hàng (ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận)
cùng cam kết tài trợ (đồng tài trợ) cho người hưởng lợi.
* Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse
L/C): là loại thư tín dụng không thể hủy ngang mà sau khi người xuất khẩu đã được trả
tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại tiền người xuất khẩu trong bất kỳ
trường hợp nào. Khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu “miễn
truy đòi người ký phỏt”.
* Thư tín dụng không thể hủy ngang có giá trị trực tiếp (Irrevocable Straight L/C)
còn có nghĩa là không được chuyển nhượng, hoặc L/C đích danh: Là loại thư tín dụng
không hủy ngang, trong đó duy nhất chỉ có NHPH có nghĩa vụ thanh toán hối phiếu hoặc
chứng từ được ký phát bởi người hưởng lợi. NHPH cũng không thực hiện bất cứ một
cam kết hay nghĩa vụ nào của mình đối với bất kỳ ai ngoài người hưởng lợi.
- Theo thời hạn thanh toán
* Thư tín dụng trả ngay (At sight L/C): là loại L/C, trong đó người xuất khẩu sẽ
được thanh toán ngay khi xuất trình các chứng từ phù hợp với điều khoản trong L/C tại
Ngân hàng được chỉ định thanh toán.
* Thư tín dụng trả chậm (Deferred Payment L/C): là loại L/C quy định việc thanh
toán sẽ được tiến hành vào một thời điểm xác định trong tương lai. Nếu L/C chỉ định một
ngân hàng thanh toán chậm trả nghĩa là NHPH cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh
toán cho bộ chứng từ được xuất trình phù hợp với quy định trong L/C vào một thời điểm
xác định trong tương lai và NHPH cũng cam kết thanh toán bồi hoàn cho ngân hàng
thanh toán đúng thời hạn.
Ngoài ra, còn một số loại thư tín dụng đặc biệt:
- Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C)
6



- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C)
- Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C)
- Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C)
2.2 Phương thức nhờ thu
Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế với việc
người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng
dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua) sẽ ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ
số tiền từ người nhập khẩu ở nước ngoài, trên cơ sở ký phát hối phiếu đòi tiền người
mua.
- Căn cứ vào nội dung nghiệp vụ thì có hai loại nhờ thu:
* Nhờ thu phiếu trơn: là phương thức mà người bán giao hàng và gửi chứng từ
hàng hóa cho người mua, sau đó lập hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ số tiền trên hối
phiếu ở người mua nhưng không kèm theo điều kiện nào khác. Việc đòi tiền theo phương
thức này là hoàn toàn phụ thuộc vào luật hối phiếu, hơn nữa việc nhận hàng hóa của
người mua tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng mà không
thanh toán tiền. Vì thế phương thức này không được áp dụng nhiều trong thanh toán mậu
dịch vỡ ớt đảm bảo quyền lợi cho người bán.
* Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa
vụ giao hàng, lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu, nhờ ngân hàng thu hộ tiền, với điều
kiện là người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi
hàng cho người mua để họ đi nhận hàng.
- Căn cứ vào thời gian trả tiền thì nhờ thu có hai loại: Nhờ thu trả tiền đổi chứng
từ (D/P) và nhờ thu chấp nhận trả tiền trao chứng từ (D/A).
Đối với nhờ thu xuất khẩu, người xuất khẩu ủy thác cho các ngân hàng thu hộ
tiền. Ngân hàng nhận ủy thác thu tức là ngân hàng đã cung ứng một dịch vụ cho người
xuất khẩu mà không thu phí nhờ thu ngay, phí nhờ thu này sẽ được trừ vào số tiền thu

được. Như vậy, ngân hàng đã tài trợ cho người xuất khẩu (điều 21 – URC 522). Khi tiến
hành nghiệp vụ nhờ thu, ngân hàng có thể ứng trước tiền cho khách hàng (chiết khấu,
cầm cố). Do đó, phương thức nhờ thu có đặc điểm là tài trợ kép mà các hình thức khác
không có.
2.3 Bảo lãnh ngân hàng
7


Bảo lãnh ngân hàng là trách nhiệm trả tiền không hủy ngang của một ngân hàng
trong trường hợp người thứ ba không thực hiện đầy đủ một dịch vụ nào đó. Bảo lãnh
ngân hàng mang tính độc lập và tách biệt trong quan hệ vay nợ hoặc hợp đồng mua bán.
- Mục đích của bảo lãnh ngân hàng:
Để bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia TMQT, tránh được các rủi ro có thể
phát sinh trong các dịch vụ mua bán không thường xuyên, đòi hỏi phải có sự đảm bảo
của bên thứ ba cam kết bồi thường cho bên bị thiệt hại do bên đối tác gây ra. Người thứ
ba thông thường là người phải có uy tín, có khả năng tài chính và có đủ điều kiện thực
hiện ngay việc bồi thường. Thực tế, người có khả năng đứng ra với vai trò là người thứ
ba thì thường là ngân hàng. Chính vì vậy mà trong các hợp đồng kinh tế, khi nói đến bảo
lãnh người ta thường hay nghĩ đến Bảo lãnh ngân hàng. Cam kết bồi thường của ngân
hàng bằng văn bản và thường được gọi là “Thư bảo lãnh ngân hàng – Bank Guarantee”
- Các loại bảo lãnh ngân hàng:
+/ Bảo lãnh dự thầu: Trong TMQT, đấu thầu thường được sử dụng để tìm được
nguồn cung cấp tối ưu nhất. Thông thường, đó là những hợp đồng lớn, đặc biệt là những
hợp đồng xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị. Mục đích của loại bảo lãnh này là
nhằm bù đắp những thiệt hại về thời gian và chi phí cho chủ thầu do những vi phạm của
người dự thầu gây ra như: rút đơn thầu, trúng thầu nhưng bỏ không ký tiếp hợp đồng
cung ứng,… Bảo lãnh dự thầu có tác dụng để cho bên chủ thầu thấy đơn dự thầu là một
cam kết nghiêm túc và bên dự thầu sẽ ký hợp đồng dự thầu nếu trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu là một hình thức tài trợ của ngân hàng vì việc ngân hàng cấp bảo
lãnh dự thầu hàm ý năng lực tài chính của người dự thầu là lành mạnh; ngoài ra, nếu

trúng thầu ngân hàng sẽ xét cấp tiếp các bảo lãnh như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh đặt cọc. Thời hạn bảo lãnh dự thầu kết thúc trong trường hợp: người dự thầu trúng
thầu và đã ký được bảo lãnh thực hiện hợp đồng; hoặc khi người dự thầu không trúng
thầu.
+/ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Đây là loại bảo lãnh được sử dụng rộng rãi và
thường có hiệu lực ngay sau khi chấm dứt hiệu lực của bảo lãnh dự thầu. Mục đích của
bảo lãnh thực hiện hợp đồng là tạo nghĩa vụ cho nhà xuất khẩu phải thực hiện đúng
những điều đã ký kết trong hợp đồng; và bồi thường cho nhà nhập khẩu trong trường hợp
nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng như không giao hàng, giao hàng chậm, không đúng chất
lương và số lượng,… Mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng thường là 5% - 10% giá trị của
hợp đồng. Hiệu lực của bảo lãnh thực hiện hợp đồng chấm dứt khi người được bảo lãnh
8


hoàn thành nghĩa vụ cung ứng hàng hóa. Đõy chớnh là một hình thức tài trợ của ngân
hàng vì ngân hàng đã lấy uy tín của mình để cam kết với nhà nhập khẩu là sẽ bồi thường
cho họ nếu nhà xuất khẩu vi phạm hợp đồng đã ký.
+/ Bảo lãnh thanh toán tiền ứng trước: Khi ký kết những hợp đồng có giá trị lớn,
thông thường người bán yêu cầu người mua đặt cọc một phần tiền nhằm tài trợ cho người
bán thực hiện hợp đồng; đồng thời người mua cũng yêu cầu người bán đề nghị ngân hàng
phát hành bảo lãnh khoản tiền đặt cọc đó. Mục đích của bảo lãnh tiền đặt cọc nhằm đảm
bảo cho nhà nhập khẩu được được nhận lại số tiền đã đặt cọc trong trường hợp nhà xuất
khẩu không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng, nghĩa là không giao hàng đúng như hợp đồng
quy định. Bảo lãnh tiền đặt cọc có hiệu lực khi người bán sử dụng khoản tiền vay này và
hết hiệu lực khi người bán giao hàng lần cuối cộng với một số ngày để người thụ hưởng
làm thủ tục đòi tiền.
+/ Bảo lãnh thanh toán: Thường được dùng trong các hợp đồng mua bán thiết bị
hàng hóa trả chậm. Quan hệ giữa người xuất khẩu và nhập khẩu thực chất là quan hệ tín
dụng thương mại. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ và đúng hạn của
người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh thanh toán của ngân hàng. Do vậy,

bảo lãnh thanh toán chính là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho người mua. Hiện
nay, đây là loại bảo lãnh phổ biến ở các nước đang phát triển và có thể được sử dụng để
thay thế cho phương thức tín dụng chứng từ.
+/ Bảo lãnh nhận hàng: Thông thường người mua luôn muốn nhận được vận đơn
để nhận hàng khi phương tiện vận tải chuyển hàng hóa đến cảng đích. Tuy nhiên, trên
thực tế, nếu hàng về trước khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ và khách hàng cũng
chưa nhận được B/L thì để trỏnh cỏc rủi ro như phí lưu kho bãi, chi phí cơ hội, tổn thất,
… người mua sẽ yêu cầu ngân hàng của mình phát hành một cam kết (thay thế cho B/L)
với hãng vận tải để nhận hàng. Cam kết này là một bảo lãnh nhân hàng của ngân hàng.
Bằng việc ký trên bảo lãnh nhận hàng, ngân hàng đã cam kết thực hiện chuyển giao vận
đơn cho công ty vận tải. Do vậy, bảo lãnh nhận hàng chính là một trong những hình thức
tài trợ của ngân hàng cho người mua vì ngân hàng đó dựng chữ tín của mình để cam kết
cho với hãng vận tải sẽ chịu trách nhiệm đối với lô hàng, và người mua chưa phải trả tiền
lô hàng cho người xuất khẩu đã nhận được hàng hóa.
2.4. Chấp nhận hối phiếu
Chấp nhận hối phiếu của ngân hàng là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận
hối phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một
9


hình thức, một sự bảo đảm về tài chính; thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực sự
cho người vay. Tuy nhiên, khi đến hạn nếu nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán
thì người cho vay (ngân hàng), người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ thay.
Chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng khả năng
thanh toán của bên mua, họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp
nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân
hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên mua để thanh toán cho bên bán khi
hối phiếu đến hạn.
Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu trên cơ sở đó có được sự bảo đảm
một cách chắc chắn về khả năng thanh toán và họ có thể đem hối phiếu đến chiết khấu tại

bất kỳ ngân hàng nào.
2.5 Chiết khấu hối phiếu
Chiết khấu hối phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình
thức khách hàng chuyển quyền sở hữu hối phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận
một số tiền bằng mệnh giá của hối phiếu trừ lãi chiết khấu và phí chiết khấu. Lãi chiết
khấu này thường thấp hơn lãi vay ngắn hạn thông thường. Thực chất là ngân hàng tiến
hành mua các hối phiếu thương mại đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán.
Thông qua loại hình này, ngân hàng cung ứng một khoản vốn cho các nhà xuất
khẩu để họ có điều kiện tiếp tục quá trình tái sản xuất. Đõy chớnh là khoản vốn mà nhà
sản xuất cần bù đắp khi họ cấp tín dụng thương mại (bán chịu hàng hóa) cho nhà nhập
khẩu.
Với hình thức chiết khấu hối phiếu, ngân hàng có thể gặp rủi ro khi:
- Người có nghĩa vụ trả tiền hối phiếu từ chối trả tiền hoặc không có khả năng
thanh toán kịp thời khi hối phiếu đến hạn;
- Chiết khấu phải những hối phiếu không hợp lệ (được lập không dựa trên cơ sở
hành vi thương mại).
Do vậy, để tránh rủi ro xảy ra thỡ cỏc ngân hàng thực hiện chiết khấu hối phiếu có
truy đòi để ngân hàng có thể thu hồi lại số tiền từ người xuất khẩu (người được chiết
khấu hối phiếu) nếu nhà nhập khẩu không trả tiền khi đáo hạn.
2.6 Bao thanh toán
2.6.1 Bao thanh toán tương đối (Factoring):

10


Factoring là một hợp đồng được ký kết giữa cỏc bờn cung ứng (nhà xuất khẩu) và
bên tài trợ (Factor, tổ chức bao thanh toán); theo đú, bờn cung ứng có thể sẽ nhượng
(bán) cho tổ chức tài trợ các khoản phải thu phát sinh từ những hợp đồng xuất khẩu.
Xét từ góc độ tài trợ, có thể hiểu Factoring là dạng tài trợ bằng việc mua lại các
khoản phải thu ngắn hạn từ nhà xuất khẩu. Với các tính năng và đặc thù như vậy,

factoring có thể giúp các nhà xuất khẩu vừa nhận được tiền ngay từ sau khi giao hàng,
không phải bận tâm về rủi ro thanh toán từ phía bên mua, vừa tiết giảm khối lượng công
việc ghi chép sổ sách và theo dõi quá trình thu nợ từ người nhập khẩu. Factor sẽ dành lấy
quyền đòi tiền từ nhà nhập khẩu với chi phí và rủi ro mà hai bên đã thỏa thuận trước.
Trong giao dịch Factoring thường có ba chủ thể chính tham gia là: Nhà xuất khẩu,
nhà tài trợ Factoring ở nước nhà xuất khẩu (Factor xuất khẩu), và nhà nhập khẩu nước
ngoài.
Phạm vi áp dụng của tài trợ factoring:
Nhìn chung, tài trợ factoring đặc biệt thích hợp với các giao dịch xuất khẩu áp
dụng phương thức thanh toán ghi sổ, cho phép người mua hưởng tín dụng cung ứng hoặc
gặp khó khăn trong việc thu nợ tiền hàng từ người mua nước ngoài.
Tài trợ factoring cũng gặp phải những rủi ro khi những khoản nợ được Factor mua
lại từ nhà xuất khẩu nhưng nhà nhập khẩu lại không thanh toán hoặc mất khả năng thanh
toán. Do đó, lãi suất của tài trợ factoring thường cao hơn lãi suất thị trường.
2.6.2 Bao thanh toán tuyệt đối (Forfeiting)
Forfeiting là nghiệp vụ mua bán những khoản nợ hoặc những khoản thanh toán
của nhà xuất khẩu nếu các khoản nợ hoặc các khoản thanh toán thương mại không được
trả ở thời điểm đến hạn bởi người nợ hoặc người bảo lãnh.
Thực chất hoạt động Forfeiting là sử dụng các quỹ của thị trường mở để cấp tín
dụng cho nhà cung cấp hàng hóa với một lãi suất cố định nhằm tài trợ cho các công trình
hoặc xuất khẩu hàng hóa, tư liệu sản xuất với thời hạn thanh toán trong tương lai.
Trong giao dịch Forfeiting thường có bốn bên liên quan: Nhà xuất khẩu, nhà nhập
khẩu, ngân hàng bảo lãnh (thường là ở nước nhập khẩu), và nhà Fofeiting. Nhà nhập
khẩu trả cho nhà xuất khẩu những kỳ phiếu có hạn 5 – 7 năm đã được ngân hàng của nhà
nhập khẩu đứng ra bảo lãnh thanh toán. Bảo lãnh này là không thể hủy ngang, vô điều
kiện và có thể chuyển nhương được. Nhà xuất khẩu bỏn cỏc kỳ phiếu chưa đến hạn thanh
toán đó cho nhà Forfeiting sẽ nhờ ngân hàng bảo lãnh thu tiền từ nhà nhập khẩu, nếu nhà
11



nhập khẩu không thanh toán được thì sẽ đòi tiền ngân hàng bảo lãnh thanh toán kỳ phiếu
đó. Nhà Fofeiting có thể bỏn cỏc kỳ phiếu đú trờn thị trường tín dụng thứ cấp.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của
NHTM
Phát triển tài trợ TMQT là việc làm mở rộng quy mô, tăng trưởng khối lượng hoạt
động và nâng cao chất lượng tài trợ TMQT.
Nếu hiểu phát triển tài trợ TMQT chỉ đơn thuần là có tăng trưởng về số lượng quy
mô thì là rất sai lầm và có tính phiến diện bởi nếu có sự tăng trưởng về số lượng nhưng
lại giảm sút về chất lượng thì sẽ dẫn đến hiệu quả thấp, ảnh hưởng xấu tới hoạt động
ngân hàng nói chung.
Xuất phát từ quan niệm trên, các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển tài trợ TMQT
của NHTM là tốc độ tăng trưởng về quy mô khối lượng hoạt động, mức độ rủi ro, tính đa
dạng về sản phẩm, lợi nhuận do hoạt động này mang lại…
3.1. Các nhân tố chủ quan
- Mô hình tổ chức quản lý hoạt động tài trợ TMQT: Một hệ thống quản lý thống
nhất từ Hội sở chính đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, đảm bảo được các chuẩn
mực quốc tế, đảm bảo sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm được chi phí đối với
khách hàng sẽ là tác nhân thu hút khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn vì ở đó các
mong muốn và quyền lợi của họ được bảo đảm.
- Uy tín của ngân hàng: Một ngân hàng có uy tín lớn là ngân hàng cú cỏc hoạt
động đa dạng và phong phú cả về quy mô và chất lượng, điều này sẽ thu hút được số
lượng lớn các khách hàng đến với ngân hàng. Trong hoạt động tài trợ TMQT thì uy tín
của ngân hàng càng đóng vai trò quan trọng hơn, cam kết của ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện của giao dịch thương mại. Cam kết do một ngân hàng có
uy tín cao phát hành sẽ dễ dàng được chấp nhận, giảm các chi phí cho người mua và
người bán, tạo lòng tin đối với khách hàng, từ đó, sẽ càng làm tăng uy tín của ngân hàng
hơn và sẽ có nhiều khách hàng hơn nữa đến với ngân hàng, ngân hàng cũng nhờ đó mà
có thể phát triển các mảng hoạt động khác của ngân hàng cho khách hàng. Uy tín của
ngân hàng có thể được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, tốc độ và kỹ
thuật xử lý các nghiệp vụ, quy mô và nguồn vốn huy động và cho vay, sự đa dạng hóa

các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng…
- Công nghệ ngân hàng: Công nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cơ sở vật
chất và mạng lưới truyền thông, thanh toán. Hệ thống mạng máy tính và các chương trình
12


ứng dụng của nó có liên quan chặt chẽ đến chất lượng hoạt động và các sản phẩm tài trợ
TMQT. Việc nối mạng thông tin cũng giúp cho ngân hàng quảng bá được hoạt động và
các sản phẩm dịch vụ của mình tới khách hàng, thu hút thêm khách hàng đến với ngân
hàng, khai thác tốt các nguồn vốn tài trợ và thực hiện tài trợ lại cho khách hàng. Chính
những hoạt động này là tiền đề để thúc đẩy hoạt động tài trợ TMQT.
Với thực tiễn môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện tại: các yếu tố trên rất quan
trọng sau khi Việt Nam ký kết các hiệp định thương mại quốc tế, cũng như gia nhập tổ
chức WTO; các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng Mỹ, sẽ được nới lỏng
các quy định về hoạt động của ngân hàng nước ngoài, cho phép cung cấp các dịch vụ, mà
thực tế thì về các yếu tố này ngân hàng nước ngoài hơn hẳn ngân hàng của Việt Nam.
Bên cạnh đó, theo đúng lộ trình cam kết gia nhập WTO, hệ thống ngân hàng Việt Nam
phải thực hiện tái cơ cấu và đây thực sự là một thách thức, buộc các NHTM Việt Nam
phải chuyên môn hóa và phát triển dịch vụ để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong đó,
hoạt động tài trợ TMQT là vấn đề phức tạp và khá nhạy cảm với các yếu tố công nghệ,
nguồn vốn, trình độ quản lý…
- Trình độ cán bộ: Trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, và những kinh nghiệm thực
tiễn của cán bộ giao dịch trực tiếp sẽ là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với
ngân hàng. Hoạt động tài trợ TMQT đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ phải có trình độ chuẩn
mực nhất định. Do vậy, cán bộ phải không ngừng nâng cao chuyên môn, ngoại ngữ cũng
như các kiến thức về pháp luật, thông lệ quốc tế để đáp ứng được tốt nhất các nhu cầu
của khách hàng.
- Mạng lưới đại lý: Đây là một yếu tố rất quan trọng vì họ sẽ là đối tác của ngân
hàng trong việc mở rộng thị trường hoạt động, phạm vi giao dịch, đáp ứng tốt hơn các
nhu cầu của khách hàng nhằm làm năng lực cạnh tranh và nâng cao uy tín của ngân hàng.

3.2. Các nhân tố khách quan
* Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, các khách hàng của ngân hàng.
+ Chính sách kinh tế đối ngoại: ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động tài trợ TMQT.
Các định hướng mang tính chiến lược về bảo hộ hay tự do hóa mậu dịch có ảnh hưởng
rất lớn đến hành vi của các doanh nghiệp. Chính phủ các nước cũng thường sử dụng biện
pháp này trong quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế. Trong hoạt động ngoại thương,
ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài trợ
13


TMQT không thể bị thiếu; đồng thời cũng nhờ hoạt động tài trợ TMQT phát triển đã tác
động ngược trở lại, tạo điều kiện mở rộng phạm vi của hoạt động ngoại thương làm cho
hoạt động diễn ra một cách sôi nổi, trôi chảy, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
+ Chính sách thuế: Các chính sách thuế của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thông qua việc
áp dụng mức thuế cao hay thấp sẽ hạn chế hay khuyến khích sản xuất hay nhập khẩu
hàng hóa đó.
+ Chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước thực hiện quản lý ngoại hối thông qua
việc đề ra các chính sách kiểm soát luồng vận động của ngoại hối vào ra và các quy định
về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn cứ vào tình hình cụ thể và những
biến động trên thị trường mà nhà nước áp dụng chính sách quản lý ngoại hối tự do hay cố
định (hiện tại ở Việt Nam, chính phủ thực hiện chính sách quản lý ngoại hối thả nổi có
điều tiết theo biến động thị trường). Việc làm này sẽ ảnh hưởng đến cung cầu ngoại hối
trên thị trường và do đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của quốc gia, trước hết là ảnh
hưởng đến ngoại thương và trạng thái ngoại hối của ngân hàng. Công tác quản lý ngoại
hối của nước ta những năm gần đây được thực hiện tương đối đồng bộ và có sự phối hợp
tốt với các chính sách khác, làm cho thị trường ngoại tệ sôi động hơn. Tỷ giá được vận
hành tương đối linh hoạt theo quy luật cung cầu ngoại tệ và tín hiệu thị trường trong và

ngoài nước, tỷ giá đã phản ánh tốt hơn sức mua đối ngoại của đồng Việt Nam góp phần
khuyến khích xuất khẩu. Việc NHNN mở rộng biên độ điều hành tỷ giá linh hoạt và đưa
ra các quyết định mới về quản lý trạng thái ngoại tệ đã tạo cho các NHTM tăng mua
ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng xuất nhập khẩu.
* Sự thay đổi chế độ kinh tế, chính trị của nước bạn hàng:
Do liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và đối tượng kinh tế của nhiều quốc
gia khác nhau, hoạt động tài trợ TMQT chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động của môi
trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động về chế độ chính trị
của nước bạn hàng sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết đã
thỏa thuận giữa cỏc bờn. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi
đến sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động tài trợ thương mại. (Ví Dụ)
* Các yếu tố từ khách hàng:
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, trình độ nghiệp vụ
kinh doanh, hành vi đạo đức của khách hàng. Như đã phân tích, so với các loại hình cho
14


vay khác, hoạt động tài trợ TMQT phức tạp hơn, đòi hỏi cả khách hàng và ngân hàng
phải có một trình độ nhất định về thông lệ quốc tế, thị trường thế giới,… Khách hàng khi
ký kết hợp đồng phải cú cỏc điều khoản không bất lợi để dễ dàng được chấp nhận tài trợ
của ngân hàng. Việc khách hàng giả nạo chứng từ đòi tiền là hoàn toàn có thể xảy ra. Do
vậy, yếu tố về hành vi đạo đức của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển của phương thức thanh toán này.

15


PHẦN 2: THỰC TRẠNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

2.1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của
NHTM
Bên cạnh các văn bản pháp lý, thông lệ và tập quán mang tính quốc tế như UCP
500, UCP 600, ISBP 681, URC 522, URR 525, Incoterms 2000, Incoterms 2010,… Hoạt
động thanh toán quốc tế - tài trợ ngoại thương của các NHTM còn phải chịu sự điều
chỉnh và tuân thủ theo một số văn bản pháp lý khác mang tính quốc gia sau:
-

Pháp lệnh ngoại hối và nghị định 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của chính phủ quy
định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối.

-

Quyết định số 07/2015/TT-NHNN ngày 25/06/2015 của Thống đốc ngân hàng nhà
nước về ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng.

-

Thông tư số 03/2008 TT-NHNN ngày 11/04/2008 của ngân hàng nhà nước hướng
dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng.

-

Quyết định 2635/2008/QĐ-NHNN ngày 06/11/2008 của thống đốc Ngân hàng nhà
nước về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ
chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối.

-

Quyết định số 21/2008/QĐ-NHNN ngày 11/07/2008 ban hành quy chế đại lý đổi

ngoại tệ.

-

Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/05/2001 ban hành quy chế mở thư tin
dụng nhập hàng trả chậm. (Điều 15 của quy chế được sửa đổi bổ sung bởi quyết định
số 1233/2001/QĐ-NHNN).

-

Luật các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam.

-

Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN ngày 25/03/2002 ban hành quy chế hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.

2.2. Thực trạng hoạt động tài trợ TMQT của NHNo&PTNT Việt Nam
-

Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là một Ngân hàng

thương mại nhà nước, kinh doanh tổng hợp, có xu hướng mở rộng tất cả các nghiệp vụ
tài chính, ngân hàng hiện đại. Ngân hàng được thành lập theo Nghị định số 53 HĐBT
ngày 26/3/1988 của Chính phủ nước CHXH Việt Nam. Bên cạnh việc mở rộng kinh
doanh trên thị trường trong nước, Ngân hàng tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế
nhằm tranh thủ thu hút và khai thác nguồn vốn bên ngoài với sự trợ giúp tích cực của các
hiệp hội và tổ chức tài chính quốc tế. Từ năm 1991, NHNo đã là thành viên của Hiệp hội
tín dụng Nông nghiệp nông thôn Châu Á - Thái bình dương (APRACA), từ 2001 là
16



thành viên Hiệp Hội tín dụng nông nghiệp quốc tế (CICA) và từ 2002 là thành viên
ABA; đồng thời tiếp tục khẳng định uy tín của mình với các tổ chức tài chính ngân hàng
quốc tế như WB, ADB,... Ngoài hoạt động tín dụng truyền thống, NHNo còn chú trọng
đầu tư hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm mở rộng và phát triển các dịch vụ tài
chính ngân hàng mới để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng.
-

Đến 31/12/2014, tổng tài sản có của Agribank đạt 762.869 tỷ đồng, tổng nguồn

vốn đạt 690.191 tỷ đồng. Tổng thu dịch vụ của Agribank đến 31/12/2014 đạt 2.877 tỷ
đồng, tăng 19,6% so với cuối năm 2013. Trong đó: Nhóm dịch vụ thanh toán trong nước
tăng 10%, nhóm dịch vụ thanh toán quốc tế tăng 11,2%, nhóm dịch vụ thẻ tăng 47%, các
dịch vụ khác tăng 8,2%.
-

Hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế được NHNo đặc biệt chú trọng. Từ một

ngân hàng chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đến nay phát triển
thêm cả nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày
càng đa dạng. Các nghiệp vụ ngân hàng đại lý, tài trợ thương mại quốc tế, kinh doanh
ngoại tệ đều được chú trọng phát triển.
-

Doanh số hoạt động trong lĩnh vực tài trợ TMQT ngày càng tăng, chất lượng của

các giao dịch tài trợ TMQT đã được cải thiện đáng kể, và tạo nên vị thế cạnh tranh cho
ngân hàng và thu hút khách hàng.
-


Các dịch vụ tài trợ thương mại quốc tế chủ yếu được thực hiện tại Ngân hàng

No&PTNT Việt Nam
-

Hoạt động bảo lãnh trong tài trợ xuất nhập khẩu

-

Trong tình hình xuất nhập khẩu hiện nay, khi mà nhu cầu ngoại tệ của nước ta rất

lớn, chúng ta luôn ở trong tình trạng thiếu hụt ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã
tiết kiệm được một lượng ngoại tệ khá lớn và sử dụng lượng ngoại tệ này cho các nhu
cầu khác cần thiết hơn. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không phải xuất vốn như nghiệp
vụ cho vay mà chỉ cam kết bằng uy tín. Tuy nhiên thận trọng là điều rất cần thiết khi thực
hiện nghiệp vụ này vì nếu không nghiên cứu kĩ khách hàng mà đưa ra quyết định bảo
lãnh không chính xác thì ngân hàng sẽ phải gánh lấy hậu quả khi mà khách hàng không
có khả năng thanh toán hay thực hiện hợp đồng.
-

Ngân hàng No&PTNT Việt Nam hiện đang thực hiện bảo lãnh phục vụ hoạt động

xuất nhập khẩu chủ yếu dưới những hình thức sau:
-

Phát hành L/C trả ngay, trả chậm

-


Phát hành bảo lãnh thanh toán, Bảo lãnh nhận hàng, Bảo lãnh thực hiện hợp đồng,

Bảo lãnh dự thầu… Và một số hình thức bảo lãnh khác liên quan đến hoạt động đầu tư
nước ngoài và xuất nhập khẩu…
17


-

Hoạt động nhờ thu D/A, D/P, tín dụng chứng từ

-

Đây là hình thức tài trợ thương mại quốc tế được Agribank đặc biệt quan tâm, chú

ý tạo điều kiện cho nghiệp vụ này phát triển và đây cũng là một nghiệp vụ phát triển
mạnh từ trước đến nay. Nghiệp vụ tín dụng chứng từ, nhờ thu D/A, D/P được coi là hoạt
động chủ yếu trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của Agribank, nó chiếm tỷ
trọng lớn về doanh số hoạt động và doanh thu trong nghiệp vụ tài trợ thương mại của
Agribank.
-

- Tổng doanh số thanh toán xuất nhập khẩu qua Agribank năm 2013 đạt 7.675

triệu USD, trong đó doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 3.287 triệu USD, doanh số
thanh toán hàng xuất khẩu đạt 4.388 triệu USD. Phí dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 280 tỷ
đồng, chiếm 12,7% tổng thu phí dịch vụ của toàn hệ thống.
-

- Hoạt động thanh toán biên giới: NHNo là ngân hàng thương mại Việt Nam đầu


tiên triển khai nghiệp vụ thanh toán biên giới bằng đồng Việt nam và Nhân dân tệ với các
Ngân hàng thương mại Trung quốc. Đến nay toàn hệ thống NHNo đã có 5 chi nhánh
thực hiện thanh toán biên giới với các Ngân hàng thương mại Trung quốc bằng VNĐ và
CNY là Lào Cai, Quảng Ninh, Hà Giang, Lạng Sơn và Cao Bằng. Hoạt động thanh toán
biên giới của NHNo luôn giữ nhịp độ tăng trưởng nhanh và đảm bảo an toàn. Hầu hết các
chi nhánh NHNo khu vực biên giới Việt- Trung đã triển khai thành công thanh toán biên
giới qua mạng SWIFT, làm tăng tính an toàn và tốc độ thanh toán, đáp ứng tốt nhu cầu
của khách hàng, được ngân hàng đối tác đánh giá cao.
-

Năm 2013, tại thị trường Trung Quốc, tổng doanh số thanh toán biên mậu đạt

29.145 tỷ đồng, trong đó doanh số thanh toán hàng xuất khẩu đạt 23.016 tỷ đồng, doanh
số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 6.129 tỷ đồng. Tại thị trường Lào, doanh số thanh toán
biên mậu năm 2013 có sự tăng trưởng mạnh, đạt 220 tỷ đồng tăng 91% so với năm 2012;
trong đó doanh số thanh toán hàng xuất khẩu đạt 91 tỷ đồng, hàng nhập khẩu đạt 129 tỷ
đồng.
-

Hoạt động thanh toán biên mậu luôn là một trong những thế mạnh vượt trội của

Agribank. Với dịch vụ này, Agribank đã mở ra kênh thanh toán tiện ích cho hoạt động
thương mại giữa các nước có chung biên giới với Việt Nam
-

- Về hợp tác quốc tế: NHNo luôn chú trọng mở rộng quan hệ đại lý với các ngân

hàng khác trên thế giới. Số lượng các ngân hàng đại lý của NHNo tăng dần qua các năm.
Hiện tại NHNo đang có quan hệ đại lý với hơn 900 ngân hàng trên toàn thế giới.

PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CÁO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG NN VÀ PTNT
18


3.1 Không ngừng tăng trưởng nguồn vốn để có đủ khả năng tài trợ cho các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
-

Muốn tăng được thị phần của Agribank trong hoạt động tài trợ thương mại quốc tế

thì có một điều kiện cơ bản không thể thiếu được là ngân hàng cần có đủ vốn để tài trợ
cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Những khó khăn trong việc mở rộng
loại hình dịch vụ cung cấp một phần là do hạn chế về nguồn vốn. Chính vì vậy mà ngân
hàng cần phải có một chiến lược huy động vốn có tính chất dài hạn để tạo vốn cho hoạt
động tài trợ thương mại quốc tế.
3.2 Đa dạng hóa hoạt động tài trợ thương mại quốc tế
-

Trong cơ chế thị trường loại trừ sự cạnh tranh về giá, ngân hàng có khả năng cung

cấp nhiều dịch vụ, sản phẩm cho khách hàng thì ngân hàng đó sẽ chiếm được nhiều thị
phần hơn. Ngân hàng No&PTNT Việt Nam phải có một chiến lược dài hạn cho việc
cung cấp các sản phẩm dịch vụ của mình. Ngoài các hình thức tài trợ truyền thống mà
hiện nay Agribank đang thực hiện, ngân hàng cần có kế hoạch nghiên cứu để triển khai
các hình thức tài trợ khác như Factoring, Forfaiting…
3.3 Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong mô hình ngân hàng hiện đại
-

Con người luôn là nhân tố quyết định tới thành công của mọi hoạt động sản xuất.


Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi công nghệ ngày càng được ứng dụng sâu sắc
vào các hoạt động ngân hàng thì vai trò của nhân tố con người càng quan trọng. Ngân
hàng No&PTNT Việt Nam cần có một đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ, nắm bắt,
tiếp thu được công nghệ mới. Một trong những điểm yếu của cán bộ ngân hàng nói
chung và Ngân hàng No&PTNT Việt Nam nói riêng là chưa am hiểu luật và thông lệ
quốc tế. Bên cạnh đó là những hạn chế trong việc sử dụng ngoại ngữ và các ứng dụng tin
học. Những nguyên nhân này khiến cho việc cập nhật kiến thức về nghiệp vụ cũng như
ứng dụng các công nghệ mới trở nên khó khăn. Chính vì vậy mà việc trang bị cho cán bộ
ngân hàng những công cụ cơ bản như ngoại ngữ và tin học là rất cần thiết. Tuy nhiên,
việc quan trọng nhất vẫn là nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng. Có rất
nhiều hình thức để thực hiện được mục tiêu này mà một trong những cách hay được áp
dụng nhất là cử cán bộ đi học, dự hội thảo, đi tham quan, khảo sát các mô hình thành
công ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Bên cạnh công tác đào tạo, công tác tuyển
chọn và sử dụng cán bộ cũng cần sự quan tâm đặc biệt. Việc tuyển chọn cán bộ trẻ thay
thế lớp người sắp nghỉ hưu có ý nghĩa quyết định đến tương lai của ngân hàng. Ngân
19


hàng No&PTNT Việt Nam cần thực hiện tốt chế độ thi tuyển để có lớp người mới thực
sự về chất. Có được lớp người mới, số người cũ sẽ tự bị đào thải nếu không có ý thức
vươn lên và thiếu trách nhiệm trong công việc.

KẾT LUẬN
Tài trợ thương mại quốc tế không chỉ là mảng hoạt động mang lại lợi ích to lớn
cho các ngân hàng thương mại mà còn hoạt động này còn tạo môi trường, điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế thương mại của nước ta.
Phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế đang là hướng đi đúng đắn và là
lĩnh vực đang và sẽ tiếp tục thu được lợi nhuận cao cho ngành ngân hàng thương mại Việt
Nam, giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp tục phát triển, nắm vững thị trường

trong nước trong bối cảnh hội nhập. Hội nhập đồng nghĩa với một môi trường cạnh tranh
hơn nữa khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng theo cam kết.
Phát triển hoạt động tài trợ thương mại quốc tế cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ các
doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Phát triển hoạt động
tài trợ thương mại quốc tế hơn nữa là điều kiện cần thiết để nhanh chóng phát triển kinh
tế Viêt Nam trong bối cảnh hội nhập, giúp đất nước nắm bắt và tận dụng hết được những
cơ hội của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

20



×