Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự. Cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.05 KB, 11 trang )

Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

A. MỞ BÀI
Trách nhiệm bồi thường của nhà nước không phải phát sinh trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội mà trách nhiệm đó chỉ giới hạn trong một số lĩnh vực
nhất định, cụ thể là trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, hoạt động tố
tụng bao gồm tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính và trong lĩnh
vực thi hành án. Bài viết sau đây sẽ đề cập đến trách nhiệm bồi thường của nhà
nước trong hoạt động tố tụng hình sự, cụ thể là vấn đề “Xác định phạm vi trách
nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự. Cho ví dụ minh
họa”.
B. NỘI DUNG
I- Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt
động tố tụng hình sự.
1, Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là trách nhiệm pháp lý
trong đó Nhà nước bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ gây ra trong một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước chỉ phát sinh trong một số lĩnh vực nhất định, cụ thể là
trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, trong hoạt động tố tụng dân sự, tố
tụng hình sự, tố tụng hành chính và trong hoạt động thi hành án.
Trong đó thì trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự có thể hiểu là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi người thi
hành công vụ có hành vi gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức trong quá trình thực
hiện các hoạt động tố tụng hình sự.
2, Đặc điểm
Ở nước ta, quyền được bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra được ghi nhận tại điều 72 Hiến pháp
1992. Đồng thời, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về vấn đề này tại các điều luật như điều 29 và điều 30 của Bộ luật tố
tụng hình sự 2003. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố


tụng hình sự có một số đặc điểm sau:
+ Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự được
đặt ra mà không cần xét đến yếu tố hành vi trái pháp luật và yếu tố lỗi của người
tiến hành hoạt động tố tụng hình sự: Đây là đặc điểm khác biệt để chúng ta có

Nông Văn Chấn - 351842

Page 1


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

thể dễ dàng nhận biết trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự so với trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản
lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và hoạt động thi hành án. có sự
khác nhau trong vấn đề trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự so với trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản
lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và hoạt động thi hành án là do
trong hoạt động tố tụng hình sự, để ngăn chặn các hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm cũng như đảm bảo không làm oan người vô tội thì các cơ quan, những
người tiến hành hoạt động tố tụng hình sự có quyền áp dụng các biện pháp trong
tố tụng hình sự để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này
lại dễ xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân và nhiều khi thậm chí còn ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền được sống, quyền tự do và đến tính mạng của
một cá nhân. Vì vậy, Nhà nước sẽ bồi thường đối với những thiệt hại do người
tiến hành tố tụng hình sự gây ra nếu những thiệt hại đó thuộc phạm vi trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước mà không cần xét đến hành vi trái pháp luật và
yếu tố có lỗi của người tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự.
+ Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự chỉ
được phát sinh khi có các quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng hình

sự đã gây ra thiệt hại cho người bị thiệt hại.
+ Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm bồi thường đối với các quyết định, hành vi của
những người tiến hành hoạt động tố tụng hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được quy định tại Điều 26 của Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước 2009.
+ Các quyết định, hành vi của những người tiến hành tố tụng hình sự chỉ phát
sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khi được xác định trong bản án,
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự. Tức là cá nhân, tổ chức muốn Nhà nước bồi thường thiệt hại cho mình do
người tiến hành hoạt động tố tụng hình sự gây ra thì phải có bản án, quyết định
của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị
thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường.
II- Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự. Ví dụ minh họa.

Nông Văn Chấn - 351842

Page 2


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

1, Cơ sở pháp lý của phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động tố tụng hình sự.
Điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, quy
định [1]. Như vậy, Điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2009 đã liệt kê các trường hợp Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự.
2, Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự.

Theo quy định tại điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2009 thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự bao gồm:
2.1, Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn
chặn do cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm
ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều
tra; tạo điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác
định tính chất hành vi của người bị tình nghi, nghi ngờ thực hiện tội phạm đối
với vụ án hình sự hoặc để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Theo quy
định tại Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì tạm giữ được áp dụng với những người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc với người bị bắt theo quyết định truy nã. Khi cơ quan, người có thẩm
quyền trong tố tụng hình sự áp dụng biện pháp tạm giữ có thể xâm phạm đến
quyền tự do thân thể của công dân. Do đó, để bảo vệ quyền con người nói chung
và quyền công dân nói riêng trong hoạt động tố tụng hình sự thì khi người bị tạm
giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và việc tạm giữ của cơ quan, của
người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự gây ra thiệt hại cho người bị tạm giữ
thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Điều kiện để Nhà nước bồi thường với
những thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra
khi áp dụng biện pháp tạm giữ là:
+ Người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Nông Văn Chấn - 351842

Page 3



Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

+ Có quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự.
+ Việc tạm giữ đã gây ra thiệt hại cho người bị tạm giữ.
Ví dụ: Công an quận Hoàng Mai( Hà Nội) đã ra quyết định tạm giữ đối
với anh Hà Văn An ( 27 tuổi) vì anh Hà Văn An đã ra tự thú rằng anh đã trộm
chiếc xe máy của chị Nguyễn Thị Hoa trú tại quận Cầu Giấy- Hà Nội. Tuy
nhiên, qua quá trình điều tra thì cơ quan điều tra đã xác minh rằng anh Hà Văn
An ra tự thú là do bị anh Nguyễn Văn Tài ép buộc và đe dọa rằng nếu anh An
không ra tự thú thì anh Tài sẽ làm cho anh An không thể tiếp tục kinh doanh
đồng thời, tại thời điểm chiếc xe máy của chị Hoa bị trộm cắp thì anh Hà Văn
An đang tham dự hội nghị về kinh nghiệm kinh doanh tại quận Thanh Xuân( Hà
Nội). Do đó, cơ quan điều tra đã ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ đối
với anh Hà Văn An. Trong trường hợp này, anh Hà Văn An được bồi thường
thiệt hại do thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định
tại Khoản 1 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
2.2, Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người
đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện
hành vi phạm tội.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với những người đã bị khởi tố về hình sự
hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án xét xử để đảm bảo thuận lợi cho
việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, biện pháp tạm
giam không phải áp dụng cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ được áp dụng trong
một số trường hợp như: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội
rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiệm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người

đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội. Biện pháp tạm gian là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong
các biện pháp ngăn chặn của hoạt động tố tụng hình sự, ảnh hưởng trực tiếp
quyền lợi chính trị, quyền tự do của con người. Do đó, để đảm bảo quyền của
người bị tạm giam, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 đã quy định

Nông Văn Chấn - 351842

Page 4


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

khi người bị tạm giam có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị
tạm giam được Nhà nước bồi thường do họ đã bị tạm giam oan. Đồng thời,
người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung
thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước cũng có trách nhiệm
bồi thường.
Tuy nhiên, hiện nay lại có nhiều cách hiểu khác nhau về thế nào là “
không thực hiện hành vi phạm tội”, có quan điểm cho rằng người được bồi
thường phải là người hoàn toàn không thực hiện bất cứ hành vi vi phạm pháp
luật nào nhưng có quan điểm lại cho rằng người được bồi thường là người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi đó không cấu thành tội phạm.
Trên cơ sở các quan điểm trên thì các trường hợp mà Nhà nước có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại không thực hiện hành vi phạm
tội gồm:

- Thứ nhất, không có sự việc phạm tội: Đây là trường hợp người bị thiệt
hại không thực hiện bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào. Có thể hiểu đây là
trường hợp mà họ đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự áp dụng các biện
pháp ngăn chặn hoặc họ đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án oan.
Ví dụ 1: Cơ quan điều tra phát hiện hành vi của B có dấu hiệu của tội “
trộm cắp tài sản” và đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với B đồng thời
tạm giam 2 tháng đối với B và trong thời giam bị tạm giam B bị thiệt hại về sức
khỏe. Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố bị can đối với B. Tuy nhiên, Tòa án
cấp sơ thẩm tuyên B không phạm tội “ trộm cắp tài sản”. Đây được xem là
trường hợp không có sự việc phạm tội. Chính vì vậy mà Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị giam oan, cụ thể trong trường hợp này
người được Nhà nước bồi thường chính là B.
Ví dụ 2:, Anh D bị Tòa án nhân dân tỉnh M kết án về tội “giết người” và tuyên
hình phạt tử hình. Sau đó, anh D kháng cáo và Tòa án nhân dân tối cao xử hủy
bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh M tuyên D không phạm tội “giết
người”vì trên thực tế anh D không thực hiện hành vi phạm tội và đình chỉ vụ án.

Nông Văn Chấn - 351842

Page 5


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

Do vậy, đây là trường hợp mà người bị kết án tử hình và sau đó có bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người
đó không thực hiện hành vi phạm tội mà việc không thực hiện hành vi phạm tội
ở đây được hiểu là không có sự việc phạm tội. Do đó, anh D được Nhà nước bồi
thường thiệt hại do bị tuyên hình phạt tử hình oan.
- Thứ hai, hành vi vi phạm không cấu thành tội phạm: Có thể hiểu trong

trường hợp này thì người bị thiệt hại có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
nhưng hành vi đó chỉ bị xử lý về hành chính, dân sự hay bị xử lý kỉ luật mà
chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng các biện pháp tố
tụng hình sự trong trường hợp này là không tương xứng với tính chất, mức độ vi
phạm của hành vi và người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có thể bị hạn
chế một số quyền công dân, thậm chí là bị tước đoạt tính mạng mà đáng lẽ ra họ
không phải gánh chịu những hậu quả này. Do vậy, khi có quyết định của cơ quan
có thẩm quyền trong tố tụng hình sự xác định hành vi không cấu thành tội phạm
thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị oan.
Ví dụ: Anh Võ Văn Hoàng( 29 tuổi) bị cơ quan điều tra khởi tố, truy tố
về tội “ trộm cắp tài sản” và bị Tòa án nhân dân huyện D tuyên phạt 2 năm tù
về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự. Anh Hoàng đã
kháng cáo vì anh cho rằng hành vi của mình không cấu thành tội “trộm cắp tài
sản” vì giá trị tài sản mà anh Hoàng đã chiếm đoạt chỉ có 1 850 000 đồng và
không thuộc trường hợp giá trị tài sản “ dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Tòa án
cấp phúc thẩm đã xử hủy bản án của Tòa án nhân dân huyện D và tuyên hành vi
của anh Hoàng không cấu thành tội “trộm cắp tài sản” do vậy anh Hoàng
không phạm tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự và trả
tự do cho anh Hoàng ngay tại tòa. Như vậy, trong trường hợp này anh Hoàng
được Nhà nước bồi thường do hành vi không cấu thành tội phạm.
2.3, Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án.
Theo quy đinh tại Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì
ta có thể chia thành các trường hợp sau:
- Thứ nhất, người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm
giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của

Nông Văn Chấn - 351842


Page 6


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không thực hiện hành vi phạm tội (Khoản 3 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước năm 2009): Đây là trường hợp một người tuy không bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt
tù có thời hạn nhưng họ đã bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án hay nói cách
khác họ đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định đặc trưng của
mình khẳng định họ là người có tội và có thể đã buộc họ phải chịu hình phạt như
cảnh cáo, phạt tù cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt
trục xuất, quản chế hoặc cấm cư trú, hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Vì vậy,
khi có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được đặt ra.
Ví dụ 1: Anh Nguyễn Văn Thành bị Tòa án nhân dân huyện D kết án về
tội “ kinh doanh trái phép” và tuyên phạt 2 năm tù. Sau đó, Tòa án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm và tuyên Nguyễn Văn Thành không phạm tội “kinh
doanh trái phép”. Như vậy, trong trường hợp này theo quy định của pháp luật
thì anh Nguyễn Văn Thành được Nhà nước bồi thường do không thực hiện hành
vi phạm tội.
Ví dụ 2: Chị H bị Tòa án nhân dân huyện K kết án về tội “ lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tuyên hình phạt với chị H là 10 năm tù. Chị H
kháng cáo, tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án của Tòa án nhân dân huyện K
và tuyên chị H không phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Như
vậy, theo quy định tại điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
2009, cụ thể là theo khoản 3 điều 26 thì chị H được Nhà nước bồi thường do chị
H không thực hiện hành vi phạm tội.

- Thứ hai, người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ
án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyêt định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một
hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được Nhà nước bồi thường thiệt hại tương
ướng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức
hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành(Khoản 4 Điều 26 Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009): Đây chính là trường hợp một

Nông Văn Chấn - 351842

Page 7


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

người theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị tuyên là phạm nhiều tội
trong cùng một vụ án và đã chấp hành hình phạt tù nhưng sau đó bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người
đó không phạm một hay một số tội. Do vậy, khi hình phạt mà người đó phải
chấp hành ít hơn thời gian mà họ đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì Nhà
nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà
người đó phải chấp hành.
Ví dụ: Cơ quan điều tra phát hiện hành vi của A có dấu hiệu phạm tội “ gây rối
trật tự công cộng”, tội “ đua xe trái phép” và tội “ cố ý gây thương tích cho
người khác”và đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với A về 3 tội trên.
Tòa án sơ thẩm tuyên A phạm 3 tội là tội “ gây rối trật tự công cộng” theo
khoản 1 điều 245 Bộ luật hình sự với hình phạt 1 năm tù, tội “ đua xe trái
phép”theo khoản 1 điều 207 Bộ luật hình sự với hình phạt là 15 tháng tù giam

và tội “ cố ý gây thương tích cho người khác”với hình phạt là 10 tháng tù giam.
A đã chấp hành được 2 năm tù giam. A kháng cáo và tòa án cấp phúc thẩm
tuyên A chỉ phạm tội “gây rối trật tự công cộng” và tội “cố ý gây thương tích
cho người khác” mà không phạm tội “đua xe trái phép”. Như vậy thì tổng hình
phạt của A đối với 2 tội trên là 1 năm 10 tháng tù giam, tuy nhiên A lại chấp
hành 2 năm tù giam. Do vậy, trong trường hợp này A sẽ được Nhà nước bồi
thường thiệt hại tương ứng với 2 tháng chấp hành hình phạt tù vượt quá so với
hình phạt 2 năm tù mà A phải chấp hành.
- Thứ ba, trường hợp người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong
một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người
đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại
ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời
gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà
người đó phải chấp hành (Khoản 5 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2009).
Ví dụ: Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, tuyên Vi Văn Lai phạm 3 tội là tội “
giết người” với hình phạt tử hình, tội “ cưỡng đoạt tài sản” với hình phạt 2 năm
tù và tội “ chống người thi hành công vụ” với hình phạt 3 năm tù và tổng hợp

Nông Văn Chấn - 351842

Page 8


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

hình phạt đối với Vi Văn Lai là tử hình. Tuy nhiên, Vi Văn Lai kháng cáo nên
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm tuyên Vi Văn Lai
không phạm tội “giết người” và tội “chống người thi hành công vụ” mà chỉ

phạm tội “cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 điều 135 Bộ luật hình sự. Vì vậy,
Tòa phúc thẩm tuyên Vi Văn Lai phải chấp hành 2 năm tù về tội “cưỡng đoạt tài
sản”. Trong đó, Vi Văn Lai bị tạm giam 2 năm 4 tháng. Do vậy, theo quy định tại
khoản 5 điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 thì Vi Văn
Lai sẽ được Nhà nước bồi thường thiệt hại tương ứng với 4 tháng tạm giam vượt
quá so với mức hình phạt mà Vi Văn Lai đã phải chịu và theo quy định của Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 thì bồi thường này sẽ được chi trả
bằng tiền.
- Thứ tư, người bị xét xử bằng nhiều bản án, tòa án đã tổng hợp hình phạt
của nhiều bản án đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số
tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành
hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tam
giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà
người đó phải chấp hành(Khoản 6 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009).
Ví dụ: Tòa án nhân dân huyện X tuyên phạt anh C 4 năm 4 tháng tù
giam về tội “đưa hối lộ” theo khoản điều 289 Bộ luật hình sự cộng với 3 năm tù
giam về tội “ Tham ô tài sản” theo khoản điều 278 Bộ luật hình sự do Tòa án
nhân dân huyện K tuyên phạt. Như vậy, tổng hợp hình phạt đối với anh C là 7
năm 4 tháng tù giam. Anh C đã chấp hành hình phạt tù được 3 năm 5 tháng thì
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm bản án của Tòa
án nhân dân huyện X. Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm đã hủy bản
án có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện X và đình chỉ vụ án do anh
C không phạm tội “đưa hối lộ”. Như vậy thì anh C chỉ phải chịu hình phạt tù
giam là 3 năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Tuy nhiên, anh C đã chấp hành hình
phạt tù giam được 3 năm 5 tháng tù giam. Trong trường hợp này, anh C sẽ được
Nhà nước bồi thường thiệt hại bằng tiền tương ứng với 5 tháng vượt quá so với
mức hình phạt mà A đã phải chịu.


Nông Văn Chấn - 351842

Page 9


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

2.4, Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên,
tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2
và 3 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì được
bồi thường.
Trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan cũng như
những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự có thể thu giữ thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm theo Điều 144 BLTTHS-2003; tạm giữ đồ vật,
tài liệu khi khám xét theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự; kê biên
tài sản theo Điều 146 BLTTHS; tịch thu tài sản theo Điều 267 BLTTHS nếu có
căn cứ cho rằng đây là các chứng cứ liên quan trực tiếp đến vụ án, để bảo đảm
thi hành án hình sự hoặc để đảm bảo việc thi hành các bản án, quyết định hình
sự. Tuy nhiên, khi có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì
việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý tài sản của các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự đã gây thiệt hại đối với các tài sản của cá nhân, tổ chức. Như vậy,
trong trường hợp này những thiệt hại về tài sản do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên,
tịch thu, xử lý được Nhà nước bồi thường.
Ví dụ : Anh T- Giám đốc của công ty trách nhiệm hữu hạn An Lộc bị
Tòa án nhân dân huyện N kết án về tội “ kinh doanh trái phép” và bị tòa án
tuyên phạt 2 năm tù giam. Anh T kháng cáo, tòa phúc thẩm xử hủy bản án của
tòa cấp sơ thẩm, tuyên anh T không phạm tội “ kinh doanh trái phép” vì thực tế
hành vi của anh T không cấu thành tội “kinh doanh trái phép” và trả tự do cho
anh T ngay tại tòa. Do bị Tòa án nhân dân huyện N kết án về tội “ kinh doanh

trái phép” nên toàn bộ máy móc, thiết bị kinh doanh của công ty trách nhiệm
hữu hạn An Lộc do anh T làm giám đốc bị kê biên. Do việc kê biên tài sản mà
anh T cũng như công ty bị thiệt hại và những thiệt hại này phải được nhà nước
bồi thường.

C. KẾT LUẬN
Trách nhiệm bồi thường của nhà nước do hành vi trái pháp luật do người thi
hành công vụ gây ra đối với cá nhân, tổ chức không phải phát sinh trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội mà chỉ giới hạn trong hoạt động quản lý hành
chính, tố tụng và hoạt động thi hành án. Và không phải trong mọi trường hợp
người thi hành công vụ trong tố tụng hình sự gây ra thiệt hại thì nhà nước phải

Nông Văn Chấn - 351842

Page 10


Bài tập lớn học kỳ - Luật bồi thường nhà nước

bồi thường mà phạm vi bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự
chỉ giới hạn trong Điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2009.

Nông Văn Chấn - 351842

Page 11



×