Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Vận dụng quan điểm Mácxít về phủ định biện chứng vào việc giữ gìn và phát huy văn hoá Tày ở Cao Bằng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 96 trang )

98

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

***

ĐÀM THỊ MINH

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT VỀ PHỦ ĐỊNH
BIỆN CHỨNG VÀO VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
VĂN HOÁ TÀY Ở CAO BẰNG HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH : DVBC & DVLS
MÃ SỐ
: 5 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGƠ ĐÌNH XÂY
Ban Khoa giáo Trung ương

HÀ NỘI - 2004


3

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa



1

Lời cam đoan

2

Mục lục

3

MỞ ĐẦU

4

Chương 1- QUAN ĐIỂM PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG MÁC – XÍT VỚI VẤN ĐỀ
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HỐ DÂN TỘC

2.1. Văn hoá Tày

10
10

1.2. Vận dụng nguyên tắc phủ định biện chứng trong giữ gìn và phát huy văn
hố dân tộc

15

Chương 2 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ TÀY Ở CAO
BẰNG HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN TẮC PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG


2.1. Văn hoá Tày

36
36

2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển văn hoá
Tày ở Cao Bằng

42

2.3. Biểu hiện của văn hoá Tày Cao Bằng trong một số lĩnh vực hoạt động
tinh thần

44

2.4. Thực trạng lĩnh vực tinh thần của văn hoá Tày Cao Bằng hiện nay

66

2.5. Một số kiến nghị để giữ gìn và phát huy văn hố Tày Cao Bằng hiện nay

73

KẾT LUẬN

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO


88


4

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Với tư cách là một trong ba nội dụng cơ bản của phép biện chứng
duy vật, quy luật phủ định của phủ định luôn là nền tảng lý luận là kim chỉ
nam cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của những người
Mác - xít. Phủ định của phủ định trong quan điểm phủ định duy vật biện
chứng khơng chỉ giúp cho những người Mác – xít hiểu đúng và trúng về bản
chất, về đặc điểm của quá trình phủ định biện chứng – một quá trình đã ,
đang và sẽ diễn ra thường xuyên trong thế giới xung quanh ta. Nó cịn giúp
cho đảng của họ có được cơ sở lý luận và phương pháp luận để đưa ra và
thực hiện có hiệu quả những đường lối, chủ trương, chính sách của mình
nhằm để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, có chất lượng hơn.Việc thiết
kế, xây dựng được một xã hội mới về chất trên nền vốn có của xã hội cũ,về
thực chất, đó là q trình vận dụng và thực hiện quan điểm phủ định biện
chứng trong thực tế.
1.2. Phủ định biện chứng là q trình phủ định bao hàm trong nó
những nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng
mang tính kế thừa, tích cực và gạt bỏ những yếu tố không phù hợp với sự
phát triển cái mới. Song khi vận dụng quan điểm phủ định vào đời sống thực
tiễn để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những quan điểm xem xét
sự vật và hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc là xố bỏ tất cả,
hoặc kế thừa một cách nguyên xi. Đã một thời chúng ta mắc phải cách nhìn
và đánh giá siêu hình về sự vật, đã vận dụng một cách máy móc mơ hình xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trước đây mà
không đứng trên quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lênin.

Hơn bất cứ lĩnh vực xã hội nào, lĩnh vực văn hoá ở nước ta trước đổi mới đã


5

có những quan điểm chỉ đạo và cách làm khơng đúng và hệ quả là nhiều di
sản văn hoá dân tộc do lịch sử để lại đã bị xâm phạm và phá hỏng. Nền văn
hoá dân tộc đã bị tổn thất lớn. Có nhiều lí do để giải thích cho vấn đề này,
song trong đó cần nhấn mạnh rằng, trong cách nghĩ và cách làm của chúng
ta, đã thiếu tư duy và cách nhìn của phủ định biện chứng. Nói một cách
khác, chúng ta vẫn nói về phủ định biện chứng, song chưa hiểu và chưa nắm
được thực chất của nó.
Vì vậy làm rõ quan điển phủ định biện chứng và vận dụng một cách
đúng đắn thích hợp vào hồn cảnh cụ thể của nước ta là điều hết sức cần
thiết. Đặc biệt, sử dụng quan điểm phủ định biện chứng vào lĩnh vực văn
hoá để nhằm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, nhất là đối với văn hố dân tộc ít người như dân tộc Tày ở Cao Bằng là
điều hết sức quan trọng và tối cần thiết.
1.3. Văn hoá Việt Nam hiện nay đang được vận động và chịu nhiều ảnh
hưởng của điều kiện xung quanh: đó là kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế
quốc tế, cuộc cách mạng khoa học – Công nghệ hiện đại.
Kinh tế thị trường đã thể hiện được tính ưu việt của nó và được đông
đảo quần chúng nhân dân, các thành phần kinh tế nước ta đồng tình ủng hộ.
Kinh tế thị trường đã đóng góp một cách đáng kể vào phát triển kinh tế đất
nước, đóng góp cho giải quyết việc làm, và ngân sách của nhà nước, kích
thích mọi người suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, phát huy tiềm
lực về vốn, sức lao động ... Tuy nhiên, kinh tế thị trường còn nhiều mặt tiêu
cực trong vấn đề phát triển văn hố như kích thích khát vọng làm giàu, làm
bằng bất cứ giá nào lấy đồng tiền làm mục tiêu và thước đo cao nhất. Từ đó
dẫn đến đủ kiểu làm ăn bất chính với lối sống hưởng lạc, xa xỉ với thái độ

lạnh lùng, tàn nhẫn, giả dối trong ứng xử, những thứ đó đang làm xói mịn
truyền thống đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh và quan hệ có tình nghĩa


6

của dân tộc ta. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển: bn lậu, ma t, mại dâm,
mê tín dị đoan, nhiều hủ tục mới, cũ lan tràn ... giáo dục xuống cấp nghiêm
trọng, nhiều tiêu cực phát sinh trong cả dạy và học, gian dối, man trá, mua
bằng bán điểm... Những tệ nạn ấy đã và đang gây nên nhiều tổn hại cho nền
văn hố dân tộc nói chung, văn hố Tày nói riêng.
Với đường lối đổi mới, Đảng ta đang chủ động hội nhập kinh tế với thế
giới và khu vực, đất nước ta mở rộng cửa đón gió bốn phương, trong đó có
cả gió lành và gió độc. Với tâm lý sùng ngoại, nhiều người đã chạy theo lối
thực dụng và cá nhân cực đoan, ích kỷ, hưởng lạc trong thế giới tư bản. Họ
ngộ nhận những giá trị văn hoá, coi thường những giá trị dân tộc, xem
thường bản sắc văn hố dân tộc, tiếp nhận xơ bồ mọi thứ văn hố ngoại lai,
khơng phân biệt hay dở, tốt xấu.
Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ khoa học, công nghệ mà
một trong những thành quả nổi bật của nó là xuất hiện kỷ ngun thơng tin
với hàng nghìn vệ tinh hoạt động trên các quỹ đạo khác nhau, có khả năng
chuyền tải tức thời mọi thông tin tới bất kỳ địa điểm nào trên trái đất. Lợi
dụng thành tựu này các “đế quốc văn hoá” đang nhân danh con người và
nhân quyền để áp đặt cho các dân tộc những thị hiếu và lối sống theo quan
điểm của họ. Về văn hố, họ đã thơng qua cái gọi là văn hoá đại chúng, văn
hoá nghe nhìn của phương Tây nhằm làm cho các thế hệ trẻ ngày càng xa rời
cốt cách tâm hồn dân tộc, chạy theo các phản giá trị, đề từ tự diễn biến về
văn hố đi đến tự diễn biến về chính trị.
Tất cả những hiện tượng phản văn hố đó ngày càng ảnh hưởng tiêu
cực đến văn hoá dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hố của các dân tộc

thiểu số (như văn hoá Tày) và cũng từ đây, hơn lúc nào hết chúng ta phải
nhận diện hiện tượng đáng lo ngại ấy, từ đó phải có những biện pháp thiết
thực, hữu hiệu để giữ gìn phát huy văn hố dân tộc.


7

Nhận thức rõ tầm quan trọng và vị trí của văn hoá trong sự nghiệp đổi
mới, chấn hưng đất nước, hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khoá VIII) và gần đây nhất Hội nghị lần thứ X Ban chấp hành Trung
ương (khoá IX) đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc trong điều kiện đổi mới và mở cửa. Dưới góc
độ triết học vận dụng quan điểm phủ định biện chứng để nghiên cứu văn
hoá, làm sáng tỏ các điều kiện, nguồn gốc và văn hố dân tộc có ý nghĩa lý
luận và phương pháp luận quan trọng ở nước ta, đặc biệt là đối với văn hoá
Tày ở Cao Bằng, việc nghiên cứu này sẽ giúp cho cả nước nói chung và Cao
Bằng nói riêng thấy được những yếu tố tích cực, tiến bộ cần phát huy và lọc
bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ khơng cịn phù hợp trong việc kế thừa, phát
huy văn hố dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài dưới góc độ, văn hố dân tộc… chẳng hạn như:
- Các cơng trình của Vũ Thị Kiều Phương (2003): “Phủ định biện
chứng và vai trị của nó đối với sự phát triển” (Luận văn Thạc sĩ – Viện Triết
học), Phúc Khánh (1963), “Sự phát triển biện chứng từ thấp đến cao, quy
luật phủ định của phủ định”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. Đã phân tích khá
sâu quan điểm triết học biện chứng và vai trò của phủ định biện chứng đối
với sự phát triển, phủ định biện chứng được xem như là một phương thức tất
yếu của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới.
Các chuyên khảo về văn hoá của Phan Ngọc (1998) “Bản sắc văn hoá

Việt Nam”, Nhà xuất bản Thông tin. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996)
“Văn hoá đại cương và cơ ở văn hoá Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội. Đã làm rõ văn hoá và sự phát triển văn hoá, bản sắc văn hoá, sự


8

tiếp xúc giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá khác trong q trình hình thành
và phát triển của nó.
Tiếp cận về văn hố Tày các tác giả Hồng Quyết, Tuấn Dũng (1994)
“Phong tục tập quán người Tày ở Việt Bắc”, Nhà xuất bản Văn hố, Hồng
Quyết, Ma Bằng, Hồng Huy Phách, Cơng Lược, Vương Tồn (1993), Nhà
xuất bản Văn hố dân tộc, Hồng Tuấn Nam (2001), “Tang lễ cổ truyền của
dân tộc Tày”, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Bế Viết Đẳng (1992), Văn hoá
dân gian Cao Bằng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đã từ góc độ dân
tộc học nghiên cứu về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Tày nói
chung và dân tộc Tày Cao Bằng nói riêng thơng qua việc trình bày, mơ tả
dưới dạng văn hố vật chất, văn hoá tinh thần. Nhưng cho đến nay hầu như
chưa có cơng trình nào từ góc độ triết học để tiếp cận văn hoá Tày ở Cao
Bằng.
Như vậy, qua các cơng trình nêu trên, các tác giả, các học giả Việt Nam
đã đề cập và nghiên cứu đến phủ định biện chứng và vai trị của nó trong xã
hội, cũng như đã đề cập và nghiên cứu đến văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá
dân tộc, sự giao thoa văn hoá Việt Nam với các loại văn hoá khác trong quá
trình tiếp thu. Song cho đến nay ở Việt Nam dường như chưa có một chuyên
khảo nào đề cập đến vấn đề vận dụng quan điểm mác xít về phủ định biện
chứng để tiếp cận nghiên cứu văn hoá, cũng như tiếp cận để nghiên cứu văn
hoá Tày. Rõ ràng ở đây, việc vận dụng quan điểm mác xít về phủ định biện
chứng để đề cập, lý giải văn hố Tày cịn là vấn đề bỏ ngỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích, hình thành quan điểm đúng và hệ thống các kiến nghị
mang tính khả thi trong giữ gìn văn hố Tày, nhằm làm cho văn hố Tày
khơng ngừng phát triển.


9

3.2. Nhiệm vụ, để thực hiện được mục đích trên cần làm rõ các vấn đề
sau đây:
- Làm rõ nguyên tắc vận dụng quan điểm phủ định biện chứng trong
giữ gìn và phát huy văn hố Tày ở Cao Bằng.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm giữ gìn, phát huy văn hoá Tày ở Cao Bằng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, quan điểm của phủ
định biện chứng rất rộng, trong phạm vi đề tài chúng tơi chỉ xem xét những
đặc điểm, tính chất, ngun tắc chung của quá trình phủ định biện chứng và
trên cơ sở hiểu biết về bản chất của phủ định biện chứng, bước đầu vận dụng
để giải quyết một số nội dung trong văn hoá tinh thần của dân tộc Tày Cao
Bằng như: phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, ma chay, cưới xin ...
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận, luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý biện chứng
của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về văn hoá
và bản sắc văn hoá dân tộc.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu trong các cơng trình nghiên cứu về văn
hố và bản sắc văn hoá dân tộc ở Việt Nam trong thời gian qua
5.2. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch…
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp của luận văn, góp phần làm sáng tỏ việc vận dụng quan
điểm phủ định biện chứng trong giữ gìn, phát huy văn hố Tày.

6.2. Ý nghĩa của luận văn, luận văn có thể làm tài liệu cho cơng tác
nghiên cứu và giảng dạy ở các tỉnh, trường có nội dung giảng dạy liên quan
đến văn hoá Tày.


10

7. Kết cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu
tham khảo luận văn được chia làm 2 chương, 7 tiết.

B- NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG MÁC- XÍT VỚI VẤN ĐỀ
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC
1.1. Nội dung quan điểm phủ định biện chứng mác-xít–Những nguyên tắc
1.1.1. Nội dung quan điểm phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng trước hết là sự phủ định, nhưng không phải là tất
cả những sự phủ định mà chúng ta vẫn bắt gặp hàng ngày. Phủ định biện
chứng là sự tự phủ định diễn ra do những mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện
tượng quy định. Vì vậy khi các nhà triết học Hy Lạp cổ đại phát hiện ra và
trình bày dưới dạng rất sơ khai và mộc mạc một trong những quy luật biện
chứng của sự vận động và phát triển là quy luật mâu thuẫn thì cũng là lúc họ
đưa ra những tư tưởng rất sơ khai về phủ định biện chứng của sự phủ định.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại những phỏng đoán về mâu thuẫn và
quy luật mâu thuẫn – một trong những quy luật biện chứng của sự vận động,
biến đổi và phát triển, trong đó đã hàm chứa những phỏng đốn về phủ định
và biện chứng của sự phủ định. Ngay việc các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
chỉ xem phủ định như là khâu cuối cùng của quá trình mâu thuẫn và diễn ra
khi mặt đối lập này xoá bỏ, huỷ diệt mặt đối lập kia cũng đã gợi mở chiều



11

hướng cho các nhà triết học biện chứng sau này suy nghĩ về nguồn gốc xuất
hiện của phủ định.
Mặt khác các nhà triết học Hy Lạp cổ đại luôn nhận thức mâu thuẫn
trong mối liên hệ với sự sinh thành. Cuộc đấu tranh giữa các mặt trong mâu
thuẫn khiến cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi nhưng không phải là sự vật,
hiện tượng đó mất hồn tồn. Bởi vì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại luôn
luôn chú ý đến khởi nguyên và sự tồn tại của khởi nguyên trong cấu tạo và
trong qúa trình vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng. Mặc dù họ có
những quan điểm khác nhau về hình thức khởi nguyên nhưng lại có sự tương
đồng về các đặc tính khởi ngun, một trong số đó là tính khơng biến mất
hồn tồn của khởi nguyên trong suốt quá trình vận động và biến đổi của sự
vật, hiện tượng. Do đó, khi sự tự phủ định diễn ra thì sự mất đi của sự vật,
hiện tượng không đồng nghĩa với sự vật, hiện tượng đó đã bị xố bỏ hồn
tồn.
Song nhà triết học vẫn được xem là người đầu tiên trong lịch sử đã
đưa ra những tư tưởng rõ ràng về phủ định biện chứng là Hêghen. Hêghen
không những đã đưa ra những tư tưởng rõ ràng về phủ định biện chứng mà
còn vận dụng nhận thức đó vào thực hiện những mục đích triết học của ơng.
Tuy nhiên tư tưởng biện chứng của Hêghen cịn nhiều hạn chế do tính chất
duy tâm tư biện của triết học Hêghen nói chung. Những hạn chế đó, về sau
này, đã được khắc phục một cách xuất sắc trong “Chủ nghĩa duy vật hiện
đại” của C. Mác, Ph Ăngghen và V.I.Lê-nin.
Trong lịch sử triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là Hêghen, phạm trù
phủ định được hình thành từ những tư tưởng của ơng về mối liên hệ biện
chứng giữa “sự quy định khẳng định”, và “Sự quy định phủ định". Mối liên
hệ biện chứng này được xây dựng trên cơ sở xuất phát điểm của triết học
Hêghen là sự thống nhất (và cũng là sự đồng nhất). Sự thống nhất trong triết



12

học Hêghen không phải là một thể thống nhất chết. Với vai trị là “Căn cứ”
nó là một thể thống nhất sống” [19, tr.149].
“Một thể thống nhất sống” là một thể thống nhất hàm chứa mâu thuẫn
biện chứng giữa “Sự quy định khẳng định” và “Sự quy định phủ định” cùng
sự tự chuyển hoá của chúng. Sự chuyển hoá này khiến cho “thể thống nhất
sống” bị phá vỡ. Khi đó “sự quy định phủ định” tồn tại “một cách che giấu”
trong “sự quy định khẳng định sẽ chuyển sang sự “tồn tại của nó”, tức là sự
quy định phủ định” sẽ trở thành “một sự quy định khẳng định” mới trong
một thể thống nhất mới của quá trình “tư duy đang phản tư”.
Mối quan hệ biện chứng giữa “sự quy định khẳng định” và “sự quy
định phủ định” cũng là cơ chế hoạt động của hệ thống bộ ba (tam đoạn
thức). Hêghen trình bày phép biện chứng của sự phủ định qua cơ chế bộ ba ở
nhiều nơi trong hệ thống triết học của ông. Hệ thống bộ ba gồm chính đề,
phản đề và hợp đề, trong đó chính đề là “sự quy định khẳng định” còn phản
đề là “sự quy định phủ định” giữa những sự quy định này khơng có sự phân
biệt tuyệt đối, trong q trình tư duy phản tư, phản đề ln có khuynh hướng
phủ định chính đề – là cái khẳng định đầu tiên - để tự chuyển hố thành một
chính đề mới và hình thành nên một tương quan khẳng định – phủ định mới.
Đây là một quá trình liên tục, trong mối liên hệ biện chứng giữa chính đề và
phản đề.
Hợp đề với tính cách là sự thống nhất của chính đề và phản đề phải bao
chứa đồng thời trong nó sự tương đồng và sự khác biệt của chính đề và phản
đê. Bao chứa ở đây có nghĩa là hồ hợp, hợp nhất không phải là sự sắp đặt
như một tổng số. Vì vậy thể thống nhất mới sẽ có trình độ mới và cao hơn về
chất so với thể thống nhất cũ. Theo Hêghen, hệ thống bộ ba là một kết cấu
liên tục do hợp đề không phải là “một cái thứ ba yên tĩnh” [18, tr. 250].

Tư tưởng của Hêghen về mối quan hệ biện chứng chính đề – phản đề,
sự phủ định của phản đế với chính đề là một sự phủ định biện chứng. Chỉ sự


13

phủ định biện chứng mới có khả năng dẫn đến một “thể thống nhất sống” vì
chính đề khơng bị phản đề trong sự phủ định. Qua đó cho thấy tư tưởng của
ơng có tính cách mạng về biện chứng của sự phủ định và vai trị của nó trong
cách thức phát triển của khái niệm.Hêghen đã xây dựng nền móng cho khái
niệm của phủ định biện chứng. Song hạn chế của ông là ở chỗ chỉ quan tâm
đến sự phát triển tinh thần và cho rằng sự phát triển tinh thần tuyệt đối hay
sự tha hoá của tinh thần tuyệt đối sẽ quy định tất cả những sự phát triển còn
lại. Như vậy kể cả sự phủ định của phủ định Hêghen đã vạch ra cách thức,
khuynh hướng của sự vật, vận động, biến đổi, phát triển, chỉ ra mới liên hệ
lơgíc – lịch sử của sự phát triển, nhưng lại mang một “lớp vỏ thần bí” duy
tâm khách quan, bởi nó chỉ mơ tả sự vận động của tinh thần, của khái niệm.
Tuy hệ thống triết học của Hêghen là thần bí tư biện, trừu tượng, ơng
đã sử dụng phương pháp triết học có tính cách mạng của ơng để xây dựng
nên một hệ thống triết bảo thủ, nhưng khơng ai có thể phủ nhận được
Hêghen là một nhà biện chứng thiên tài, phủ định trong triết học biện
chứng của Hêghen khơng chỉ là phủ định có bảo tồn và giữ lại nguyên vẹn
những yếu tố chân lý trong cái bị phủ định mà còn là một sự lọc bỏ những
yếu tố khơng cịn giá trị, đồng thời cải tạo và nâng cao những yếu tố đã
được giữ lại.
Đúng như nhận định của C.Mác và Ph.Ăng ghen, chúng ta khơng nên
dừng lại ở bộ khung tồ nhà triết học (hay hệ thống triết học) của Hêghen để
chỉ thấy mặt hạn chế, bảo thủ, phản động mà phải đi sâu vào bên trong bộ
khung đó để có thể thấy được những đóng góp triết học to lớn của Hêghen.
Về vấn đề này, C.Mác viết như sau: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng

đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách khái qt và có ý thức những hình
thái vận động chung của phép hiện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng bị
lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt


14

nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí” [21, tr. 35]. Trong q trình
xây dựng chủ nghĩa duy vật hiện đại C.Mác – Ph. Ăng ghen đã thực hiện
nhiệm vụ triết học đó. Hai ơng coi việc “cải tạo” phép biện chứng duy tâm
khách quan của Hêghen, “dựng” nó lại và xây dựng một phép biện chứng mới
(Phép biện chứng duy vật) là nhiệm vụ triết học quan trọng của mình.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, các ơng đã kế thừa, tiếp thu
có phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đã tìm ra những quy định
cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử.
Nguồn gốc duy vật của các quy định và các phạm trù được C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ ra và khẳng định trong những luận điểm mang tính chất
nguyên lý của “chủ nghĩa duy vật hiện đại” như: “… hiển nhiên là những
quá trình tự nhiên và lịch sử … được phản ánh trong bộ não tư duy và tồn tại
trong đó”, do vậy người ta khơng thể đưa ra những quy luật biện chứng từ
bên ngoài vào giới tự nhiên mà phải “phát hiện ra chúng trong giới tự nhiên
và rút chúng ra từ trong giới tự nhiên” [21, tr. 25].
Theo những tư tưởng đó, phạm trù phủ định là sản phẩm của tư duy,
là kết quả nhận thức thế giới khách quan của con người. Nội dung của phạm
trù phủ định là sự phán ánh, là hình ảnh của sự phủ định diễn ra trong tự
nhiên và trong lịch sử. Không phải nội dung sự phủ định trong tư duy quy
định nội dung sự phủ định diễn ra một cách phổ biến, tất yếu và khách quan
trong tự nhiên và trong lịch sử. Trái lại nội dung lịch sử phủ định trong tự
nhiên và lịch sử sẽ quy định nội dung sự phủ định trong tư duy.

Về phạm trù phủ định trong triết học duy vật biện chứng, trước hết
chúng ta phải kể đến luận điểm sau đây của Ph.Ăng ghen “phủ định, trong
phép biện chứng, khơng phải chỉ có ý nghĩa giản đơn là nói: khơng, hoặc giả
là tun bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá huỷ sự vật ấy theo một
cách nào đó” [36, tr. 201]. Về một phương diện nhất định luận điểm trên là
một định nghĩa của triết học duy vật biện chứng với tư cách là một phạm trù


15

triết học. Ph.Ăng ghen đã định nghĩa phủ định “trong phép biện chứng” bằng
cách đưa ra nội dung của một loại phủ định khác đối với phủ định “trong
phép biện chứng”. Xét theo nội dung, đó chính là sự phủ định hồn tồn,
tuyệt đối một cách siêu hình. Đó là loại phủ định khơng căn cứ vào q trình
phát triển hiện thực của sự vật, hiện tượng mà chỉ là “một ý kiến từ ngồi áp
đặt vào” q trình đó [33, tr. 845], nên sự phụ định này khơng có khả năng
dẫn đến bất kỳ sự phát triển nào. Từ đó Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ những đặc
điểm của phủ định “trong phép biện chứng” hay là “sự phủ định trong đó có
sự phát triển”. Đó là loại phủ định căn cứ vào quá trình phát triển hiện thực
của sự vật, hiện tượng, cho nên đối với mỗi loại sự vật đều có phương thức
phủ định riêng biệt. Ph.Ăngghen nói về phương thức phủ định như sau:
“không những tôi phải phủ định, mà cịn phải xố bỏ sự phủ định ấy một lần
nữa. Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ
định thứ hai vẫn sẽ cịn hay có thể có được” [36, tr. 201].
Như vậy theo Ph.Ăng ghen, phương thức phủ định gồm hai bước là
phủ định và phủ định của phủ định đó. Trong đó, bước phủ định thứ hai (phủ
định của phủ định) diễn ra trên cơ sở kết quả của bước phủ định thứ nhất. Để
cho bước phủ định thứ hai có thể diễn ra và để cho sự vật, hiện tượng có thể
tiếp tục q trình vận động của nó thì bước phủ định thứ nhất khơng thể là
bước phủ định sạch trơn (phủ định hoàn toàn) mà phải là phủ định biện

chứng, tức là sự phủ định trên cơ sở kế thừa. Chính sự kế thừa này sẽ khiến
cho sự phủ định không dẫn đến sự diệt vong mà làm cho sự vật, hiện tượng
phát triển. Ph.Ăng ghen chia phủ định làm hai lại: “sự phủ định chân chính”
và “sự phủ định xấu, khơng có kết quả”, “sự phủ định xấu khơng có kết quả
chính là sự phủ định thuần tuý, chủ quan, cá nhân là một ý kiến từ ngồi áp
đặt vào q trình phát triển. Cịn sự phủ định chân chính là sự phủ định có
tính tất yếu và khách quan. Ph. Ăng ghen viết: “Sự phủ định chân chính –


16

phủ định tự nhiên, phủ định lịch sử và phủ định biện chứng, đúng là động
lực (xét về mặt hình thức) của mọi sự phát triển: sự phân ra thành những đối
lập, sự đấu tranh và giải quyết những mặt đối lập đó, đồng thời trên cơ sở
kinh nghiệm đã thu được, lại đi tới một điểm xuất phát ban đầu, nhưng ở
một trình độ cao hơn” [36, tr. 845].
Tư tưởng về phủ định biện chứng cũng là vấn đề mà V.I.Lênin rất
quan tâm. Vì nó liên quan đến những vấn đề của lý luận nhận thức chân lý,
biện chứng của quá trình nhận thức....Trong "Bút ký triết học", V.I.Lênin đã
phân biệt khá rõ phủ định siêu hình và phủ định biện chứng V.I.Lênin viết:
“Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ,
không phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng không phải sự
nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng – dĩ nhiên,
phép biện chứng bao hàm trong nhân tố phủ định và thậm trí với tính cách
và nhân tố quan trọng nhất của nó – khơng, mà là sự phủ định coi như là
vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái
khẳng định, tức là khơng có một sự do dự nào, khơng có một sự chiết trung
nào” [18, tr. 245].
Như vậy, đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là sự phủ định có
khẳng định chứ khơng phải là sự phủ định sạch trơn và không hàm chứa bất

kỳ một sự khẳng định nào như sự phủ định trong phép siêu hình. Mối liên hệ
biện chứng giữa phủ định và khẳng định đã làm nên mối liên hệ giữa các
giai đoạn phát triển. Đây là sự khác biệt căn bản của phủ định trong phép
biện chứng và phủ định trong phép siêu hình.
Phủ định biện chứng và phủ định của phủ định có mối liên hệ chặt chẽ
nhưng không đồng nhất. Phủ định biện chứng là yếu tố căn bản và cần thiết
cho q trình phủ định của phủ định . Cịn phủ định của phủ định là một quá
trình vận động bao gồm một số những phủ định biện chứng , V.I . Lênin đã
viết như sau: “sự lập lại ở giai đoạn cao, của một số đặc trưng, đặc tính ete


17

của giai đoạn thấp” và “sự quay trở lại dường như với cái cũ” [19, tr.
240].Vì sự “lặp lại” trong phủ định biện chứng sẽ làm nên mới liên hệ kế
thừa có phát triển giữa các giai đoạn phủ định của phủ định.
1.1.2. Những nguyên tắc phương pháp luận của phủ định biện chứng và
yêu cầu của chúng trong giữ gìn và phát huy giá trị văn hố dân tộc
Từ việc phân tích ở trên chúng tơi có thể rút ra các nguyên tắc của phủ
định biện chứng là :
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định là sự phủ định tạo tiền đề cho
sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ.
- Phủ định biện chứng là phủ định được thực hiện thơng qua giải quyết
mâu thuẫn. Vì ngun nhân của phủ định biện chứng là do những mâu thuẫn
nội tại của sự vật, hiện tượng quy định. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
bên trong sự vật đưa đến chuyển hoá lẫn nhau cái mới ra đời thay thế cái cũ.
Q trình đó diễn ra thường xun ngồi ý muốn của con người. Nó là yếu
tố tất yếu của sự phát triển.
- Phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính khách quan. Đó là sự
tự phủ định của sự vật và hiện tượng không phải do chủ quan của con người

quyết định, cũng không phải do thượng đế hay chúa điều khiển.
- Phủ định biện chứng là phủ định có tính kế thừa. Đó là kết quả của
việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, do đó phủ định biện chứng
khơng thủ tiêu hồn tồn cái cũ mà chỉ lọc bỏ những yếu tố lạc hậu ngăn cản
sự phát triển, giữ lại những yếu tố tích cực còn phù hợp của cái cũ để chuyển
sang cái mới. Như vậy giữa cái cũ và cái mới không tuyệt đối tách rời đối
lập nhau mà nối liền giai đoạn sau vơí giai đoạn trước của q trình phát
triển bằng cách bảo tồn những mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và
chuyển hố nó sang giai đoạn sau. Đây là thực chất của sự phát triển, là nội
dung cơ bản của phủ định biện chứng. Tính kế thừa thể hiện trong cả tự


18

nhiên, xã hội, tư duy. Chẳng hạn như sự tiến hố của các lồi vật, sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội, sự phát triển của văn hoá và các tư
tưởng triết học bao giờ cũng phải kế thừa những tinh hoa của cái cũ.
Trong thực tế, sự phát triển gồm có cả bước tiến lên lẫn thụt lùi, cả
tiến bộ lẫn thoái bộ, cả tiến hố lẫn thối hố. Sự phát triển cũng khơng phải
là một con đường thẳng tắp vì đơi khi có những bước quanh co, thụt lùi tạm
thời. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh sự ra đời của cái mới trên cơ sở cái
cũ, nhưng cái mới sẽ có trình độ phát triển cao hơn trình độ phát triển mà cái
cũ đạt được và quá trình cái mới phủ định cái cũ để khẳng định sự tồn tại
của nó khơng phải là q trình đơn giản và nhanh chóng. Sự phát triển thực
hiện của cái cũ, quá trình ra đời của cái mới, điều kiện khách quan và chủ
quan để cái mới ra đời thay thế cho cái cũ ...tất cả những điều đó sẽ quyết
định q trình tự phủ định cái cũ và khẳng định cái mới là quá trình lâu dài
hay mau chóng, phức tạp hay đơn giản.
Theo quan điểm của phủ định biện chứng sự tự phủ định là phủ định
có kế thừa nó khơng làm cho sự vật, hiện tượng cũ bị diệt vong hay biến mất

hoàn tồn. Nó là sự phủ định có giữ lại, có bảo tồn. Với sự kế thừa đó, sự vật
hiện tượng cũ khơng cịn ngun vẹn nữa. Đó là sự loại bỏ những yếu tố đã
trở nên lạc hậu, tiêu cực và khơng cịn phù hợp với sự tồn tại và phát triển
của sự vật, hiện tượng mới. Khi vận dụng quan điểm biện chứng mác - xít về
phủ định biện chứng về giữ gìn, xây dựng, phát huy văn hố dân tộc đòi hỏi
chúng ta phải biết phân biệt cái mới, cái hợp quy luật, nhưng đồng thời cũng
phải thấy được những cái “mới” không phải là kết qủa của phủ định biện
chứng mà nó được áp đặt từ ở đâu đó vào. Đồng thời phải chống lại, khắc
phục những thái độ phủ định sạch trơn, hoặc những tư tưởng bảo thủ khư
khư giữ lấy những cái cũ lỗi thời, kế thừa một cách nguyên xi, cản trở tới sự
phát triển văn hoá của đất nước cũng như của từng dân tộc. Vấn đề là ở chỗ


19

phải biết kế thừa có phê phán, có chọn lọc, những cái vốn là tinh hoa văn
hoá của nhân loại, sử dụng chúng như là tiền đề cho sự nảy sinh cái mới,
tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của văn hoá dân tộc.
1.2.Vận dụng nguyên tắc phủ định biện chứng trong giữ gìn và
phát huy văn hố dân tộc
1.2.1.Khái niệm văn hoá
Khái niệm văn hoá là khái niệm đa chiều và đa góc cạnh. Cho đến
nay người ta đã thống kê được hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hố.
Song các nhà văn hố đều có chung nhận định đó là văn hố bao gồm có văn
hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
Trong thế giới mọi sự vật, hiện tượng và quá trình được con người tìm
hiểu, nhận thức, tác động và ảnh hưởng trở lại con người điều đó có khía
cạnh văn hố của nó. Vì thế có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách tiếp cận văn
hoá, coi văn hoá là sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến cái lớn
nhất trên mọi lĩnh vực sinh tồn.

Văn hố khơng phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hoá là tổng thể nói
chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, là hiện
tượng xã hội vô cùng phong phú và phức tạp luôn mở ra phạm vi rộng lớn
cho sự nghiên cứu. Cho nên nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về văn hoá sẽ cho ta chìa khố khám phá thế giới văn hố đầy bí ẩn.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin thì văn hố chỉ gắn liền với
con người và xã hội loài người, nếu như hoạt động của con vật là hoạt động
bản năng thì hoạt động của con người là hoạt động tự giác, hoạt động nhằm
để hiểu biết, khám phá và sáng tạo. Con người vừa sáng tạo ra bản thân
mình vừa đồng thời sáng tạo ra thế giới văn hoá.
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đã vạch ra rõ
nguồn gốc của văn hoá gắn liền với sự sáng tạo và năng lực của con người,


20

và sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt nguồn từ lao động , lao động sáng tạo ra
con người và xã hội loài người. Nếu như loài vật chỉ kiếm sống bằng cách
lợi dụng các vật có sẵn trong tự nhiên và nhờ đó xác lập bản chất của chúng
thì ngược lại, qua lao động các quan hệ của con người được xác lập, biến đổi
kể cả quan hệ với tự nhiên. Cái làm nên bản chất con người, tạo nên sự khác
biệt giữa con người với bất kỳ giống, lồi nào của tự nhiên chính là “hoạt
động sống” của con người. Đó là hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất
ra bản thân con người với tư cách là một thực thể xã hội, thể hiện quan hệ
giữa con người với con người, con người với xã hội.
“Bản chất của con người không phải là những cái trừu tượng, cố hữu
của cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những mối quan hệ xã hội” [25, tr. 275].
Theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thoả mãn nhu cầu ăn
, mặc, ở…. mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức

sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong tồn bộ sản phẩm vật
chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình thực hiện lịch
sử – xã hội của mình. Như vậy văn hố được hình thành và phát triển trên cơ
sở hình thành và phát triển của chính con người, con người là tác giả sáng
tạo ra văn hoá và cũng là “kẻ” mang các giá trị văn hoá cho nên các giá trị
văn hoá có tính kế thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ thời đại qua thời
đại và có sự giao thoa ảnh hưởng giữa các dân tộc.
Khi bàn về văn hố, V.I.Lênin cho rằng trong xã hội có giai cấp, ln
tồn tại hai nền văn hố, nền văn hố của giai cấp thống trị và nền văn hoá
của nhân dân lao động. Ơng khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hố,
cuộc cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc
hậu, song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển mới làm cách
mạng văn hoá, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hoá


21

cách mạng, yếu tố cơ bản để xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin đã xác định
tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hố, khi ơng giải quyết mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong văn hố . Ơng viết “Văn hố vơ sản
khơng phải bỗng nhiên mà có, nó khơng phải do những người tự cho mình là
chun gia về văn hố vơ sản phát minh ra. Đó hồn tồn là điều ngu ngốc.
Văn hố phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số kiến thức mà lồi
người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn
địa chủ và xã hội của bọn quan liêu [19, tr. 361].
Ở đây V.I.Lênin đã hiểu văn hoá theo nghĩa rộng, là những giá trị
chung nhất, tồn tại và phát triển qua nhiều chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý
nghĩa. Vì vậy phải biết kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hoá truyền thống.
Như chúng ta đã biết, tính đến nay đã có tới hàng trăm định nghĩa
khác nhau về văn hoá. Trong khi trên thế giới còn bàn cãi rất nhiều về định

nghĩa văn hố thì ở nước ta từ năm 1942, chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
một định nghĩa về văn hố mang tính chất hệ thống: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những
công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố. Văn hố là tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [23,
tr. 431].
Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh xác định văn hoá là sự phát triển
tất yếu, mang tính xã hội cao là phương thức sống, hoạt động và không
ngừng nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo ra giá trị nhân văn là
nội dung cốt lõi của giá trị văn hoá.


22

Sau cách mạng tháng tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã phát triển các
“quan niệm của mình về văn hố”: văn hố phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải liên hệ mật thiết với chính trị, phải lấy hạnh phúc của đồng bào làm cơ
sở hoạt động, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải đi sâu vào tâm
lý quốc dân, văn hố phải có ý thức khoan dung và theo phương châm trồng
người "Văn hoá là sự thống nhất giữa dân tộc và hiện đại, phải hết sức coi
trọng truyền thống và ý thức giao lưu với văn hoá thế giới" [20, tr. 41–42].
Mấy thập kỷ qua, trước nguy cơ mơi trường văn hố bị phá vỡ, huỷ
loại trước thực tế thất bại của các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội do
không chú ý đến văn hoá, tháng 12- 1986 tổ chức văn hoá, giáo dục và khoa
học liên hợp quốc ( UNESCO) dưới sự bảo trợ của Hội đồng Liên hợp quốc
đã quyết định phát triển thập kỷ văn hoá thế giới. Theo UNESCO thì “Văn
hố được đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm… khắc

hoạ lên bản sắc của một quốc gia cộng đồng, gia đình, làng xóm, quốc gia,
xã hội… văn hố khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương, mà cả những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống tín ngưỡng…[48, tr. 47] (trích theo lời Trần Quốc Vượng).
Như vậy, chúng ta thấy có các di sản văn hố “hữu hình” như đền chùa,
miếu mạo, cung đình… và có các di sản văn hố “vơ hình” như phong tục,
tập qn, truyền thống, ngơn ngữ, quy trình công nghệ của các ngành nghề
truyền thống, lễ nghi dân gian…
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hố, khái niệm văn hoá nổi lên các đặc trưng cơ bản sau đây:
Văn hố được hình thành và phát triển trong mối quan hệ cải tạo tự
nhiên và đấu tranh xây dựng xã hội. Do đó bản chất văn hố là nhân văn,
chủ yếu xử lý mối quan hệ giữa con người với con người, con người là chủ


23

thể của hoạt động văn hố, do đó văn hóa phải do con người sáng tạo ra,
thuộc về con người, văn hoá là đặc trưng phân biệt con người với động vật;
văn hố được hình thành do ý thức của con người; nguồn gốc của sự tồn tại
và phát triển văn hoá là ở hoạt động sáng tạo của con người.
Văn hoá với bản chất là nhân văn, tức mang tính chung của con người,
của lồi người, nhưng lại mang bản sắc riêng của từng dân tộc và dấu ấn
riêng của từng giai cấp. “Sự hình thành và phát triển của quốc gia – dân tộc
chỉ xuất hiện khi xuất hiện hình thái kinh tế – xã hội, có sự phân chia giai
cấp. có những sự khác biệt về con người, về các dân tộc, có sự khác nhau về
địa lý, lãnh thổ là những điều kiện thiên nhiên trong đó con người sống, lao
động và đấu tranh. Có những sự khác nhau về lịch sử , về trình độ phát triển,
sinh ra từ các cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên và từ cuộc đấu
tranh giữa người với người, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và trong

nội bộ dân tộc và các quốc gia dân tộc. Từ đó hình thành nền văn hố riêng,
đậm đà bản sắc của từng dân tộc, cùng với những dấu ấn riêng giữa giai cấp
khác nhau đại diện cho các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, kế tiếp nhau đã
đến và đi trong lịch sử trường tồn của các dân tộc và lịch sử nhân loại” [5, tr.
11-12].
Xét dưới góc độ phản ánh văn hố cịn được thể hiện ở việc phát triển
văn hoá gắn với phát triển kinh tế. Khi kinh tế phát triển thì văn hóa cũng sẽ
có điều kiện để thúc đẩy các quá trình của xã hội, trong khi phát triển kinh tế
những yếu tố tác động đến văn hoá, thúc đẩy văn hố tiến bộ hơn.
Văn hố cịn được thể hiện trong sự giao lưu văn hoá giữa các dân
tộc, các quốc gia. Một nước muốn phát triển không thể không giao lưu với
các quốc gia khác, trong quá trình giao lưu sẽ đặt ra cho việc giữ gìn và phát
huy văn hố dân tộc. Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố có khuynh
hướng du nhập các giá trị văn hố, đồng hoá các hệ thống tiêu chuẩn, xoá bỏ
ranh giới dân tộc, coi trọng các giá trị công nghệ. Để ngăn chặn tình trạng


24

đó, văn hố phải thiết lập được hệ thống giá trị, nâng cao trình độ sáng tạo
văn hố. Hệ thống giá trị, trình dộ sáng tạo văn hố phải phản ánh được năng
lực sáng tạo của con người, là sản phẩm của con người có tư duy, trí thơng
minh… Đó còn là thể hiện thái độ của con người trước hiện thực mà tiêu
biểu nhất là thái độ trong lao động vì chính lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người.
1.2.2. Văn hố dân tộc
Dân tộc nào cũng có nền văn hố truyền thống, thể hiện được tâm
hồn, trí tuệ, bản lĩnh sáng tạo của dân tộc. Văn hoá chỉ tồn tại và phát triển
khi chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc dân tộc đã sáng tạo ra nó. Mỗi dân
tộc trong q trình tồn tại và phát triển đều lựa chọn thái độ, phương thức

sống và hoạt động để ứng phó với hồn cảnh, vừa tiếp thu, cải biến có chọn
lọc các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường tạo nên những nét độc
đáo riêng biệt của dân tộc, cái riêng ấy chính là văn hố dân tộc. Nó khơng
chỉ được biểu hiện ở bên ngoài, như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt
nghệ thuật, kiến trúc, đình chùa, miếu mạo, nét đặc trưng của các làn điệu
dân ca, ngôn từ, các tác phẩm văn học nghệ thuật mà còn được biểu hiện ở
cái bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy, chiều sâu tâm hồn, truyền thống
đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan.
Văn hoá dân tộc bao giờ cũng gắn với đặc trưng riêng của một đất
nước, một dân tộc: đó là những biểu hiện giá trị vật chất và tinh thần đặc
thù, sắc thái riêng biệt trong đời sống sinh hoạt của mỗi cộng đồng dân tộc
từ cách ăn mặc, đi lại… cho đến chiều sâu tâm hồn, cách tư duy và lối ứng
xử, qua đó chúng ta có thể phân biệt được nền văn hố của dân tộc này với
dân tộc khác. Như vậy có thể nói văn hố dân tộc là tổng thể những tính
chất, tính cách, đường nét, màu sắc văn hố biểu hiện ở một dân tộc trong
lịch sử tồn tại và phát triển của mình, giúp cho dân tộc đó giữ vững được


25

tính chất nhất qn trong q trình phát triển. Nó biểu hiện sức sống nội tại
mãnh liệt của một dân tộc và dân tộc đó có thể trường tồn, phát triển mãi
mãi với lịch sử nhân loại.
Văn hố, nói một cách ngắn gọn, là kết tinh những giá trị văn hoá của
dân tộc được lưu truyền trong lịch sử, trong đó các hệ giá trị văn hố riêng
nối tiếp nhau ra đời, thừa kế và phát triển. Vì vậy văn hoá là thẻ căn cước
của mỗi nền văn hoá dân tộc, là những đặc trưng quy định diện mạo của nền
văn hố đó. Văn hố tạo nên sự khác biệt giữa cộng đồng người, là tinh tuý,
là nội lực, sức mạnh của một dân tộc. Nói đến văn hố là nói đến nét đậm
đà, sâu sắc nhất và mang tính phát triển riêng. Văn hoá cần được bổ xung,

phát triển cho phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước. Văn hoá chỉ
thực sự sống động trở thành sức mạnh của dân tộc khi trong q trình vận
động nó vừa phát huy được những giá trị nội tại, vừa biết kế thừa, điều chỉnh
tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hố từ bên ngồi.
Văn hố có tính dân tộc vì nó được tạo ra, được lưu truyền trong cộng
đồng dân tộc với một sắc thaí thiên nhiên, điều kiện xã hội lịch sử riêng, qua
quá trình phát triển lâu dài, những đặc điểm dân tộc in dấu ấn vào các sáng
tạo văn hoá. Trải qua nhiều thử nghiệm, thách thức của thời gian dần dần
lắng đọng, hình thành nên văn hoá dân tộc và trên cơ sở đó làm nảy sinh và
hồn thiện ý thức dân tộc, tạo nên lực hút, quy tụ, gắn kết với các thành viên
cộng đồng, tạo ra thế đứng vững chắc trong q trình phát triển. Như vậy
văn hố dân tộc khơng tách rời hoạt động của dân tộc, chính hoạt động lâu
dài của dân tộc ấy mà trở thành dấu ấn riêng của dân tộc. Dấu ấn riêng được
thể hiện, được hình thành trong tư duy, trong lối sống, trong phong tục, tập
quán…. và trở thành tư tưởng, tình cảm của họ.


26

Do vậy, nói tới văn hố dân tộc phải nói tới truyền thống vì truyền
thống là bộ phận sâu sắc của văn hố và do đó khi nói tới văn hố dân tộc thì
thường là giữ gìn, kế thừa, phát triển truyền thống văn hoá dân tộc.
Truyền thống văn hoá, đạo đức tác động trực tiếp đến sự hình thành
nhân cách con người ngay từ thuở mới lọt lòng cho đến cả khi lớn lên.
Trong xã hội ta hiện nay vẫn có nhiều cách nhìn khác nhau về các giá trị
truyền thống. Có người đã qúa đề cao giá trị truyền thống và ngược lại có
người quá sùng bái cái hiện đại, coi thường truyền thống. Đúng là xã hội
ngày nay khác xa nhiều so với xã hội ngày xưa. Ngày xưa là xã hội thuần
nông lạc hậu, con người vào đời chủ yếu chỉ bằng cái cày, cái cuốc, hành vi
chủ yếu là tri thức kinh nghiệm và lặp lại. Ngày nay xã hội hiện đại đã phát

triển rất cao so với trước đây. Nhưng dù thế nào vẫn phải luôn nhớ rằng cái
hiện đại muốn phát triển tốt, có hiệu quả phải ln đặt trên nền móng truyền
thống.Nếu cứ giữ mãi truyền thống thì khơng phát triển được, cịn nếu chỉ có
hiện đại mà xa rời truyền thống thì khơng cịn là ta, ta đã đánh mất bản thân
mình và trở thành cái bóng của người khác.
Vì vậy trong sự kế thừa đòi hỏi phải biết chọn lọc và đào thải hợp quy
luật, phải gắn kế thừa với đổi mới và với phát triển. Cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói: quá khứ làm nên hiện tại và hiện tại cùng với quá khứ sẽ làm
nên tương lai với cái vốn giàu có nhất, quý báu nhất của dân tộc, của chế độ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ việc tiếp thu tinh hoa
của nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc
dân tộc, không được tự đánh mất mình, trở thành bóng mờ hay bản sao chép
của người khác.
Song, như hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm
(khoáVIII) đã xác định, bản sắc văn hoá dân tộc không được tách rời càng


×