Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc tại huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 56 trang )

MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
Phần 1 Phần mở đầu 4
Phần 2 Phần nội dung 7
Chương 1 Lý luận về đoàn TNCS Hồ Chí Minh với việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
7
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 7
a. Khái niệm về thanh niên, đoàn TNCS Hồ Chí Minh 7
b. Khái niệm về văn hoá, văn hoá dân tộc, bản sắc văn
hoá dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc
8
c. Vai trò của đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
16
1.2. Cơ sở lý luận của đoàn thanh niên trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
17
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề văn
hoá
17
b. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
18
c. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
20
d. Quan điểm của đoàn TNCS Hồ Chí Minh về văn hoá
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
27


1.3. Vai trò của đoàn thanh niên trong việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc hiện nay
28
Chương 2 Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc tại huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang
31
1. Điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện Chiêm
Hoá
31
1.1. Điều kiện kinh tế 32
1.2. Về văn hoá 32
1.3. Về xã hội 33
2. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc tại huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang
34
3. Thực trạng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc của đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
36
4. Nhận xét chung 39
4.1. Điểm mạnh 39
4.2. Điểm yếu 39
4.3. Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm 40
1
a. Nguyên nhân chủ yếu 40
b. Bài học kinh nghiệm 41
Chương 3 Các giải pháp kiến nghị nhằm giúp huyện đoàn
Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang giữ gìn phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc
43

1. Cơ sở xuất phát của các giải pháp 43
2. Giải pháp cụ thể 43
3. Khuyến nghị 45
Phần 3 Kết luận 48
Danh mục tài liệu tham khảo 50
Một số hình ảnh về văn hoá bản sắc văn hoá dân tộc
trên địa bàn huyện Chiêm Hoá
51
2
LỜI CẢM ƠN
Thời gian học tập tại Học viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam trôi qua
thật nhanh thấm thoát đã hết 2 năm học, giờ đây sắp phải xa trường xa thầy
cô xa bạn bè thân yêu, nơi đã chôn dấu biết bao kỷ niệm. Em không thể nào
quên những năm tháng được thầy cô tận tình dẫn dắt, dạy bảo trang bị cho
chúng em những kiến thức vô cùng quý báu để chúng em bước vào đời.
Qua cuốn chuyên đề tốt nghiệp này cho các em được bày tỏ lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới ban giám độc Học viện, phòng quản lý đào tạo
- tổ chức, các khoa, phòng, thầy giáo chủ nhiệm, các thầy cô giáo bộ môn.
Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Nguyễn Đồng Linh người đã
giúp đỡ trong thời gian em thực hiện chuyên đề này.
Đồng thời qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban tuyên
giáo huyện uỷ, đảng uỷ, UBND huyện Chiêm Hoá, trung tâm văn hoá thể
thao huyện Chiêm Hoá. Và đặc biệt là BTV huyện đoàn Chiêm Hoá đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành tốt quá trình thực tập và cuốn
chuyên đề này.
Do thời gian không nhiều tài liệu thu thập được ở địa phương còn hạn
chế nên khi thực hiện chuyên đề này em không tránh khỏi những sai sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến, cũng như sự giúp đỡ của quý thầy cô
giáo để em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!

3
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chuyên đề.
1.1. Lý do về mặt lý luận.
Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã quy định: Thanh nhiên là những
người có độ tuổI từ 15 đến 30 tuổi, đó là những năm tháng sung sức nhất, đẹp
nhất của đời người, là một biểu tượng thể hiện sự trẻ trung, năng động, sáng
tạo. Đó là nguồn động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đảng ta
luôn đánh giá đúng vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, từ xa xưa các thế hệ cha ông ta đã biết huy động sức mạnh văn hoá
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đã góp phần
vào thành quả đấu tranh dựng nước và giữ nước của các dân tộc sống trên đất
nước Việt Nam.
Nền văn hoá Việt Nam ra đời từ rất sớm cùng với lịch sử mâý nghìn
năm của dân tộc Việt Nam, nền văn hoá lúa nước với nhiều nét độc đáo được
truyền từ đời này sang đời khác. Đó là nền văn hoá quần chúng lao động hình
thành từ lao động sản xuất, từ sinh hoạt cộng đồng, từ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong những thập niên gần đây, quá trình công nghiệp hoá và cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người lên một tầm cao mới, từ xã
hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công nghiệp và nền văn
minh tri thức, trình độ dân trí nâng lên rõ rệt. Từ đó nhiệm vụ quan trọng
được đặt ra trong thời kỳ đổi mới là: “Kế thừa và phát huy các giá trị tinh
thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá và nghệ thuật của dân tộc, bảo
tồn và tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh của đất
nước”.
Nghị quyết Đại hội Đảng X của Đảng ta đã xác định: “Văn hoá là nền
tảng tinh thần trong xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển

kinh tế văn hoá”.
Nghị quyết trung ương 5 (khoá VIII) của Ban chấp hành Trung ương
Đảng xác định: “Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xá hội
chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, kiên định, trình độ, trí
tuệ và tính tự giác cao vai trò gương mẫu”.
Vì vậy việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề sống
còn, là trách nhiệm nặng nề, một việc hết sức ý nghĩa đối với việc phát triển
của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân, trong đó lực lượng Đoàn thanh nhiên
cộng sản Hồ Chí Minh là nòng cốt.
1.2. Lý do về mặt thực tiễn
Trong thời ký mở cửa hội nhập quốc tế, với chủ trương của Đảng và
Nhà nước ta là: Muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền dân tộc của nhau, không can thiệp nộ bộ của nhau đã mở ra cho Việt
Nam một luồng sinh khí mới nhưng cũng chính ví thế mà đã có một luồng
văn hoá ngoại lai xâm nhập vào từng ngôi nhà, từng góc phố, từng con người
Việt Nam. Vì thế mà việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn
đề bức xúc và cần thiết. Nghị quyết Trung ương V khoá VIII Đảng cộng sản
Việt Nam đặt ra mục tiêu: “Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá
dân tộc”.
Ngày nay trước những biến đổi to lớn của xã hội, nền văn hoá dân tộc
đang bị coi nhẹ, nhất là đối với giới trẻ. Xu hướng ăn, nói, mặc, đi đứng đều
bắt chước văn hoá phương Tây, đồng thời là sự quan tâm chưa thoả đáng của
cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức Đoàn. Vì thế việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc là việc làm cần thiết, đòi hỏi các cấp, các ngành

có trách nhiệm tìm tòi, phát huy giữ gìn nét đặc sắc của nền văn hoá dân tộc
Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển. Biến những thành tựu
nhân loại đồng thời chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của xu hướng toàn
cầu hoá - mặt trái của quá trình “hiện đại hoá”.
Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không phải của
riêng ai mà là của chung tất cả mọi người. Nước ta nói chung và ở huyện
Chiêm Hoá, Tuyên Quang nói riêng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc trong thanh niên là một vấn đề cấp bách, quan trọng phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn góp phần giáo dục thế hệ trẻ hình thành con người mới xã
hội chủ nghĩa, sẵn sàng phát huy tối đa vai trò của người chủ vận mệnh đất
nước.
Chưa bao giờ những vấn đề văn hoá lại được quan tâm như hiện nay cả
về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó được quyết định bởi vai trò của
văn hoá đổi mới sự phát triển của một quốc gia. Trước tình hình đó đòi hỏi
phải có hướng tiếp cận phù hợp để tìm hiểu bản chất của văn hoá. Mặc dù có
không ít những công trình nghiên cứu, nhiều phong trào nói về vấn đề này,
tuy nhiên còn mang tính vĩ mô chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết vào từng đối
tượng. Vì vậy thông qua chuyên đề này tôi muốn bày tỏ một số ý kiến của
mình góp phần nhỏ bé cho sự phát triển của công tác đoàn và phong trào
thanh thiếu niên nhằm giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài: “Đoàn thanh niên huyện
Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
dân tộc” làm chuyên đề tốt nghiệp chương trình trung cấp lý luận chính trị và
nghiệp vụ đoàn - hội - đội tại Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề.
Nâng cao đẩy mạnh hơn nữa vai trò của đoàn thanh niên để tìm ra các

giải pháp, kiến nghị cần thiết nhằm phát huy vai trò của đoàn thanh niên
huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang với việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của chuyên đề.
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về đoàn TNCS Hồ Chí Minh với việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
3. 2. Nghiên cứu thực trạng vai trò hoạt động của đoàn thanh niên về việc giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc tại huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
3.3. Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đoàn
TNCS Hồ Chí Minh huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
4. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề.
Các giải pháp kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đoàn TNCS
Hồ Chí Minh huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang với việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc
5. Khách thể
5.1. Độ ngũ cán bộ làm công tác quản lý văn hoá tại địa phương
5.2. Các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương ảnh hưởng đến việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về không gian
Trên địa bàn huyện Chiêm Hoá
6.2. Về thời gian
Từ năm 2004 đến nay
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Tài liệu, sách báo, nghị quyết,
phương pháp lịch sử, phương pháp chuyên gia.
7.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, phỏng vấn, toạ đàm, hội nghị.
7.3. Nhóm phương pháp toán học: Xử lý các số liệu thu được
8. Dự kiến cấu trúc của chuyên đề.

Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề được kế
cấu thành ba chương
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYÊN ĐỀ.
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài.
a. Khái niệm về Thanh niên, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
* Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã quy định: Thanh niên là người
có độ tuổi từ 15 đến 30 tuổi, đó là những năm tháng sung sức nhất đẹp nhất
của đời người, là một biểu tượng thể hiện sự trẻ trung, năng động sáng tạo.
Đó là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Như đã biết thanh niên chiếm tới 30% trong tổng số dân cư ở Việt
Nam. Điều này khẳng định một cách chắc chắn rằng thanh niên là lực lượng
chính trong mọi hoạt động của Quốc gia.
Về thể chất thì thanh niên là giai đoạn đang phát triển và có nhiều sức
sống, về tính cách thì lứa tuổi này là giai đoạn có nhiều ước mơ hoài bảo và
năng lực sáng tạo đầy cảm quang lãng mạn, về mặt thế hệ thanh niên là một
mắt xích quan trọng trong lô gíc phát triển về mặt sinh học lẫn xã hội. Thanh
niên hiện nay có nhiều yếu tố ưu so với thế hệ trước. Xét về mặt văn hóa
thanh niên có các thành tố đặc biệt: Phong cách sống, diện mạo, đạo đức,
phẩm hạnh cá nhân… đều không giống thế hệ trước. nhu cầu các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tình yêu tình bạn khác với thế hệ trung
niên, người già… Xét về thế hệ, thanh niên và các thế hệ đi trước có sự khác
nhau về tuổi tác, tâm lý, hoài bảo, nhu cầu, sở thích và các nhiệm vụ lịch sử.
Đã từng có một nhận định: “Thế hệ trẻ có vai trò lịch sử quan trọng”,
điều này được minh chứng bằng các sự kiện lịch sử trọng đại, vẽ vang của
dân tộc trong mọi thời đại. Trong giữ nước thanh niên là lực lượng chính cầm

súng đánh giặc bảo vệ chủ quyền của đất nước, bảo vệ dân tộc. Trong dựng
nước thanh niên vẫn là xung kích đi đầu trong phát triển kinh tế, ổn định
chính trị xã hội.
Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, nước nhà thịnh hay
suy, yếu hay mạnh đều phụ thuộc phần lớn vào thanh niên, thanh niên là
nguồn hạnh phúc của mổi gia đình và của xã hội. Đa số thanh niên đang tích
cực hiện thực hóa các nghị quyết của Đảng xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, vì một đất nước Việt Nam giàu mạnh dân chủ văn
minh. Thế hệ thanh niên là lực lượng chủ chốt xung phong tình nguyện đi đầu
sáng tạo, thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
nước. Nhân cách của những con người XHCN trong thanh niên, góp phần
thành công chiến lược kinh tế xã hội, trở thành mục tiêu, là động lực cho sự
phát triển chung của quốc gia, Đảng ta luôn đánh giá đúng vai trò trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đào tạo bồi dưỡng và phát huy thanh niên
là trách của Đảng, Nhà nước, gia đình và toàn xã hội. Nhà nước có chính sách
tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí phát triển thể lực, trí
tuệ, bồi dưỡng về đạo đức truyền thống dân tộc, ý thức công dân, ý chí vươn
lên phấn đấu vươn lên vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân
chủ văn minh.
Thanh niên không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp đều được tôn trọng và bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ. Thanh niên luôn tiên phong trong việc giữ gìn và
phát huy những giá trị chuẩn mực của dân tộc, bởi những điều kiện đổi mới
và hội nhập, thanh niên có nhiều điều kiện tiếp cận với các nền văn hóa nhân
loại, có điều kiện để cống hiến và trưởng thành hơn.
* Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị-xã hội của Thanh niên

Việt Nam do Đảng CS Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo và rèn
luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến phấn đấu vì mục tiêu lý
tưởng của đảng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Nghĩa là Đoàn do Đảng CS
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, mà Đảng là Đảng chính trị lãnh
đạo duy nhất đất nước, Đoàn là một thành viên trong hệ thống chính trị Việt
Nam, Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến phấn đấu vì mục tiêu của
Đảng, là đội quân xung kích đi đầu thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước, đối với xã hôi Đoàn là một tổ chức rộng rãi của thanh niên (trong tất cả
các thành phần, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo), Đoàn tham gia công tác xã hội và
các hoạt động xã hội: nhân đạo, từ thiện, phòng chống ma túy mại dâm, các tệ
nạn xã hội khác.
Đoàn gồm những thanh niên gương mẫu trong học tập và công tác, có
đạo đức lối sống, phong cách sống XHCN, lấy lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hành động
của mình, xung kích đi đầu trong mọi hoạt động. Cùng phấn đấu cho một nền
độc lập dân tộc về chủ quyền lãnh thổ, độc lập về kinh tế chính trị.
b. Khái niệm về văn hoá, văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
* Khái niệm về văn hóa:
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Thuật ngữ “văn hoá” đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử ngôn ngữ của
loài người, cả ở phương Đông và phương Tây.
Phương Đông: Trung Quốc là nước có nền văn hoá phát triển rất sớm,
rực rỡ và vĩ đại trở thành một trong bốn chiếc nôi văn hoá: Ai Cập cổ đại, La
mã, Trung Hoa, Ấn Độ. Từ văn hoá xuất hiện từ đời chu Trung Quốc cách
đây 3000 năm.

Ở phương tây: Thuật ngữ “văn hoá” xuất hiện từ thời cổ Hy Lạp cách
đây 2000 năm
Từ thế kỷ V đến XIV nhân loại trì trệ trong đêm trường Trung cổ. Đến
thời kỳ phục hưng xuất hiện rất nhiều nhà văn hoá khổng lồ về văn học nghệ
thuật: Sexpia, lêona, đaxnhi Khai thác nhân văn, họ coi “văn hoá” là năng lực
để con người sáng tạo ra những giá trị.
Vào thế kỷ XIX khoa học văn hoá ra đời. Taylor là người đầu tiên đã
đưa ra định nghĩa “văn hoá” trong tác phẩm văn hoá 1871: “Văn hoá là một
tổng thể phức tạp bao gồm tri thức, tín ngưỡng nghệ thuật, đạo đức, pháp luật,
phong tục và cả những năng lực của thói quen mà con người đạt được trong
xã hội”, “Văn hoá là tất cả những gì do con người sáng tạo ra một cách có ý
thức và vì sự tiến bộ của nhân loại”.
Ngày nay thuật ngữ “văn hoá” còn đang được bổ sung và hoàn thiện,
do lịch loài người luôn vận động phát triển. Theo các nhà nghiên cứu văn hoá
thì hiện nay có khoảng 400 thậm trí hàng ngàn định nghĩa văn hoá theo các
góc độ khác nhau.
- Dưới đây là một số định nghĩa về văn hoá:
Theo ABRaHam Moles(người pháp): “Văn hoá - đó là chiều hạn trí tuệ
môi trường lãnh đạo do con người xây dựng nên trong tiến trình đời sống xã
hội của mình”.
Vũ Khiêu (Việt Nam) : “Văn hoá thể hiện trình độ vun trồng của con
người trong xã hội. Văn hoá là trạng thái của con người ngày càng tách ra
khỏi giới động vật, ngày càng xoá bỏ đi những đặc tính của động vật để khẳng
định những đặc tính của con người, trong đó giáo dục là cốt lõi và văn hoá là
đặc trưng cơ bản của con người. Văn hoá là tiêu chí quan trọng đánh giá sự
phát triển của xã hội.
Pederico Mayor Tổng giám đốc tổ chức văn hoá giáo dục liên hợp quốc
(UNNESXCO) 1998: “Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát,
sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ cũng
Đặng Văn Thịnh Lớp:

K42C
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
như đang diễn ra trong hiện tại, trải qua bao thế kỷ nó đã cấu thành nên một
hệ thống các giá trị truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm về văn hoá từ trước cách
mạng tháng 8: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống, loài người mới sáng
tạo ra và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật Những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó là văn hoá”.
Năm 1982 tại Mexico, hội nghị thế giới về các chính sách về văn hoá
đã thông qua định nghĩa nổi tiếng của khái niệm văn hoá, kết hợp văn hoá với
sự phát triển một cách chặt chẽ: “Văn hoá là một tổng thể những tính chất
tinh thần, vật chất, trí tuệ và cảm xúc đặc biệt đặc trưng cho xã hội hay một
nhóm xã hội. Văn hoá bao gồm không chỉ nghệ thuật và văn học, mà bao gồm
cả phương thức sống các quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, các
truyền thống và tín ngưỡng”.
Đến đây ta có thể định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá là hệ thống
hữu cơ các giá trị tinh thần và vật chất do con người sáng tạo, giao lưu, tích
luỹ và phát triển thông qua hoạt động cải biến và ứng xử với thiên nhiên, xã
hội và bản thân mình, được biểu hiện dưới các hình thức ngày càng sâu sắc,
đa dạng, để tôn vinh và phát triển toàn diện con người, nhằm làm cho thế giớ
có tính người ”.
*Khái niệm về văn hóa dân tộc:
Hồ Chí Minh – Nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, một vị lãnh
tụ thiên tài một nhà cách mạng lỗ lạc tài tình người anh hùng giải phóng văn
hóa vĩ đại của nhân loại. Suốt cuộc đời làm cách mạng từ khi ra đi tìm đường
cứu nước cho đến khi còn một lời chúc cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên

tiến đậm đà bản sắc dân tộc, các tư tưởng văn hoá của Hồ Chí Minh là bộ
phận hợp thành triết lý phát triển xã hội của người. Các tư tưởng đó đã từng
phát huy trong tiến trình nhân dân ta xây dựng xã hội mới nền văn hoá mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng kiến thiết xã hội phải coi trọng ngang nhau cả
về kinh tế, xã hội và văn hóa không có nghĩa rằng mổi bộ phận đó của xã hội
đó tách rời nhau càng không có nghĩa không có cái nào là cơ sở là cơ bản, và
Người cho rằng “Văn hóa là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của
xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát
triển”.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Năm điều lớn xây dựng nền văn hóa
dân tộc, xây dựng tâm lý, tính cách tinh thần tự lực tự cường, xây dựng luôn
lý, biết hy sinh mình làm lợi ích cho quần chúng, xây dựng chính trị dân
quyền xây dựng kinh tế”. Đặt các vấn đề xã hội lên hàng đầu trong tiến trình
xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm toàn
diện với vai trò sáng tạo lịch sử, sáng tạo văn hóa của nhân dân lao động.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân là người sáng tạo ra toàn bộ lịch sử xã
hội, trong đó có các giá trị văn hóa. Muốn phát triển văn hóa phải quan tâm
đến một động lực to lớn của lịch sử và vai trò sáng tạo của quần chúng nhân
dân. Theo Người: “Trong bầu trời này không có gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới này không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu khó vạn
lần dân liệu cũng xong” vì thế trong tư tưởng của mình, dù giải quyết bất cứ
vấn đề gì chủ tịch Hồ Chí Mính cũng gắn với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
của nhân dân. Văn hóa là trình độ của con người, của các quan hệ xã hội, con
người là trung tâm của nền văn hóa. Trong tiến trình xây dựng xã hội mới
người đã đề ra chiến lược: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm

năm trồng người”, trong tư tưởng văn hóa của mình Hồ Chí Minh coi con
người là vốn quý nhất của xã hội và người cho rằng: “muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Văn hóa là sản phẩm của quá trình hoạt động tích cực của con người,
cải tạo tự nhiên, xây dựng xã hội. Văn hóa gắn với đất và nước, Hồ Chí Minh
cho rằng: “văn hóa gắn trực tiếp với quá trình cách mạng của nhân dân ta”.
Trong tiến trình đó văn hóa giữ vai trò nền tảng trong đời sống tinh thần của
xã hội, văn hóa gắn liền toàn diện với đời sống dân tộc. Văn hóa Việt Nam có
một sức sống nội sinh to lớn. Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một
động lực to lớn của dân tộc”.
* Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc.
Từ khi xuất hiện loài người, rồi trải qua hàng ngàn năm đấu tranh, hàng
ngàn năm trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Nhưng trên bước đường
phát triển của xã hội loài người văn hoá không phải là giá trị bất biến, đông
cứng vì xét đến cùng, cơ sở kinh tế là nhân tố quyết định. Sự biến đổi được
đẩy mạnh hơn do giao lưu văn hoá, ban đầu giữ các tộc người gần gũi nhau,
cùng trình độ, về sau giữa các tộc người hay dân tộc có trình độ khác nhau.
Sự biến đổi của bản sắc văn hoá dân tộc chịu sự chi phối của nhiều nhân tố.
Những nét lạc hậu, lỗi thời sẽ mất đi được thay thế bằng những gì được khẳng
định là hiện đại, là văn minh. Phong cách ăn mặc, để tóc, làm nhà lâu nay
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
vẫn được khẳng định là bản sắc dân tộc cần phải giữ gìn, nay bị bỏ để thay
bằng một phong cách mới, gọn gàng hơn theo lối Tây Âu. Nhưng, người Việt
Nam vẫn là người Việt Nam và người ta đã nhìn bản sắc dân tộc ở khía cạnh
khác, trong quan hệ giữa người với người, trong gia đình làng xóm, trong
nghệ thuật sân khấu, trong ý thức cộng đồng
Trở về với lịch sử xa xưa của chúng ta để hiểu hơn về bản sắc dân tộc

và mối quan hệ giữa dân tộc và giao lưu văn hoá. Dân tộc ta, có một lịch sử
lâu đời. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong sự trưởng thành, củng cố và giữ bản
sắc văn hoá dân tộc. Không những thế, trong lịch sử lâu đời đó có cả một lịch
sử đấu tranh kiên cường hàng ngàn năm để không bị sát nhập vào thế giới
Hán hoá cũng như có hàng chục cuộc kháng chiến anh hùng bảo vệ nền độc
lập. Trong sự nghiệp đấu tranh kiên cường đó, vấn đề đặt ra đối với con người
Việt Nam không chỉ là độc lập dân tộc mà còn là bảo vệ bản sắc văn hoá của
mình.
Trong bản sắc văn hoá dân tộc trước hết phải thấy được tinh thần yêu
nước, hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc. Đây là tài sản có giá trị
nhất trong hành trang của người thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc xuống tàu
ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Bằng tình yêu
nước chân chính, nhiều dân tộc trên thế giới như Liên Xô, Trung Quốc, Triều
Tiên đã chiến thắng kẻ thù xâm lược. Với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
cho rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước”.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, cũng
như tinh thần yêu nước của nhân dân các dân tộc trên thế giới.
Cũng như Mác - Ănghen - Lê Nin, Hồ Chí Minh là một nhà Mác-xít
Lê-Nin chân chính. Những con người vĩ đại đó là những nhà cách mạng chân
chính nên họ nhất quán nhấn mạnh và đề cao văn hoá dân tộc.
Di chúc Hồ Chí Minh là kết tinh của bản sắc văn hoá Việt Nam đậm đà
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” - điểm hội tụ, hạt ngọc lung linh toả sáng của tinh thần yêu nước
được Hồ Chí Minh đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Hồ Chí
Minh từng nói rằng chiến thắng đế quốc, đó là sự chiến thắng của văn minh
chống tàn bạo. Văn minh ở đây đồng nghĩa với văn hoá mà hạt nhân là chủ

nghĩa yêu nước.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Trong cuộc đấu tranh anh dũng và gian khổ, nhân dân và chiến sĩ đã
xây dựng đời sống văn hoá tinh thần để cổ vũ lòng hăng hái xả thân chiến đấu
vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Cùng với lòng yêu nước là lòng nhân ái, nhân nghĩa. “Thương người
như thể thương thân” vốn là một khía cạnh đặc sắc trong bản sắc văn hoá dân
tộc, là một giá trị văn hoá tinh thần lớn của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: Nhân dân ta từ lâu đời đã
sống với nhau có tình nghĩa. Và tình nghĩa ấy được Người cùng với Đảng
cộng sản Việt Nam nâng lên “Cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào
đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”.
Để chiến thắng thiên tai dịch hoạ, con người Việt Nam từ rất sớm đã có
một tình cảm tụ nhiên, đó là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một
nước phải thương nhau cùng”.
“Người trong một nước”đó là tình cảm cộng đồng của trực quan hệ gia
đình ( nhà )- làng - nước. Hệ thống cơ cấu này là trụ cột làm nên sức sống
của dân tộc, là một sợi dây chuyền trong đó kết tinh những giá tri tư tưởng và
tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng không có gì phá vỡ nổi.
Ngay từ năm 1947, khi khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói đến “Đời sống mới”của một người, một
nhà, một làng và khắp nước, trong trường học, công sở, xưởng máy. Xoay
quanh hạt nhân của đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính bên cạnh đó là
“thuần phong mĩ tục” của dân tộc ta. Nhiều lần Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến
việc “Cần xây dựng và phát triển thuần phong mĩ tục” tức là một trong những
giá trị văn hoá tinh thần truyền thống, biểu hiện mặt nổi của bản sắc văn hoá
dân tộc. Tuy nhiên, trân trọng giữ gìn thuần phong mĩ tục bao giờ cũng đi liền

với phê phán bài trừ đồi phong, bại tục. Chúng ta cần trân trọng các giá trị của
người xưa để lại như: Tương thân, tương ái, tận chung với nước, tận hiếu với
dân Những cái xấu cái phiền phức cần xoá bỏ như là: tính lười biếng, tham
lam, chủ nghĩa cá nhân, tục cúng cơm, cưới hỏi quá xa xỉ
Một nét riêng mà thế giới nhận ra ở Việt Nam đó là truyền thống đấu
tranh bất khuất của dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc và góp phần tích cực
cho nền hoà bình thế giới. Sử sách Việt Nam đã ghi nhận những gương mặt
tiêu biểu cho sự đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Quang Trung, các bậc hiền tài thi sĩ, đã giày công vun đắp lên nền
văn hoá dân tộc. Chúng ta càng tự hào và vô cùng biết ơn Bác Hồ kính yêu vị
anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hoá lớn của thời đại, người cộng sản mẫu
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
mực, người chiến sĩ quốc tế trong sáng thuỷ chung, tấm gương sáng về người,
về lòng yêu nước thương dân, về tư tưởng, trí tuệ, nhân cách, lối sống cho các
thế hệ Việt Nam.
Những giá trị văn hoá mà cha ông đã để lại cho chúng ta thật to lớn,
chúng ta phải khai thác những giá trị ấy phục vụ cho công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, ấm no, tự do
và hạnh phúc.
* Khái niệm về giũ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Việt
Nam.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hoá Việt
Nam hình thành trên nền văn hoá Nam - Á và Đông Nam Á (lớp văn hoá thứ
nhất) trải qua nhiều thế kỷ nó đang phát triển trong sự giao lưu mật thiết với
văn hoá khu vực, trước hết là lớp văn hoá Trung Hoa (lớp văn hoá thứ hai).
Từ vài thế kỷ trở lại đây nó đang chuyển đổi dữ dội nhờ sự giao lưu càng chặt
chẽ với nền văn hoá Phương Tây (lớp văn hoá thứ ba). Nhưng du trải qua ba

lần lột xác mạnh mẽ như thế, văn hoá Việt Nam vẫn mang trong mình những
nét đăc sắc văn hoá riêng.
Sống trong một nước nông nghiệp, nhỏ, lạc hậu kéo rài, dù vậy các
dân tộc ở nước ta vân có thể sáng tạo ra văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và
văn hoá tinh thần từ trình độ thấp, đơn giản thô sơ tiến lên trình độ cao hơn,
phức tạp hơn, đa rạng hơn, có hiệu quả cao hơn.
Nhưng trình độ lạc hậu của nền nông nghiệp nhỏ, trong đó bên nghề lúa
nước ở vùng thấp, vùng trung du, vùng đồng bằng còn có nghề lúa, nương
lúa, trồng hoa màu , với kĩ thuật thô sơ, bị kìm hãm bởi chế độ phong kiến
cho nên xã hội nước ta chậm phát triển.
Trong các di sản văn hoá, chủ yếu sống tiềm tàng trong nhân dân, ít có
công trình lớn để lại.
Nền văn hoá Việt Nam vừa là tiếng còi xung trận, vừa gìn giữ các giá
trị truyền thống. Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt từ năm 1945 -
1975 mặc dù nhân dân ta phải liên tiếp, Đảng, nhà nước ta do chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu đã đề ra chính sách “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá là
kháng chiến”. Các lực lượng văn hoá, văn nghệ đều phải tham gia cứu nước.
Trong cuộc đấu tranh anh dũng và gian khổ nhân dân và chiến sĩ đã xây
dựng đời sống văn hoá tinh thần để cổ vũ lòng hăng hái xả thân chiến đấu vì
độc lập tự do.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Tiêu chuẩn của nền văn hoá không phải là ở quy mô to lớn (tất nhiên có
được công trình đồ sộ từ người xưa để lại, thì càng là niềm tự hào lớn).
Một nền văn hoá thật sự trở thành những giá trị tinh thần ở bài học về
phẩm chất con người ở chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau.
Nền văn hoá nhiều dân tộc của Việt Nam như vườn hoa nhiều hương
sắc, 54 dân tộc cùng chung sống trong một Tổ quốc, chung một lí tưởng độc

lập tự do và XHCN, chung một Đảng lãnh đạo, chung một chế độ quản lí của
chính quyền nhà nước XHCN nhưng mỗi dân tộc vẫn được hiến pháp nhà
nước bảo đảm quyền bình đẳng quyền bảo vệ bản sắc các giá trị văn hóa lưu
truyền được dùng tiếng nói chữ viết riêng
Sự phát triển không đều về kinh tế xã hội là một trong những nguyên
nhân chính của tình trạng chênh lệch nhau về học vấn, về số lượng trí thức và
công nhân vẫn có thể phát huy các giá trị truyền thống, có thể sáng tạo ra đời
sống văn hoá phù hợp với hoàn cảnh của mình.
Mối quan hệ giao lưu văn hóa trong cả nước càng ngày càng được mở
rộng từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng lên miền núi và các dân tộc được tạo
những điều kiện để tiếp xúc với nhau, hiểu nhau trao đổi với nhau, bổ sung
cho nhau.
Tóm lại: Nhận thức đúng về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam chúng
ta mới có thể hiểu, coi trọng. Từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp bảo
vệ, tôn tạo, kế thừa và phát huy đối với nền văn hoá Việt Nam.
* Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Trong đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, Đảng ta xác định nền
văn hóa mới Việt Nam có ba tính chất: Dân tộc, khoa học và đại chúng. Đồng
thời chỉ rõ: Đó là nền văn hoá có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ
về nội dung. Đến Đại hội III năm 1960, đó là nền văn hoá với nội dung
XHCN và tính chất dân tộc. Từ Đại hội VII năm 1991 đến nay Đảng ta đề
xướng: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá tiên tiến: Là nền văn hoá yêu nước tiến bộ. Yêu nước là
nấc thang giá trị cao nhất của văn hoá Việt Nam. Và đây là chủ nghĩa yêu
nước chân chính, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Sôvanh nước lớn hoặc chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc
tế chân chính của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa yêu nứơc là một hệ thống những quan niệm, lý luận về địa vị
và sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ về sự đoàn
Đặng Văn Thịnh Lớp:

K42C
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
kết gắn bó và cố kết cộng đồng hướng vào dân và lấy dân làm gốc, về vai trò
của nhân dân trong đó lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Ngày nay, chúng ta cần phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần kế thừa và phát triển nội dung chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu phát triển mới
của đất nước, của dân tộc. Vì vậy lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với lý
tưởng XHCN, và đó chính là nội dung cốt lõi của nền văn hóa yêu nước.
Nền văn hoá tiến bộ: Trước hết là nền văn hoá yêu nước (như đã nói ở
trên). Đó là nền văn hoá chứa đựng những giá trị bền vững và những tinh hoa
văn hoá dân tộc, trong đó những truyền thống tốt đẹp của dân tộc hoà quyện
là một với tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Nền văn hoá tiến bộ là một bộ phận văn hoá thúc đẩy lịch sử phát triển
với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường. Hệ tư tưởng đó là chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá tôn trọng con người, vì con người,
nâng con người đúng lên vị trí người sáng tạo, người chủ lịch sử. Con người ở
đây trước hết là người lao động. Do đó, nó mang tính nhân văn sâu sắc.
Nền văn hoá tiến bộ là nền văn hoá có khả năng tạo ra được con người
phát triển toàn diện, đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp trên đất nước ta,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tính chất tiến bộ của một nền văn hoá bao gồm tính chất tiến bộ của
chế độ xã hội - đó là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hoá tiến bộ bao hàm cả nghĩa hiện đại trong những hình thức
biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.
Tóm lại: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chi Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự

phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài
hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ
về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong phương tiện
chuyền tải nội dung’’.
c. Vai trò của đoàn thanh niên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc hiện nay.
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định vai trò làm chủ và tiềm năng
to lớn của thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
chủ nghĩa. Thanh niên là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khỏe, có
trình độ học vấn, có khả năng thích ứng nhanh với sự phát triển của các
ngành khoa học tiên tiến trên thế giới. Tổ chức đoàn hiện nay có vai trò
rất quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
đặc biệt là trong đông đảo đoàn viên - đối tượng tập hợp và thu hút chính
của tổ chức đoàn. Điều đó có nghĩa tổ chức đoàn có ảnh hưởng rất lớn
trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thanh niên
Việt Nam.
Bản sắc văn hóa dân tộc rất quan trọng trong quá trình phát triền,
nói đến bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến những cái riêng, những nét
văn hóa riêng của mỗi dân tộc, chỉ có những nét riêng đó con người mới
nhận ra được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc riêng của đất nước mình. Nếu bản sắc văn hóa dân tộc không
được đoàn viên thanh niên tiếp nhận thì việc giữ gìn và phát huy nó sẽ
gặp không ít khó khăn vì thanh niên là lực lượng chính trị xã hội nên tầm
ảnh hưởng rất lớn đến đường lối phát triển của đất nước. Vì vậy vai trò
của đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh về tập hợp và thu hút đoàn
viên thanh niên vào các hoạt động văn hóa là nhiệm vụ quan trọng.

Trong bối cảnh thế giới hiện nay chúng ta thực hiện giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có nghĩa là bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê
Nin và giữ vững định hướng chủ nghĩa xã hội mà toàn đảng toàn dân
đang xây dựng. Như vậy thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau có
trách nhiệm nặng nề nhưng đầy vinh dự khi được Đảng và Bác Hồ giao
phó. Đoàn thanh niên phải là lực lượng đi đầu trong việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, điều này khẳng định vị trí vai trò quan
trọng trong đoàn thanh niên và càng ngày càng thấy đúng đắn trong tầm
vĩ mô của Đảng, Bác Hồ.
Vì vậy với thanh niên Việt Nam hiện nay đó là cả một trọng trách
nặng nề mà toàn Đảng toàn dân giao phó để thành công trên mặt trận
giao phó để thành công trên mặt trận văn hóa, của công cuộc xây dựng
nước Việt Nam hưng thịnh.
1.2. Cơ sở lý luận của đoàn thanh niên trong việc giữ gìn phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc.
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
17
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin là thế giới quan, và phương pháp luận khoa
học, nó cung cấp cho con người một công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới;
nó chi ra quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin, văn hoá có vị trí độc lập tương đối so với kinh
tế. C.Mác khẳng định: “Phương thức sản xuất tinh thần; tức là cơ sở kinh tế
không tác động trực tiếp mà tức khắc tới văn hoá, không phải có nền kinh tế
cao thì văn hoá cao và ngược lại”. Tuy vậy để có một nền văn hoá phát triển
ổn định thì kinh tế phải bắt rễ vào văn hoá.
Trên cơ sở phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, văn hoá có
khả năng biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh phục vụ cho quá trình

phát triển. Văn hoá phát sinh mặt tích cực và làm hạn chế mặt tiêu cực của
những yếu tố khách quan, của những biểu hiện bên trong và bên ngoài, đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thì kinh tế phát triển hài hoà, nền chính
trị xã hội ổn định.
Như vậy: Phương thức sản xuất vật chất và phương thức sản xuất tinh
thần có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng hỗ trợ lẫn nhau, tồn tại song
song với nhau, trong phát triển kinh tế luôn có văn hoá và kinh tế cũng luôn là
điều kiện về vật chất cũng như tinh thần giữa mức sống cao vào lối sống đẹp,
vừa an toàn, vừa bền vững, không phải chỉ có ý nghĩa trước mắt, tạm thời cho
một số người, một thế hệ mà có ý nghĩa lâu dài cho cả xã hội và cho mai sau.
Đất nước Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một nền
văn hoá riêng, những nét đặc trưng riêng của cả một dân tộc, và tất nhiên
những gì tốt đẹp ta luôn giữ gìn và phát huy vì Angghen đã khẳng định: “Cái
hợp lý là cái tồn tại” và C.Mác cũng cho rằng: “Cái tồn tại là cái hợp lý” từ đó
ta sẽ biến nó thành động lực cho sự phát triển nhưng do giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc khác mà đất nước đó đã vững bước đi lên.
b. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà cách mạng lỗi lạc, người
anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân ta, nhà văn hoá kiệt xuất của nhân
loại, là danh nhân văn hoá thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình từ khi ra đi tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Trong thời kỳ
phát triển mạnh mẽ như hiện nay những di sản văn hoá vô giá mà người để lại
vẫn còn nguyên giá trị nó là tài sản quý báu giúp nhân dân ta tiếp tục xây
dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận dự trên cơ sở của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lấy quan điểm toàn
diện làm trung tâm nhằm giải quyết những quy luật, những vấn đề đặt ra trong
tiến trình cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự trên những nguyên
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, hình thành trong tư duy lý luận của
mình những phương thức nhìn nhận, đánh giá và lãnh đạo nhân dân ta bỏ chế
độ cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với quá trình phát triển của cách mạng
việt nam, sự tiến bộ của nhân loại.
Ngoài ra, chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh “Trong cuộc kiến thiết
nước nhà có 4 vấn đề phải coi trọng như nhau: chính trị - kinh tế - văn hoá -
xã hội”. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi trọng 4 vấn đề trên phải ngang nhau trong
quá trình xây dựng xã hội mới có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
tiến trình phát triển của xã hội, có những vấn đề nảy sinh cấp bách, chúng ta
cần phải giải quyết, song quyết không để duy nhất hoá, chỉ tập chung giải
quyết các vấn đề trước mắt mà không nghĩ đến các mối liên hệ phổ biến, đến
sự phát triển lâu bền. Quan điểm về sự phát triển toàn diện của chủ tịch Hồ
Chí Minh nó có tính cục bộ trong quá trình nhân dân ta xây dựng xã hội mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng: “Văn hoá là kiến trúc thượng
tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết, văn hoá mới kiến thiết
được và đủ điều kiện để phát triển được”. Rõ ràng chủ tịch Hồ Chí Minh
không những đồng nhất kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá mà còn coi tính chất
quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển của văn hoá. Theo Hồ Chí
Minh , các quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng quy định cơ cấu xã hội và cơ
cấu kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra văn hoá muốn phát triển được thì nhất
thiết phải gắn với lao động, mọi quá trình vận động của văn hoá đều bắt
nguồn từ lao động, phương thức lao động. Sự phát triển của phương thức lao
động, quan hệ sản xuất nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền văn hoá.
Vì vậy, muốn nền văn hoá ngày càng phát triển thì chúng ta phải quan tâm
đến các quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó, muốn xây dựng nền văn hoá mới
trước hết phải quan tâm đến xây dựng xã hội, các mối quan hệ xã hội, tâm lý

và đạo đức và các vấn đề lợi ích. Phải quan tâm toàn diện của sự sáng tạo lịch
sử, sáng tạo của nhân dân lao động trong lĩnh vực văn hoá. Vì nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử trong đó có giá trị văn hoá. Muốn phát triển văn hoá
phải quan tâm đến động lực to lớn của lịch sử và vai trò sáng tạo của quần
chúng nhân dân. Với sự định hướng phát triển theo con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội thì chúng ta cũng phải có những con người xã hội vừa có đức
vừa có tài, nói tóm lại ở xã hội nào thì phải có con người ở xã hội đó mới là
một xã hội văn hoá phát triển.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
19
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Bác còn cho rằng, nền văn hoá nước ta muốn phát triển được thì phải
phát triển theo định hướng lãnh đạo của Đảng. Nhất thiết phải xây dựng
những con người có đạo đức cách mạng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiên
phong trong công cuộc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền
văn hoá luôn phải gắn với lợi ích của đất nước. Người cho rằng văn hoá phải
gắn trực tiếp với quá trình cách mạng của nhân dân ta. Trong tiến trình đó,
văn hoá giữ vai trò nền tảng trong đời sống tinh thần của xã hội, văn hoá gắn
liền toàn diện với đời sống dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói trong hội nghị văn hoá toàn quốc: “Văn
hoá có liên lạc với chính trị rất mật thiết, phải làm thế nào cho văn hoá vào
sâu trong tâm lý của quốc dân. Nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được tham
nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do
làm gốc. Văn hoá phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự
do. Đồng thời, văn hoá phải là thế nào cho quốc dân cho tinh thần vì nước,
quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”, “Với văn hoá phải làm thế
nào cho mỗi người dânViệt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông, đàn bà, ai cũng
hiểu cái nhiệm vụ của mình, biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được
hưởng”. “Số phận của ta nằm trong tay ta. Văn hoá phải soi đường cho quốc

dân đi”.
Khi trở thành Chủ tịch nước, Người luôn luôn quan tâm đến việc xây
dựng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Theo Hồ chí Minh, Tính
dân tộc của văn hoá thống nhất ở 4 mối quan hệ: Con người và tự nhiên; Dân
tộc và hiện đại; Dân tộc và tộc người; Dân tộc và quốc tế. Việc giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc chính là động lực cho sự phát triển. Các tư tưởng văn hoá
của người nó luôn có giá trị tiềm ẩn và lâu dài, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của văn hoá Việt nam, nền văn hoá tiên tiến mạng đậm bản sắc dân
tộc.
c. Quan điểm của Đảng về văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc.
* Vai trò của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng.
Văn hoá Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước, của cộng đồng dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam. Đồng thời là kết quả của sự giao lưu quốc tế, tiếp thu
tinh hoa của nhiêù nước trên thế giới, không ngừng hoàn thiện mình, văn hoá
Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh Việt Nam, góp phần
làm dạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.Với cái nhìn toàn diện về sự vận
động của lịch sử và những nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng Mặt trận tư tưởng và văn hoá trong sự
hợp đồng tác chiến với các mặt trận khác : kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao và sự vận động của xã hội. Đảng ta động viên nhân dân vừa chiến đấu
vừa xây dựng, kết hợp chính trị, quân sự với kinh tế và văn hoá. Chủ tịch Hồ
Chí Minh kêu gọi nhân dân ta đồng thời “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm”.
Cuộc cách mạng tháng 8 thành công là một cuộc cách mạng đã đánh đổ

chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm và chế độ thực dân thống trị gần 1
thế kỷ. Cách mạng tháng 8 thành công đã phê phán triệt để những gì lạc hậu
và hủ bại còn di hại trong tư tưởng văn hoá và đời sống lạc hậu của nhân dân.
Văn hoá Việt Nam có truyền thống từ lâu đời, gắn liền với những chiến
công lừng lẫy trong cuộc đấu tranh chống xâm lược hàng ngàn năm và truyền
thống ấy đã được phát huy, được nâng lên một tầm cao mới trong thời đại Hồ
Chí Minh. Bên cạnh việc tiếp thu những giá trị truyền thống của dân tộc, nhân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới đã
góp phần vào việc đánh thắng những tên đế quốc lớn, giữ vững nền độc lập
dân tộc, đứng vững trước các biến động to lớn của lịch sử, đổi mới thắng lợi,
đổi mới mà không đổi màu, tiếp tục đưa đất nước phát triển theo định hướng
XHCN.
Có thể nói trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, văn hoá đóng vai trò rất quan trọng:
Nhờ có chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy đến tận đỉnh cao
mà dân tộc Việt Nam có thể chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và
chủ nghĩa thực dân mới là đế quốc Mỹ, đi tiên phong trào lưu giải phóng dân
tộc của thời đại.
Văn hoá vừa là điểm xuất phát, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ cách mạng Việt Nam. Chúng ta đã tiến hành đồng thời 3 cuộc cách
mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách khoa học kỹ thuật, và cách mạng tư
tưởng văn hoá hướng từ4 mục tiêu: Chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá
mới và con người mới XHCN.
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng, những yếu tố đặc sắc sau đây của văn hoá cách mạng được thể hiện rực
rỡ nhất: ý chí Việt Nam, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, cốt cách, tâm hồn, trí
tuệ của con người Việt Nam.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C

21
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
* Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá.
Quan điểm của Đảng là sự thể hiện tập trung đường lối văn hoá của
Đảng, là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các hoạt động văn hoá ở nước ta. Nó vừa
giúp cho hoạt động văn hoá đi đúng phương hướng chiến lược vừa giúp giải
quyết tốt vấn đề cụ thể đặt ra trong đời sống.
Ngay từ năm 1943, khi chưa có chính quyền, dưới ánh sáng của cương
lĩnh chính trị năm 1930, Đảng ta đã xây dựng đề cương văn hoá Việt Nam với
phương châm “dân tộc, khoa học và đại chúng”.Ba nguyên tắc cơ bản ấy của
nền văn hoá mới đã được khẳng định trong hiến pháp năm 1992 của nước ta
là nền văn hoá đặc trưng dân tộc - hiện đại - nhân văn. Đó là định hướng của
nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc mà ngày nay chúng ta đang phấn đấu
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Cốt lõi của
nền văn hoá cách mạng Việt Nam trước sau vẫn là chủ nghĩa nhân văn Mác-
xít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghị quyết các đại hội Đảng đều có phần
về văn hoá: Đại hội IV và V xác định cách mạng tư tưởng và văn hoá là một
trong ba cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Cương lĩnh chính trị năm 1991 và
nghị quyết đại hội VI và VII đến đại hội IX, X của Đảng đều xác định văn
hoá trong thời kỳ đổi mới: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội”; “xây dựng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngày nay, văn hoá có vị trí và vai trò to lớn. Điều đó được khẳng định
trong 5 quan điểm cơ bản của Đảng về văn hoá:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội, là nhân tố quyết định tạo ra sự giàu
có của xã hội, do đó nó cũng là tiền đề để phát triển văn hoá. Song đến lượt
mình văn hoá lại là động lực của phát triển kinh tế. Bởi văn hoá bắt nguồn từ
yêú tố nguồn lực của con người. Con người là chủ thể, là linh hồn của sự sáng

tạo, là nhân tố hàng đầu của văn hoá, với phẩm chất đạo đức, tài năng, trí tuệ
của mình, con người làm nên tất cả, làm kỹ thuật, làm chủ khoa học, công
nghệ khai thác tài nguyên tạo ra sự giàu có về vật chất và tinh thần của xã
hội, cho nên văn hoá tác động sâu sắc, găn bó chặt chẽ và là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Việc chăm lo, phát triển văn hoá là đặc biệt cần thiết nó củng cố nền
tảng tinh thần xã hội, tạo điều kiện cho việc xây dựng thành công mục tiêu
của Đảng là vì xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Các yếu tố văn hoá luôn
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
22
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
phải gắn kết với nhau, hoạt động luôn phải dựa trên các phương tiện hoạt
động của xã hội như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, pháp luật Chỉ có như
vậy đất nước mới phát triển.
- Nền văn hoá chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc.
Tính chất tiên tiến gắn kết với bản sắc dân tộc là đặc trưng bản chất của
nền văn hoá Việt Nam. Nói tới tiên tiến chính là lý tưởng tiến bộ của những
con người có tấm lòng yêu nước là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Sống vì mục tiêu tất cả vì con người, vì sự phát triển xã hội.
Nói đến dân tộc: văn hoá gắn với một dân tộc, có gốc rễ từ dân tộc và
là diện mạo của dân tộc. Biểu hiện tập trung diện mạo lại chính bản sắc dân
tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ
quốc, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù bản
sắc văn hoá dân tộc còn biểu hiện trong các hìmh thức mang tính dân tộc độc
đáo.

Như vậy, nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm trong
lòng nó các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và
phát triển; dân tộc và quốc tế, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Việc bảo vệ giữ gìn bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng giao lưu
quốc tế, phải biết tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá
các dân tộc khác.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là đất nước gồm 54 dân tộc anh em, các dân tộc Việt Nam đã
gắn bó với nhau vào vận mệnh chung của đất nước, cố kết lao động, đấu tranh
chống thiên tai, dịch hoạ, dựng nước và giữ nước, làm nên lịch sử chung của
dân tộc, xây dựng nền văn hoá chung.
Các dân tộc anh em đã trải qua bao nhiêu thử thách đấu tranh giải
phóng khỏi ách áp bức nô lệ hàng ngàn thế kỷ, cuộc đấu tranh gần nhất của
dân tộc Việt Nam đó là đánh bại tên đế quốc Mỹ hùng mạnh. Sau chiếc thắng
oanh liệt chống Mỹ cứu nước, tổ quốc thông nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội, sự thống nhất về chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng kinh tế phát triển
càng làm tăng thêm tính thống nhất về văn hoá. Hiện nay, tính thống nhất đó
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
23
Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
biểu hiện tập trung ở các dân tộc trong cộng đồng dân tộc nước ta nhất trí,
đồng lòng phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội theo
mục tiêu của Đảng đề ra.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân đo Đảng
lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, không phải chỉ với ý nhĩa toàn dân
tham gia sáng tạo văn hoá, làm nghĩa vụ văn hoá, mà còn có ý nghĩa toàn dân,

trước hết là nhân dân lao động được hưởng thụ đẩy đủ nhất những thành tựu
văn hoá, mọi tài sản văn hoá đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân.
Mọi tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đoàn kết
toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, đội ngũ trí thức gắn bó với nhân
dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.
Đội ngũ trí thức chính là lực lượng không thể thiếu trong sự nghiệp giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Việc bảo tồn và giữ gìn các di sản văn hoá
của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là lực
lượng tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng về bảo vệ và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
- Văn hoá là một mặt trận: xây dựng và phát triển là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận
trọng.
Xây dựng con người tiên tiến phát triển toàn diện, xây dựng môi trường
văn hoá lành mạnh, phong phú, chăm lo vun đắp vốn văn hóa nước ta ngày
càng giàu có.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo
nên những giá trị văn hoá mới XHCN, làm cho những giá trị ấy sâu thấm vào
cuộc sống toàn bộ xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến
bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi
nhiều thời gian. Trong công cuộc đó “xây” đi với “chống”, lấy “xây” làm
chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quý báu của
dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá trên thế giới, sáng tạo, vun đắp nên
những giá trị mới phải kiên trì đấu tranh bài trừ các thủ tục lạc hậu, thói hư tật
xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù lợi
dụng vào văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ”.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
24

Chuyên đề tốt nghiệp Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
* Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thanh niên hiện nay.
Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm - uỷ viên bộ chính trị, bí thư trung ương
Đảng, trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương và rất nhiều đồng chí lãnh đạo
cao cấp của Đảng, nhà nước tại hội nghị khoa học - thực tiễn: “Văn hoá với
thanh niên và thanh niên với văn hoá” tổ chức tại Hà Nội đều đã nhận định:
Công tác văn hoá cho thanh niên là mối quan tâm của toàn xã hội bởi vì hiện
nay đời sống văn hoá tinh thần đã xuất hiện một vấn đề mới với những dấu
hiệu mới chưa từng xảy ra so với các thế hệ tiền bối. Đó là từ trong lòng cuộc
sống đang có sự đan xen nhiều quan hệ khác nhau về văn hoá trong thanh
niên hiện nay, Thứ hai là trong xã hội bắt đầu hình thành một thị trường hàng
hoá cho thanh niên. Cả một thị trường thanh niên đồ sộ, ồn ào với đặc điểm
chủ yếu là hàng ngoại, chi phối mạnh mẽ văn hoá tiêu dùng trong thanh niên,
thế hệ trẻ, tạo ra một thế giới riêng, sức hút riêng và một nền cai trị riêng.
Tiềm ẩn nguy cơ về một lối sống hưởng thụ, tiêu xài, sùng ngoại trong bộ
phận không nhỏ của giới trẻ. Thứ ba là sự thành đạt rất sớm trong xã hội.
Điều đó cũng nói nên rằng thanh niên có cơ hội lớn để khẳng định mình và
cống hiến cho xã hội, cho đất nước. Nhưng góc khuất của nó là sự bi quan,
thoái chí nếu họ không thành đạt. Thứ tư là thanh niên hiện nay đang là đối
tượng trung tâm của chiếc lược “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” của
các thế lực thù địch. Và cuối cùng là phải làm sao gắn kết được ba nhân tố lớn
trong xã hội hiện đại đó là gắn kết “nhân tố dân tộc, nhân tố quốc tế và nhân
tố XHCN”. Ba nhân tố này làm ra bộ mặt văn hoá quan trọng của thời đại Hồ
Chí Minh chính là niềm tự hào của dân tộc, vì Người đã kết hợp được dân tộc
với thời đại và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy xây dựng đời sống văn hoá của thanh
niên vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
Vì CNH, HĐH đất nước, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cần được
quan tâm mấy điểm sau:
Tạo nhiều cơ hội lựa chọn văn hoá cho thanh niên, đi đôi với định

hướng hết sức nghiêm túc. Đảng, nhà nước luôn tạo cơ hội cho thanh niên có
sự lựa chọn về văn hoá ở mức cao nhất, đầy đủ nhất nhưng có sự định hướng.
Nghĩa là làm như thế nào để tạo môi trường văn hoá phong phú, tránh khuynh
hướng thị trường, lai căng, vọng ngoại. Hướng thanh niên tới những giá trị cổ
điển, những bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Nghị quyết Trung Ương V của Đảng về giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đưa thanh niên vào các hoạt
động liên quan đến đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Đặng Văn Thịnh Lớp:
K42C
25

×