Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.75 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
PHẦN 1: QUYỀN LỢI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN.........2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................2
II. NỘI DUNG CHÍNH..........................................................................................2
1. Một số vấn đề về bảo hiểm tài sản..................................................................2
2. Quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản...........................................3
2.1. Quyền chiếm hữu. ...................................................................................5
2.2. Quyền sử dụng.........................................................................................6
2.3. Quyền định đoạt.......................................................................................6
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.......................................................................................7
PHẦN 2: TÌNH HUỐNG THỰC TẾ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM..........................................................................................................................8
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TÀI SẢN.................................................................................................................8
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG THỰC TẾ...........................................................9
1. Tình huống thực tế..........................................................................................9
2. Phân tích tình huống.....................................................................................11
III. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI
SẢN......................................................................................................................13
IV. KẾT LUẬN....................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................15


PHẦN 1: QUYỀN LỢI ĐƯỢC BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM
TÀI SẢN.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong cuộc sống luôn chưa đựng những rủi ro mà con người không thể nào
không lường trước được. Để bù đắp, giảm thiểu những thiệt hại khi rủi ro xảy ra,
ngành dịch vụ tài chính bảo hiểm đã ra đời. Trên cơ sở của quy luật số đông (the
law of large numbers), doanh nghiệp bảo hiểm huy động số đông cá nhân, tổ chức
tham gia bảo hiểm để xây dựng quỹ bảo hiểm bù đắp phần nào thiệt hại do rủi ro


gây ra đối với người tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy, bảo hiểm ngày càng có vai
trị quan trọng đối với đời sống hiện nay và sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2000 là một tất yếu khách quan. Bảo hiểm tài sản là một hình bảo hiểm hết sức
phổ biến hiện nay. Quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản là chế định
quan trọng trong pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, cần được nghiên cứu một cách
nghiêm túc.
II. NỘI DUNG CHÍNH.
1. Một số vấn đề về bảo hiểm tài sản.
Bảo hiểm tài sản là sản phẩm bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm cam
kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra đối với tài sản được
bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm với điều kiện bên mua bảo hiểm
thực hiện đóng phí bảo hiểm đầy đủ.
Đối tượng của bảo hiểm tài sản chính là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy
tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản (ngoại trừ cây trồng và vật nuôi). Các
tài sản này phải là tài sản hợp pháp cho dù là động sản hay bất động sản và phải
được doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm. Tài sản trong nghiệp vụ bảo
hiểm này phải là tài sản hiện hữu, tức là hiện có vào thời điểm giao kết hợp đồng
bảo hiểm. Các lợi ích về tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản phải là các
lợi ích gắn liền với tài sản được bảo hiểm.

2


Chủ thể chính trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản
nói riêng gồm có doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm. Trong đó, doanh
nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập tổ chức và hoạt động theo quy
định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan
để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm (khoản 5 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2000). Người mua bảo hiểm là cá nhân, tổ chức tham gia kí kết hợp đồng bảo
hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể

đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng (khoản 6 Điều 3 Luật kinh
doanh bảo hiểm 2000). Đối với bảo hiểm tài sản, thì bên mua bảo hiểm bao giờ
cũng đồng thời là người được bảo hiểm và người hưởng thụ. Theo định nghĩa trên
có thể thấy bên mua bảo hiểm thực hiện hai công việc đó là giao kết hợp đồng và
đóng phí bảo hiểm. Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm có thể coi là điều kiện ban đầu
để xác định tư các bên mua bảo hiểm cịn việc đóng phí bảo hiểm là điều kiện bảo
đảm để phát sinh trách nhiệm bảo hiểm theo hợp đồng. Ở bảo hiểm tài sản, người
mua bảo hiểm thông thường sẽ thực hiện đồng thời cả hai công việc này, tuy nhiên
người mua bảo hiểm tài sản phải là người có quyền lợi trên tài sản là đối tượng
được bảo hiểm (1).
2. Quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản.
Trong pháp luật về bảo hiểm nói chung, quyền lợi được bảo hiểm được định
nghĩa tại khoản 9 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 như sau: “Quyền lợi
được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản;
quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.”
Điều a khoản 1 Điều 22 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định trong trường hợp
bên mua bảo hiểm khơng có quyền lợi được bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm vơ
hiệu. Việc có quyền lợi được bảo hiểm của bên mua bảo hiểm chính là một yêu cầu
một điều kiện xuyên suốt mọi hợp đồng bảo hiểm nhưng do đặc thù của từng loại
quyền lợi có thể được bảo hiểm, trong hoạt động bảo hiểm tài sản sẽ có những quy
1

TS. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư

pháp, Hà Nội, 2007.

3


định khác với bảo hiểm con người. Bên cạnh điều kiện về năng lực pháp luật, năng

lực hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên ngành, việc người
mua bảo hiểm tài sản phải là người có quyền lợi trên tài sản là đối tượng được bảo
hiểm chính là một điều kiện bắt buộc khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Đối với bảo
hiểm tài sản, quyền lợi được bảo hiểm chủ yếu được xem xét đến trên ba quyền
năng của chủ sở hữu tài sản (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt)
và các quyền tài sản theo luật định. Như vậy có thể thấy đối tượng có thể trở thành
bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản rất rộng.
Tại điểm 2 Điều 583 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp quyền sở hữu
đối với tài sản được chuyển giao cho người khác thì chủ sở hữu mới đương nhiên
thay thế chủ sở hữu cũ trong hợp đồng bảo hiểm. Chủ sở hữu cũ là bên mua bảo
hiểm phải báo cho chủ sở hữu mới biết về việc tài sản đã được bảo hiểm, báo kịp
thời cho bên bảo hiểm về việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản”. Bên cạnh
đó theo Bộ luật hàng hải thì khi đối tượng bảo hiểm đã được chuyển nhượng thì
các quyền theo hợp đồng bảo hiểm đó cũng được chuyển theo.
Có thể thấy, khi chủ sở hữu cũ chuyển giao chuyển nhượng tài sản được bảo
hiểm cho chủ sở hữu mới tức là chủ sở hữu cũ đã khơng cịn quyền lợi đối với tài
sản được bảo hiểm vì vậy hợp đồng bảo hiểm với chủ sở hữu cũ sẽ chấm dứt thay
vào đó quyền lợi với tài sản được bảo hiểm của chủ sở hữu mới phát sinh và họ sẽ
kí kết lại hợp đồng bảo hiểm tài sản mới. Nhưng nếu hợp đồng bảo hiểm cũ vẫn còn
thời hạn, bên mua bảo hiểm cũ thông báo kịp thời cho doanh nghiệp bảo hiểm về
việc chuyển giao chuyển nhượng tài sản là đối tượng được bảo hiểm thì bên chủ sở
hữu mới vẫn được bảo hiểm theo hợp đồng và khơng phải nộp thêm phí đồng thời
các nghĩa vụ liên quan đến tực hiện hợp đồng bảo hiểm cũng được chuyển giao cho
chủ sở hữu mới

(2)

. Như vậy, bản chất của các quy định trên chính là sự đơn giản

hóa thủ tục giao kết hợp đồng bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm


2

Lý Thị Hương Giang, Khóa luận tốt nghiệp: “Xác định lỗi trong giải quyết tranh chấp hợp đồng

bảo hiểm”, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2005.

4


đồng thời cũng thể hiện quyền lợi được bảo hiểm gắn liền với tài sản là một điều
kiện xuyên suốt hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Có ý nghĩa hết sức quan trọng tuy nhiên hiện nay lại số lượng các văn bản cũng
như quy định về quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản lại hết sức hạn chế
gây ra rất nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu cũng như áp dụng luật.
Để làm rõ hơn về quyền lợi được bảo hiểm tron bảo hiểm tài sản, ta đi vào phân
tích theo 3 góc độ của quyền sở hữu:
2.1. Quyền chiếm hữu.
Luật dân sự Việt Nam xác định chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu
cụ thể, Điều 182 Bộ luật dân sự qui định quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản
lý tài sản. Nắm giữ tài sản là việc người chiếm hữu giữ vật trong phạm vi kiểm soát
làm chủ và chi phối tài sản đó theo ý chí của mình. Ví dụ, cất tiền vào túi, quần áo,
trang sức để vào trong tủ. Người chiếm hữu tài sản có thể là chủ sở hữu tài sản
nhưng cũng có thể là khơng phải chủ sở hữu tài sản đó. Trong bảo hiểm tài sản,
quyền chiếm hữu thể hiện là quyền mà chủ sở hữu hoặc người có quyền chiếm hữu
hợp pháp tài sản đó có gắn liền với trách nhiệm bồi thường có thể mua bảo hiểm
cho giá trị của tài sản đó. Hay nói cách dễ hiểu hơn, người chiếm hữu hợp pháp của
tài sản sẽ bị thiệt hại hay có trách nhiệm phải bồi thường nếu tài sản mà họ đang
nắm giữ gặp rủi ro, như vậy họ có quyền lợi cần được bảo hiểm.
Ví dụ, người trơng xe tại các trường học, thu tiền gửi của học sinh, sinh viên.

Khi xe gửi tại bãi gửi xe, tức là họ đang chiếm hữu chiếc xe đó. Nếu chiếc xe đó bị
mất thì chính những người trơng xe này sẽ phải bồi thường cho chủ nhân của chiếc
xe, hay nói cách khác họ có quyền lợi cần được bảo hiểm. Vì vậy họ có thể mua bảo
hiểm cho chiếc xe này. Khi đó, nếu có rủi ro xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
giúp người trông xe bồi thường cho chủ nhân của chiếc xe đó. Một ví dụ khác đó là
người vận chuyển hàng hóa, nếu trong q trình vận chuyển họ là người chiếm hữu
tài sản đó, nếu có rủi ro xảy ra dẫn tới hàng hóa bị tổn thất hay mất mát thì họ sẽ
phải bồi thường cho chủ sở hữu của hàng hóa đó. Vì vậy người vận chuyển này có

5


quyền lợi có thể bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản và có thể mua bảo hiểm tài sản mà
anh ta vận chuyển.
2.2. Quyền sử dụng.
Điều 192 Bộ luật dân sự quy định quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Khai thác công dụng của tài sản được hiểu là việc
dùng tài sản để phục vụ nhu cầu, sở thích của bản thân hoặc để khai thác lợi ích
kinh tế của tài sản. Trong bảo hiểm tài sản, quyền sử dụng của chủ sở hữu hoặc
người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng được coi là quyền lợi có thể bảo
hiểm. Theo đó, người có quyền sử dụng cho dù có phải là chủ sở hữu của tài sản đó
hay khơng trong q trình sử dụng cũng có thể gặp những rủi ro nhất định. Với
người được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng, nếu làm tổn thất, mất mát hay
hư hỏng tài sản thì sẽ có trách nhiệm phải bồi thường cho chủ sở hữu. Vì vậy, người
có quyền sử dụng tài sản có quyền lợi có thể được bảo hiểm, họ có thể mua bảo
hiểm tài sản cho tài sản mà họ đang sử dụng.
Ví dụ: A thuê một chiếc xe ô tô 7 chỗ cho cả nhà đi du lịch. Do lo sợ trên
đường đi hay trong quá trình sử dụng chiếc xe xảy ra sự cố ngồi ý muốn A có thể
mua bảo hiểm tài sản cho chiếc xe đó. Khi có rủi ro xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm
xe giúp A bồi thường thiệt hại cho người chủ sở hữu chiếc xe.

2.3. Quyền định đoạt.
Điều 195 Bộ luật Dân sự quy định quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền
sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu tài sản. Việc định đoạt tài sản có thể định
đoạt số phận thực tế của các vật, làm chấm dứt sự tồn tại vật chất của tài sản, như
huỷ bỏ, tiêu dùng hết hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật, hoặc bằng hành vi pháp
lý. Thơng thường chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt tài sản đó, người khơng
phải là chủ sở hữu chỉ có quyền định đoạt tài sản của người khác trong trường hợp
được chủ sở hữu uỷ quyền hoặc trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy
định. Về nguyên tắc, chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt số phận thực tế hay số
phận pháp lý tài sản của mình trừ một số trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định.
6


Việc thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các
quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó trong đó có các các quan hệ về bảo hiểm
tài sản. Như vậy thơng thường chính chủ sở hữu của tài sản là người quyền định
đoạt được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản. Chủ sở hữu có thể mua bảo hiểm cho tài
sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình ngay cả khi đã chuyển giao quyền chiếm hữu
hay sử dụng cho người khác nhằm hạn chế những rủi ro trong quá trình sở hữu tài
sản.
Như vậy chủ sở hữu tài sản chính là chủ thể có đầy đủ các quyền lợi có thể
được bảo hiểm, họ có thể mua bảo hiểm cho tài sản của họ trong bất kỳ trường hợp
nào. Còn người chiếm hữu hay sử dụng chỉ mua bảo hiểm cho tài sản mà họ đang
chiếm hữu hay sử dụng.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Các quy định của pháp luật về quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm
tài sản có tác dụng bảo vệ bên mua bảo hiểm. Đồng thời chỉ khi có quyền lợi có thể
được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm mới có đủ khả năng thực hiện các nghĩa vụ cung
cấp thông tin và các nghĩa vụ khác trong hợp đồng bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Như vậy có thể thấy quyền lợi được bảo

hiểm trong bảo hiểm tài sản là một vấn đề có tính quan trọng cao, là điều kiện
xuyên suốt hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định của pháp luật về
vấn đề này còn hết sức hạn chế cần phải được bổ sung trong thời gian sớm nhất.

7


PHẦN 2: TÌNH HUỐNG THỰC TẾ VỀ TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG BẢO HIỂM.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM TÀI SẢN.
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản là những bất đồng giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và người mua bảo hiểm khi thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng
mà các bên đã kí kết. Thơng thường, tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm tài
sản đều xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của một hoặc ca hai bên kí kết với
lỗi cố ý hoặc vô ý nên đã làm trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng
bảo hiểm tài sản

(3)

. Hành vi làm trái cam kết trong hợp đồng bảo hiểm tài sản là

hành vi không thực hiện hoặc thực hiển không đúng nghĩa vụ đã cam kết do lỗi vô ý
hoặc cố ý xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của bên còn lại hoặc xâm phạm tới lợi
ích của xã hội, lợi ích của cá nhân, tổ chức khác.
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến các tranh chấp về hợp đồng bảo
hiểm tài sản. Do lợi ích của hai bên chủ thể trong quan hệ bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm tài sản nói riêng là đối lập nhau dẫn đến các xung đột mâu thuẫn thường
xuyên xảy ra. Nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải
bồi thường là rất lớn, lớn hơn nhiều so với mức phí mà người mua bảo hiểm đã nộp,

chính vì vậy các doanh nghiệp luôn đặt ra các yêu cầu, điều kiện phát sinh nghĩa vụ
bồi thường hết sức khắt khe dẫn đến việc từ chối bảo hiểm trong rất nhiều trường
hợp, điều này cũng tạo ra các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Bên cạnh đó
một căn cứ phát sinh tranh chấp bảo hiểm tài sản còn do thông tin và hiểu biết của
các bên trong quan hệ hợp đồng không cân xứng. Trong quan hệ hợp đồng bảo
hiểm tài sản, doanh nghiệp bảo hiểm có ưu thế hơn hẳn bên mua bảo hiểm trên
phương diện này. Cụ thể, doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu khách hàng kê khai trung
thực các thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm và họ có đủ điều kiện để kiểm
3

Trần Thị Hồng Nhung, Khóa luận tốt nghiệp: “Hợp đồng bảo hiểm tài sản và các vấn đề pháp lý

phát sinh”, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2007.

8


tra thơng tin đó, nhưng khách hàng khơng có biện pháp cụ thể nào để có thể kiểm
tra tính trung thực về thông tin mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp. Một căn cứ
khác làm phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản chính là sự thiếu hiểu biết
về pháp luật kinh doanh bảo hiểm của bên mua bảo hiểm cũng như việc lợi dụng
khe hở để lách luật của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra tranh chấp hợp đồng bảo
hiểm tài sản thường diễn ra khi sự kiện bảo hiểm đã xuất hiện, khi này đối tượng
bảo hiểm là tài sản có thể khơng cịn tồn tại hoặc khơng cịn ngun vẹn nên rất khó
xác định ngun nhân và mức độ tổn thất, việc xác định các tổn thất này lại bị các
yếu tố chủ quan chi phối rất nhiều. Chính vì vậy, các bên ln có xu hướng tìm ra
các chứng cứ và lý lẽ riêng để bao biện và bảo vệ lợi ích cho mình. Chính điều này
có thể dẫn đến tranh chấp giữa các bên về việc xác định giá trị tổn thất.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG THỰC TẾ.
1. Tình huống thực tế.

Mới đây, tại TP HCM cũng đã xảy ra một trường hợp tranh chấp về hợp đồng
bảo hiểm giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín và Cơng ty cổ phần bảo
hiểm AAA mà trong đó, bên nào cũng bảo vệ lý lẽ của mình… Sự việc bắt đầu từ
ngày 11/6/2008, khi Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Tín ký hợp đồng với
Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA để bảo hiểm chiếc xe Mercedes biển kiểm soát
52P - 1980, với giá trị bảo hiểm là 1,190 tỉ đồng, phí bảo hiểm là 15.446.200 đồng.
Hợp đồng này có hiệu lực từ 11 giờ ngày 11/6/2008 và chấm dứt lúc 11 giờ ngày
11/6/2009. Phạm vi bảo hiểm của chiếc xe Mercedes ấy, gồm: Đâm, va, lật, đổ, hỏa
hoạn, cháy nổ, bão lũ, sụt lở, sét đánh, động đất, mưa đá, mất toàn bộ xe và tai nạn,
rủi ro bất ngờ khác ngoài những điểm loại trừ được nêu trong đơn bảo hiểm.
Đến 16 giờ ngày 1/8/2008, trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xuất hiện một
cơn mưa. Cũng cần nói thêm rằng trước đó, Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn
khu vực Nam bộ dự báo sẽ có mưa lớn bất thường trong 5 ngày đầu tháng 8. Sau
cơn mưa, Cơng ty Thốt nước đơ thị cho biết đã có 54 điểm ngập sâu ở 14 quận,
huyện, cả nội thành lẫn ngoại thành. Tuy nhiên, khác với trận mưa cuối năm 2008 ở

9


Hà Nội, cơn mưa chiều 1/8/2008 tại TP HCM không được các cơ quan chức năng
thành phố chính thức cơng nhận là “thiên tai”, và hồn tồn cũng khơng mang tính
bất ngờ vì nó đã được dự báo.
16 giờ 30 phút ngày 1/8/2008, mưa làm ngập một số tuyến đường, và nước bắt
đầu tràn vào tầng hầm để xe của trụ sở Ngân hàng Đại Tín, số 75 đường Hồ Hảo
Hớn, phường Cô Giang, quận 1 TP HCM. Đến 17 giờ – nghĩa là 1 tiếng kể từ khi
bắt đầu mưa - nước trong tầng hầm đã dâng lên 0,5 mét. Theo cơng văn của Ngân
hàng Đại Tín gửi Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thì: “…Khơng thể đưa xe ra khỏi
hầm vì mực nước dâng cao và hầm có độ dốc quá lớn”. Khoảng nửa tiếng sau đó,
nước dâng lên hơn 1 mét, hệ thống điện của tòa nhà chìm trong nước. Vẫn theo
cơng văn nói trên, thì: “Tồn bộ nhân viên phải sơ tán nhằm tránh tai nạn điện giật

chết người”.
Sáng ngày 2/8/2008, Ngân hàng Đại Tín điện thoại, thơng báo cho Bảo hiểm
AAA, sau đó nhờ Cơng ty Dịch vụ cứu hộ Haxaco đem xe đi giám định. Theo kết
quả giám định, chiếc xe Mercedes bị hư hỏng nặng về phần điện, và tiền sửa chữa
tổng cộng là trên 300 triệu đồng. Số tiền này, Bảo hiểm AAA có trách nhiệm phải
thanh tốn. Tuy nhiên, nhận định của Bảo hiểm AAA lại khác: Cơn mưa vừa nói
chỉ là một cơn mưa rất to, gây ngập nhiều nơi chứ không phải là bão, lũ (thiên tai).
Việc chiếc xe Mercedes bị ngập nước khiến phần điện hư hỏng không phải là sự cố
bất khả kháng, hoặc là rủi ro khơng lường trước được. Vì thế, Bảo hiểm AAA từ
chối chi trả tiền sửa chữa chiếc xe Mercedes, mà chỉ đồng ý hỗ trợ cho Ngân hàng
Đại Tín 50 triệu đồng với lý do: “Thiệt hại hệ thống điện của xe BKS 52P-1980
không thuộc phạm vi bảo hiểm vật chất thân xe của Bảo hiểm AAA. Đây cũng
không phải là rủi ro bất ngờ.”
Ngược lại, phía Ngân hàng Đại Tín không đồng ý với quan điểm này và tiếp tục
yêu cầu Bảo hiểm AAA phải bảo hiểm cho chiếc xe của họ. Ông Trần Xuân Nam,
Tổng Giám đốc Ngân hàng Đại Tín cho biết, việc nước tràn vào trụ sở của ngân
hàng và làm hỏng chiếc xe vào chiều 1-8-2008 là “hồn tồn bất ngờ” với ngân
hàng. Ơng cho rằng nhân viên ngân hàng khơng có kiến thức, kỹ năng và phương

10


tiện của một nhân viên cứu hộ. Họ cũng không phải là chuyên gia dự báo thời tiết,
làm sao có thể đốn được diễn biến của cơn mưa.
Chính những lý lẽ riêng để bảo vệ quyền lợi của mỗi bên đã dẫn tới tranh chấp
hợp đồng bảo hiểm tài sản. Ngày 30-3-2009, Ngân hàng Đại Tín đã chính thức gởi
đơn kiện ra Tịa án Nhân dân TPHCM.
2. Phân tích tình huống.
Trong vụ việc ta thấy cả hai bên đều có những lý lẽ của riêng mình mà lý lẽ nào
cũng có cái đúng của nó. Mấu chốt của vụ tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản

này đó là ở cụm từ “rủi ro bất ngờ”.
Về phía bên doanh nghiệp bảo hiểm, vì khơng cho đó là sự cố bất ngờ do cơn
mưa đã được dự báo trước nên doanh nghiệp bảo hiểm đã từ chối bồi thường cho
bên mua bảo hiểm. Theo giải thích của một nhân viên cơng ty bảo hiểm thì “rủi ro
bất ngờ” là những rủi ro xảyra trong khoảng thời gian chỉ trong tích tắc, khơng
lường trước được. Mà sự cố nước mưa từ ngồi đường tràn ngập tầng hầm (mưa bắt
đầu từ lúc 16 giờ, nước mưa tràn vào tầng hầm lúc 16 giờ 30, đến 17 giờ nước trong
tầng hầm ngập 0,5m) là xảy ra trong một thời gian dài nên không phải là tai nạn rủi
ro bất ngờ. Cịn phía ngân hàng lại cho rằng ngân viên ngân hàng không phải là
chuyên gia nên khơng có nghĩa vụ phải biết trước cơn mưa lớn này. Nên cơn mưa
này đối với ngân hàng là là một sự kiện bất ngờ, theo đó cơng ty bảo hiểm phải bồi
thường cho ngân hàng Đại Tín.
Từ “bất ngờ” được định nghĩa trong từ điển như sau: Theo Từ điển Tiếng Việt
1994 (NXB Khoa học xã hội, Trung tâm từ điển học Hà Nội - Việt Nam) thì từ “bất
ngờ” được định nghĩa là: “Khơng ai ngờ, xảy ra ngồi dự tính”. Từ điển Tiếng Việt
– Ngơn ngữ học Việt Nam ( NXB Thanh Hóa, năm 1998) thì từ “bất ngờ” cũng
được định nghĩa là “khơng ngờ tới, khơng dự tính trước được”. Cách định nghĩa
này khơng bao hàm khái niệm “xảy ra trong thời gian rất ngắn” hay “trong một tích
tắc” như ngân hàng lập luận. Chính vì vậy lập luận của phía ngân hàng cũng có lý.
Tuy nhiên trong bảo hiểm, sự kiện bất ngờ này xảy ra chỉ sau khi ký hợp đồng,
không phải do lỗi của bất kỳ bên tham gia hợp đồng nào, mà xảy ra ngoài ý muốn
11


và các bên khơng thể dự đốn trước, cũng như không thể tránh và khắc phục được,
dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa. Tuy
nhiên, có thể thấy trong, trường hợp này ngân hàng hồn tồn có đầy đủ thời gian
và khả năng thực tế để đưa xe ô tô ra khỏi tầng hầm.
Theo ý kiến cá nhân trong trường hợp này, cơn mưa lớn đã được dự báo từ
trước trên phương tiện thơng tin đại chúng vì vậy mặc nhiên sẽ coi là ai cũng đã

được biết về cơn mưa này chính vì vậy cơn mưa trên khơng thể coi là một sự kiện
bất ngờ được vì vậy lập luận của phía ngân hàng cho rằng nhân viên ngân hàng
khơng có nghĩa vụ phải biết về cơn mưa là không hợp lý. Bên cạnh đó, khơng phải
ngay lập tức từ lúc mưa là nước tràn vào tầng hầm ngay mà việc này diễn ra trong
một khoảng thời gian khá là dài. Cụ thể cơn mưa bắt đầu lúc 16h đến 16h30 nước
mới bắt đầu tràn vào tầng hầm. Đến 17 giờ – nghĩa là 1 tiếng kể từ khi bắt đầu mưa
- nước trong tầng hầm đã dâng lên 0,5 mét. khoảng thời gian từ 16h tới 17h30 được
coi là giờ hành chính, ngân hàng vẫn đang cịn làm việc vì vậy sẽ khơng thể có lý
do là khơng có nhân viên có mặt tại hiện trường để xử lý tình huống.
Như vậy, ngay từ khi cơn mưa bắt đầu nhân viên ngân hàng đã phải nhận thức
được khả năng nước sẽ tràn vào tầng hầm và phải đưa xe ra ngay. Sau đó, khơng
phải ngay lập tức từ lúc nước bắt đầu tràn vào là nước đã dâng cao ngay lập tức.
Ngay khi nước vừa tràn vào, nhân viên ngân hàng phải biết được việc cần đưa xe ra
khỏi tầng hầm ngay lập tức để tránh hỏng hóc. Như vậy khoảng thời gian từ lúc
mưa đến khi nước ngập 50cm là 1 tiếng đồng hồ, thời giàn này là quá đủ cho công
việc đưa xe ra khỏi tầng hầm (chỉ cần vài phút là có thể đưa chiếc xe ra khỏi tầng
hầm lên nơi cao hơn tránh ngập nước).
Do đó, chúng ta có đầy đủ các căn cứ để cho rằng việc không đưa xe ra khỏi
tầng hầm này của ngân hàng Đại Tín này sẽ bị coi là khơng thực hiện các biện pháp
đảm bảo an toàn cũng như cố ý từ bỏ tài sản khi có điều kiện để hạn chế thiệt hại.
Như vậy ngân hàng Đại Tín đã vi phạm quy định về nghĩa vụ của bên mua bảo
hiểm trong bảo hiểm tài sản theo quy định tại Điều 18, 50, 51 Luật kinh doanh bảo
hiểm năm 2000. Bên cạnh đó, việc ngân hàng Đại Tín khơng tích cực khắc phục sự

12


cố, ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cũng đã vi phạm với quy định tại khoản 1 Điều 575
Bộ luật Dân sự: “Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc bên được
bảo hiểm phải báo ngay cho bên bảo hiểm và phải thực hiện mọi biện pháp cần

thiết mà khả năng cho phép để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại”. Việc thơng báo sau
đó của Ngân hàng Đại Tín là khơng có ý nghĩa. Do đó trong trường hợp này thì
cơng ty bảo hiểm AAA khơng phải bồi thường cho ngân hàng Đại Tín.
III. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO
HIỂM TÀI SẢN.
Các quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm là trái ngược
nhau trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng,
chính vì vậy các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm tài sản thường xuyên diễn ra, gây
thiệt hại tới quyền lợi của các bên. Vì vậy, trong thời gian tới cần có những giải
pháp để hạn chế các tranh chấp này.
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật và khung pháp lí cho hoạt động bảo
hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng. Ví dụ như cần chú trọng đến các quy
định có tính chất đảm bảo gián tiếp các nguyên tắc trong hoạt động bảo hiểm là
“nguyên tắc trung thực tuyệt đối” và “nguyên tắc hợp tác vì mục tiêu bảo hiểm”. Bổ
sung và hồn thiện các quy định pháp luật về quyền lợi được bảo hiểm, nghĩa vụ
cung cấp thông tin, giới hạn được bồi thường cũng như các quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Thứ hai, pháp luật cần có các biện pháp răn đe mạnh hơn đối với các hành vi
gian dối trong bảo hiểm nhằm trục lợi. Các hành vi trục lợi này sẽ gây thiệt hại rất
lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Các hành vi trục lợi thường gặp là tổn thất xảy
ra mới mua bảo hiểm, khai khống tình trạng thiệt hại, cố ý tạo ra các tổn thất để
được đền bù, lập hiện trường giả về tai nạn, không khai báo về bảo hiểm trùng. Ở
một số quốc gia, trục lợi bảo hiểm bị coi là một loại tội phạm hình sự và bị xử phạt
rất nặng. Ở Việt Nam các chế tài về vấn đề này vẫn chưa đủ sức răn đe dẫn đến
hành vi trục lợi bảo hiểm diễn ra phức tạp. Trong thời gian tới cần phải nâng cao

13


mức xử phạt với các hành vi này, có thể nâng lên làm tội phạm nhằm răn đe từ đó

cũng hạn chế tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trong đó có bảo hiểm tài sản.
Thứ ba, tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung gian bảo hiểm phát triển
dưới hình thức mơi giới bảo hiểm, đại lí độc lập để giúp người dân tiếp cận bảo
hiểm một cách dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm.
Thứ tư, đối với doanh nghiệp bảo hiểm, cần cung cấp thơng tin chính xác và
đầy đủ tới khách hàng những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản, phạm
vi, nguyên tắc bảo hiểm… để khách hàng có những nhận thức đầy đủ nhất về hợp
đồng mà mình sẽ kí kết tránh những mâu thuẫn tranh chấp sau này. Đồng thời
doanh nghiệp bảo hiểm cần tăng cường đào tạo chuyên môn cho các cán bộ - nhân
viên bảo hiểm. Bởi họ có thể đóng vai trị giải thích về hợp đồng bảo hiểm cho
người mua bảo hiểm, nhằm giúp người mua hiểu rõ và thống nhất với doanh nghiệp
về nội dung hợp đồng khi hợp đồng chưa được giao kết; hoặc giúp người mua bảo
hiểm giải đáp thắc mắc khi có thiệt hại xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm từ đó hạn
chế các tranh chấp bảo hiểm nói chung.
Thứ năm, bên mua bảo hiểm cần dành nhiều thời gian trong việc tìm hiểu thơng
tin pháp luật về bảo hiểm tài sản bao gồm thủ tục kí kết hợp đồng bảo hiểm, quyền
lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản, các trường hợp không được bảo hiểm và
các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hợp đồng bảo hiểm tài sản.
IV. KẾT LUẬN.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện này hoạt động kinh doanh bảo hiểm
tài sản ngày càng diễn ra mạnh mẽ kéo theo việc nảy sinh các tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm tài sản với xu hướng ngày càng phức tạp. Đề bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho các bên tham gia bảo hiểm tài sản, rất cần những biện pháp thiết thực
và hiêu quả để hạn chế các tranh chấp trong hợp bảo hiểm tài sản mà rộng hơn là tất
cả các loại hình bảo hiểm.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt
Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007.
2. Lý Thị Hương Giang, Khóa luận tốt nghiệp: “Xác định lỗi trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng bảo hiểm”, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2005.
3. Trần Thị Hồng Nhung, Khóa luận tốt nghiệp: “Hợp đồng bảo hiểm tài sản và
các vấn đề pháp lý phát sinh”, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2007.
4. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010.
5. Bộ luật Dân sự năm 2005.
6. Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Trung tâm từ điển học Hà Nội,
Hà Nội, 1994.
7. Từ điển Tiếng Việt – Ngôn ngữ học Việt Nam, NXB Thanh Hóa, Thanh Hóa,
1998.

15



×