Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tìm hiểu khái niệm hoạt động ngân hàng theo luật TCTD với khái niệm dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.14 KB, 22 trang )

BÀI LÀM

A.

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, khi sản phẩm hàng hóa phát

triển thì kéo theo sự hình thành và phát triển của các quan hệ thương mại giữa các
khu vực, giữa các quốc gia sử dụng các đồng tiền khác nhau. Việc mua bán hàng hóa
giữa các khu vực, các quốc gia sử dụng đồng tiền khác nhau dẫn đến nhu cầu đổi
tiền. Từ đó xuất hiện những người làm nghề đổi tiền. Sau dần dần họ thực hiện thêm
các dịch vụ khác như nhận tiền gửi, cho vay...Cùng với sự phát triển của nghề đổi
tiền và các dịch vụ kinh doanh tiền tệ cũng phát triển trở thành một nghề kinh doanh
và được gọi là nghề ngân hàng. Và khi xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của
người dân được nâng cao nhu cầu của con người tăng lên. Từ đó mà nhiều dịch vụ
đã hình thành và phát triển đáp ứng nhu cầu của con người: dịch vụ vận tải hàng
không, các dịch vụ tài chính, dịch vụ vận tải biển... Trong đó dịch vụ tài chính là
một trong những dịch vụ có sức ảnh hưởng lớn và rất thiết yếu đối với mỗi người
dân như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ quản lý tài sản, các dòng
sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ... Những thành tựu khoa học công
nghệ, trang thiết bị tiên tiến đã góp phần phát triển và nâng cao chất lượng của các
ngành thương mại dịch vụ để đáp ứng tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của công
chúng.
Như vậy, khái niệm ngân hàng cũng như những hoạt động của ngân hàng và
các dịch vụ tài chính nói riêng, các thương mại dịch vụ nói chung đã rất phổ biến
trên thế giới, song không phải ai cũng đã có một lượng kiến thức về chúng. Trong
khuôn khổ bài viết này, em xin lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu khái niệm hoạt động ngân
hàng theo luật TCTD với khái niệm dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO” để tìm
hiểu, nghiên cứu sâu hơn về khái niệm hoạt động ngân hàng cũng như dịch vụ tài
chính.


1


NỘI DUNG
Khái niệm hoạt động ngân hàng theo luật TCTD:
B.

I.

1. Định nghĩa hoạt động ngân hàng theo Luật các tổ chức tín dụng 2010:

Điều 4 khoản12 Luật TCTD 2010: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung
ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
a.Nhận tiền gửi;
b.Cấp tín dụng;
c.Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”
a. Nhận tiền gửi:
Theo khoản 13 Điều 4 Luật TCTD 2010: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền
của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền
gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức
nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi
tiền theo thỏa thuận.”
 Nhận tiền gửi là một trong những hoạt động ngân hàng và là một trong

những hình thức huy động vốn của các tổ chức, cá nhân; chiếm tỉ lệ lớn
trong tổng nguồn vốn huy động của mỗi tổ chức tín dụng. Việc huy động
vốn bằng nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn đặc trưng riêng có của
các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác được phép hoạt động ngân hàng.
 Về bản chất pháp lý của nhận tiền gửi: nhận tiền gửi là quan hệ vay vốn


của TCTD với khách hàng trên cơ sở thỏa thuận tiền gửi và lãi tiền gửi.
 Về hình thức: nhận tiền gửi được thể hiện dưới dạng sổ tiết kiệm, chứng

chỉ tiền gửi, hợp đồng tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận
tiền khác theo thỏa thuận.
 Phân loại: + căn cứ theo kỳ hạn:


Tiền gửi không kỳ hạn( tiền gửi thanh toán): là loại tiền gửi
được khách hàng gửi vào các tổ chức tín dụng để thực hiện
các khoản chi trả, thanh toán. Thông thường khách hàng gửi
loại tiền gửi này có thể rút bất cứ lúc nào nên sẽ không được
trả lãi hoặc được trả lãi suất rất thấp. Và đối với loại tiền gửi
này, khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi
trả như séc, ủy nhiệm chi và các lệnh chi khác.
2




Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào tổ
chức tín dụng trên cơ sở có sự thỏa thuận với tổ chức tín
dụng nhận tiền về thời gian rút tiền. Đối với mỗi loại kì hạn
thì áp dụng một mức lãi suất tương ứng trên nguyên tắc kì
hạn dài, lãi suất càng cao.

+ Căn cứ vào mục đích gửi tiền:
* Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân, nó là khoản
tiền để dành của các cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó được kí gửi vào tổ
chức tín dụng nhằm quản lí cất giữ hộ hoặc để hưởng lãi theo định kì.

* Tiền gửi chuyên dùng: là số tiền Tài thanh toán chuyên dùng vào một
mục đích nhất định của doanh nghiệp như vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tiền gửi Ban
quản lý công trình...
* Tiền gửi thanh toán: là số tiền nằm trên tài khoản để đợi thanh toán.
 Đối tượng : nhận tiền gửi nội tệ và các loại ngoại tệ( chỉ áp dụng với các tổ

chức nhận tiền gửi được phép hoạt đọng ngoại hối và tuân thủ các quy định
hiện hành về quản lí ngoại hối)
 Chủ thể: Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài

chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô.
 Vai trò của hoạt động nhận tiền gửi:

+ tạo nguồn vốn hoạt động cho các TCTD
+ thu hút khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư
+ là công cụ xử lý lạm phát
+ là công cụ để Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
b. Cấp tín dụng:
Theo khoản 14 Điều 4 Luật TCTD 2010: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ
chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản
tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
3


Như vậy, theo quy định của Luật TCTD 2010, cấp tín dụng có những đặc điểm
sau:
- Một bên tham gia quan hệ giao dịch là các tổ chức được Nhà nước cho phép
hoạt động ngân hàng có đủ điều kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp
luật. Như vậy, các tổ chức này tham gia với tư cách là chủ thể cấp vốn.

- Hoạt động tín dụng là hoạt động có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính
phản ứng dây chuyền, vì vậy mà hoạt động tín dụng được đặt trong hành lang pháp lí
chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi
ro.
- Các chủ thể cấp vốn được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ cấp dín dụng khác.
+ Cho vay:
Theo khoản 16 Điều 4 Luật TCTD: Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo
đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi.
Bên cho vay được quyền cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thông qua
hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời
sống( phải tuân thủ theo nguyên tắc và quy chế pháp lí về cho vay).
 Hình thức cấp tín dụng này phải được thực hiện bằng văn bản gọi là

hợp đồng tín dụng.
 Chủ thể tham gia hoạt động cho vay:

* Bên cho vay: phải được Nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng có đủ điều
kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật. Nếu khoản vay là ngoại tệ thì
doanh nghiệp phải có giấy đăng kí kinh doanh ngoại hối.

4


* Bên vay: có thể là tổ chức hoặc cá nhân, phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi; có mục đích sử dụng nguồn vay hợp pháp; có phương án sử dụng vốn
vay khả thi.

 Đối tượng cho vay: tiền tệ ( nội tệ và ngoại tệ)

+ Chiết khấu:
Theo Khoản 19 Điều 4 Luật TCTD 2010: “Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn
hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá
khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán”
 Bản chất của chiết khấu giấy tờ có giá: kinh doanh kiếm lời.
 Chủ thể tham gia hoạt động chiết khấu:


Bên nhận chiết khấu: Ngân hàng thương mại, ngân hàng TW và
công ty tài chính ( Điều 98, 108 luật TCTD)



Bên chiết khấu: khách hàng (cá nhân , tổ chức) có nhu cầu chiết
khấu những nghĩa vụ trả tiền vay lại được chuyển giao cho người
thứ 3 ( người mắc nợ theo giấy tờ có giá) thực hiện; có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi đầy đủ;sở hữu hợp pháp giấy tờ có
giá chưa đến hạn thanh toán và được phép giao dịch.

 Hình thức pháp lí: Hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá thông qua hình

thức hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá (chứ không phải hợp đồng tín
dụng)
 Đối tượng chiết khấu: chỉ có giấy tờ còn thời hạn thanh toán ngắn hạn

( dưới 1 năm)
 Giá bán của giấy tờ có giá: bao giờ cũng thấp hơn giá trị của giấy tờ có


giá được mua bán.
 Luật áp dụng: do hoạt động chiết khất vừa là nghiệp vụ mua bán giấy tờ

có giá, đồng thời còn là một nghiệp vụ tín dụng nên hoạt động này
ngoài việc tuân thủ các quy tắc chung về hợp đồng mua bán giấy tờ có
giá còn phải chịu sự điều chỉnh hoạt động của pháp luật ngân hàng.
+ Cho thuê tài chính:
Điều 113 Luật TCTD:
5


“Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài chính và phải có một trong các điều kiện sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển quyền
sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu tiên mua
tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho thuê tại
thời điểm mua lại;
3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu
hao tài sản cho thuê đó;
4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất
phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng”
Như vậy, hoạt động cho thuê tài chính là 1 loại hoạt động được ký kết giữa bên cho
thuê và bên thuê về một giao dịch cho thuê tài chính.
 Hình thức: bao giờ cũng thể hiện bằng văn bản, tuân thủ các quy định của

pháp luật.
 Chủ thể tham gia:



Bên cho thuê: công ty cho thuê tài chính



Bên thuê: cá nhân, tổ chức hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng
tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình, bao gồm : cá nhân, tổ
chức thuộc đối tượng được vay vốn của các tổ chức tín dụng, các tổ
chức hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.

 Tài sản thuê: phải là động sản.
 Hợp đồng không được hủy ngang; thanh toán trọn vẹn.

+ Bao thanh toán:
Khoản 17 Điều 4 Luật TCTD: “Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên
bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các
khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ”
6


 Là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn. Hoạt động bao thanh toán dựa trên quan

hệ về mua bán quyền tài sản là quyền đòi nợ.
 Chủ thể:


Bên bao thanh toán: TCTD: NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần, NH
liên doanh, NH 100% vốn nước ngoài, chi nhánh NH nước ngoài,
công ty tài chính: phải được Nhà nước cho phép và tuân thủ các
nguyên tắc bảm đảm an toàn hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức

bao thanh toán.



Bên được bao thanh toán:tổ chức kinh tế Việt Nam và tổ chức kinh
tế nước ngoài cung ứng hàng hóa và được thụ hưởng các khoản phải
thu.

 Đối tượng: khoản thu phải được xác định là khoản tiền bê bán hàng được phép

thu từ bên mua hàng theo hợp đồng mua, bán nhưng người mua chưa đến hạn
phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
 Hình thức: thể hiện bằng văn bản, hợp đồng.

+ Bảo lãnh ngân hàng :
Khoản18 Điều 4 Luật TCTD: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận.”
 Hình thức cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng phải được thể hiện dưới dạng

văn bản. Tạo lập hai hợp đồng: hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo
lãnh/ cam kết bảo lãnh
 Đây là giao dịch “kép.”
 Bản chất pháp lí: là loại giao dịch thương mại (hành vi thương mại) đặc thù.
 Chủ thể:

7





Bên bảo lãnh: Công ty tài chính,ngân hàng thương mại, tổ chức tín
dụng : được nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh khách
hàng, có đăng kí kinh doanh nghiệp vụ bảo lãnh khách hàng.



Bên được bảo lãnh: mọi cá nhân, tổ chức có yêu cầu bảo lãnh cho
các nghĩa vụ tài sản của mình đối với bên có quyền, thường là các
chủ thể kinh doanh theo luật định, phải thỏa mãn những điều kiện:
có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; có mục đích hợp
pháp; có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh
trong thời gian cam kết; tuân thủ các quy định về quản lí ngoại hối
theo pháp luật.



Bên nhận bảo lãnh: là người có quyền hưởng thụ món nợ do người
được bảo lãnh thanh toán từ nghĩa vụ trong các hợp đồng hay các
nghĩa vụ thanh toán ngoài hợp đồng, phải thoat mãn những điều
kiện: có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; có các giấy
tờ, tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ trong
một nghĩa vụ cần được bảo đảm.

 Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể đơn phương hủy ngang.
 Là loại hình bảo lãnh vô điều kiện ( bảo lãnh độc lập)

+ Và các nghiệp vụ cấp dín dụng khác.

c. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm
thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng
thông qua tài khoản của khách hàng.
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là hình thức thanh toán qua các
trung gian. Việc chi trả không tiến hành trực tiếp giữa người chi trả với người thụ
hưởng mà thông qua việc ủy nhiệm cho các tổ chức trung gian thực hiện ( ngân
hàng, kho bạc nhà nước...) Tại đây, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán theo yêu

8


cầu của người thụ hưởng thu hộ số tiền mà người thụ hưởng được hưởng, việc chi
trả hộ hoặc thu hộ tiền như vậy mang tính chất là một loại dịch vụ.
Đối với dịch vụ thanh toán trong nước thực hiện bằng các thể thức thanh toán
như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng và thẻ ngân hàng. Đối với dịch vụ
thanh toán quốc tế thực hiện bằng các thể thức thanh toán như: thanh toán bằng thư
tín dụng, bằng séc thanh toán quốc tế, ủy nhiệm chi quốc tế, ủy nhiệm thu quốc tế,
bằng thẻ quốc tế và các thể thức thanh toán khác.
2. Đặc điểm của hoạt động ngân hàng:

Từ những quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng, ta có thể thấy hoạt
động ngân hàng có những đặc điểm sau:
-

Đối tượng của hoạt động ngân hàng là tiền tệ.

Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân dẫn đến ra đời nghề ngân hàng đó chính là
nhu cầu đổi tiền trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Tiền tệ là vật trung
gian trong trao đổi hàng hóa, thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Theo quy

định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tiền tệ bao gồm: tiền giấy, tiền kim loại và
các giấy tờ có giá như tiền. Như đã trình bày ở trên các hoạt động của ngân hàng
(Nhận tiền gửi;Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản) đều có
đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Đây là dấu hiện quan trọng để phân biệt hoạt động
kinh doanh ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác trong nền kinh tế như hoạt
động sản xuất kinh doanh hàng hóa, hoạt động kinh doanh dịch vụ đời sống.
-

Hoạt động ngân hàng chứa đựng những rủi ro cao và mang tính chất hệ thống
so với các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động ngân hàng mang tính chất
phức tạp và chứa đựng rủi ro nhiều hơn.

Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do hàng hóa của nó là tiền tệ-loại
hàng hóa có tính nhạy cảm và sức cuốn hút rất hớn do đó hoạt động ngân hàng chứa
đựng nhiều rủi ro
9


Hơn nữa hoạt động ngân hàng bao gồm các hoạt động kinh doanh, từ các nghiệp
vụ truyền thống như nhận tiền gửi, nhận ủy thác, chiết khấu, tín dụng ứng trước...cho
đến các nghiệp vụ hiện đại nhất như nghiệp vụ thẻ thanh toán, thuê mua nghiệp vụ
hoán đổi lãi suất và tỉ giá hối đoái, nên hoạt động ngân hàng mang tính chất phức tạp
hơn so với các hoạt động kinh doanh khác.
-

Mục đích của hoạt động ngân hàng là lợi nhuận. Và lãi suất là biểu hiện đặc
trưng của hoạt động ngân hàng.

Mục đích của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và hoạt động ngân
hàng đều hướng đến lợi nhuận. Song lợi nhuận của hoạt động ngân hàng được gọi là

lãi suất và cách thức cũng khác hẳn so với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Lãi suất ở đây thể hiện giá cả của khoản tiền mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải
trả khi tạm thời trao quyền sử dụng tiền của mình cho người khác. Khi sử dụng
khoản vay vào trong quá trình sản xuất - kinh doanh, người đi vay vốn sẽ thu được
lợi nhuận và một phần lợi nhuận đó được trả cho ngân hàng, phần lợi nhuận này là
giá cả quyền sử dụng khoản vay, hay còn gọi là lãi suất.
-

Hoạt động ngân hàng là loại hình kinh doanh có tính chất dài hạn, thường
xuyên diễn ra chu trình luân chuyển vốn.

Tín dụng ngân hàng tồn tại và phát triển trong quá trinh tuần hoàn và chu chuyển
tiền tệ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Trong quá trình này,
ngân hàng giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn, mở rộng
đầu tư và phát triển sản xuất thông qua việc cấp vốn đầu tư cho các dự án trung, dài
hạn... Song quá trình này còn làm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng có tính
chất dài hạn,thường xuyên diễn ra tích lũy vốn, sử dụng vốn, luân chuyển vốn từ các
nguồn đã huy động được.
-

Hoạt động ngân hàng chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và giám sát
nghiêm ngặt của Nhà nước.

10


Đặc thù này là hệ quả tất yếu của các đặc thù đã nêu trên. Nó xuất phát từ môi
trường kinh doanh của ngân hàng mà các yếu tố nội tại đã phát sinh yêu cầu cần phải
quản lí các ngân hàng và hoạt động ngân hàng bằng một hệ thuống pháp luật đầy đủ,
bằng việc thực hiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt.

3. Thực trạng về hoạt động ngân hàng ở Việt Nam và Giải pháp hoàn thiện:

Những hạn chế và bất cập thực tiễn:
Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, ngành ngân hàng Việt Nam đã
có những thay đổi bước ngoặt. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống ngân hàng
phù hợp với cơ chế thị trường. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã ổn định vĩ
mô, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, từng bước chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay số lượng số lượng các tố chức tín dụng tại Việt Nam so với các nước
phát triển trong khu vực và trên thế giới là và chênh lệch khá lớn ( số nhiều hơn).
Nhưng vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng tại Việt nam quá khiêm tốn. Từ đó
chúng ta thấy rằng: tuy số lượng ngân hàng nhiếu, nhưng vốn điều lệ quá nhỏ. Mặt
khác số lương khác hàng tiếp cận với ngân hàng chưa nhiều.
- Về môi trường pháp lý: môi trường pháp lý bất cập không thống nhất, không rõ
ràng. Đây cũng là rào cản việc tiếp cận vốn ngân hàng.
- Đối với ngân hàng: Hiện nay các ngân hàng đã cạnh tranh nhau phá thế độc quyền
ngân hàng trước đây. Nhưng nhìn chung khách hàng tiếp cận vốn ngân hàng vẫn khó
khăn nhất là những doanh nghiệp hạn chế về tài sản thế chấp, thủ tục hồ sơ rườm rà
và nhiều thủ tục khác...vẫn đang còn ảnh hưởng nền hành chính bao cấp trong vấn
đề quan hệ xã hội. Các hoạt động về dịch vụ ngân hàng còn nhiều bất cập còn mang
tính bán chuyên nghiệp. Tuy nhiều TCTD nhưng hoạt động vẫn mang tính chiến
lược ngắn hạn nhiều hơn, các TCTD vẫn mang tính chất tìm kiếm lợi nhuận trước
mắt, đối với chiến lược phát triển khách hàng các TCTD thường lôi kéo khách hàng
của nhau bằng mọi biện pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh làm rối loại thị
11


trường tiền tệ trong hệ thống ngân hàng. Giá cả huy động vốn, cho vay, dịch vụ là
quá cao so với các ngân hàng trong khu vực cũng như thế giới. Thủ tục hành chính
trong quan hệ giao dịch quá rườm rà, nhiêu khê . Hoạt động các tổ chức hoạt động

ngân hàng đặc biệt là NHTM thiếu tính đồng bộ, phối hợp mà vẫn mang tính " tự đột
phá cá nhân", ngoài mục tiêu là lợi nhuận nhằm phục vụ lợi ích của cổ đông nhiều
hơn là mục đích tăng trưởng tín dụng kích thích nền kinh tế phát triển.
Hoạt động Ngân hàng của Việt nam trong thời gian qua còn hạn chế bởi rủi
ro. Rủi ro tín dụng, Rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, Rủi ro thanh toán, Rủi ro do
thừa vốn, Rủi ro do thiếu vốn...
Mặc dù thời gian gần đây, ngân hàng đã tăng lãi suất nhưng vẫn có tình trạng
lạm phát và đã áp dụng linh hoạt mức lãi suất cho mỗi loại hình vay. Tuy nhiên ta
thấy, dù rằng hệ thống ngân hàng đang ngày càng phát triển và tiến bộ hơn nhưng
bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến những rủi ro hơn trong hoạt động kinh
doanh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Về mặt pháp luật :
Mặc dù Luật TCTD 2010 đã bắt đầu xây dựng nền tảng pháp lí quan trọng cho
hoanh động ngân hàng trong nền kinh tế hiện nay, đã sửa đổi bổ sung, nhưng do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một số quy định trong đạo luật này vẫn thể hiện
những rào cản đối với quá trình tự do hóa, công khai, minh bạch hóa hoạt động ngân
hàng. Các quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng vẫn còn thể hiện tư duy
quản lý hành chính cứng nhắc, thiếu sự linh hoạt cần thiết. Để thực thi các quy định
hiện hành về hoạt động ngân hàng, cả phía chính quyền và phía doang nghiệp đều
phải mất khá nhiều thời gian và chi phí cho việc làm thủ tục thẩm định hồ sơ và cấp
giấy phép thành lập, hoạt động ngân hàng.
Đề hạn chế những rủi ro cũng như hạn chế trên, em xin đưa ra một số
biện pháp giải quyết những rủi ro và hạn chế trên:

12


-

Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý và thực hiện tốt quy trình quản lý tín

dụng: khách hàng vay vốn phải có tư cách pháp nhân, thông tin rõ ràng, chính
xác,có tiềm năng tài chính mạnh để đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh
doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường, đây là điều kiện để đảm
bảo cho việc trả nợ vay cho các tổ chức hoạt động ngân hàng. Còn phía các tổ
chức hoạt động ngân hàng: cán bộ ngân hàng có năng lực, các nhà quản trị
điều hành có năng lực, kiểm sát giám sát...

-

Cần phải hiểu rõ cho vay là một nghệ thuật chứ không phải là một ngành khoa
học đơn thuần. Do đó phải đưa khía cạnh con nguwofi trong các ứng xử và
tâm lý và công tác đào tạo, tín dụng, lựa chọn và sử dụng các cán bộ vừa có
kỹ năng xử thế cỉa con người vừa có năng lực ký thuật.

-

Hơn nữa, do hoạt động ngân hàng có đối tượng là tiền tệ, nên vốn dĩ nó là loại
hình kinh doanh có độ rủi ro cao. Chính vì vậy phải có các tổ chức thực hiện
hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp thì mới có đủ điều kiện về vốn, trình độ
chuyên môn kĩ thuật và kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường để thực
hiện hoạt động ngân hàng này.

-

Trong thời gian tới việc hôi nhập càng sâu, rộng hơn. Lĩnh vực hoạt động
ngân hàng việc cạnh tranh rất khốc liệt. Nên để tồn tại và phát triển các ngân
hàng phải tự cứu mình như tăng vốn điều lệ, sáp nhập...mở rộng mạng lưới, đa
đạng hóa sản phẩm, nâng cao các chất lượng dịch vụ, chuyên nghiệp hóa hoạt
động ngân hàng . Để hoạt động ngân hàng thực sự lộng lực đòn bẩy thúc đẩy
nền kinh tế, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước Việt Nam phải quản lý điều tiết

hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng chính sách vĩ mô, công cụ về lãi suất
và các chính sách khác mạnh mẽ hơn và quyết liệt hơn. Có như vậy hoạt động
ngân hàng mới phát triển cạnh tranh lại với ngân hàng nước ngoài được Chính
phủ cho phép hoạt động tại Việt Nam.

13


-

Cần sửa đổi các quy định về cho thuê tài chính hiện hành theo hướng mở rộng
đối tượng cho thuê tài chính, bao gồm cả động sản và bất động sản để phù hợp
với thông lệ quốc tế về giao dịch cho thuê.

II. Khái niệm dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO:
1. Định nghĩa dịch vụ tài chính:

Dịch vụ tài chính( Financial Services) được xem là một hệ thống cấu thành
của loại hình dịch vụ mang tính chất thương mại hay loại dịch vụ kinh doanh có tính
chất thị trường bao gồm: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng
khoán, tư vấn đầu tư… Tuy thuật ngữ này đã được sử dụng khá phổ biến trên thế
giới nhưng hiện nay chưa có một định nghĩa chính xác thống nhất nào về dịch vụ tài
chính.
Năm 1997 các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO đã ký
kết một thoả thuận về dịch vụ tài chính như là một phần trong hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS) của WTO đã thừa nhận: một dịch vụ tài chính (DVTC)
là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính
cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến
bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm).
Ngay cả trong hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) hiện chưa có

định nghĩa nào về dịch vụ tài chính ngoài việc giải thích là “bất kỳ dịch vụ nào mang
tính chất tài chính được các nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp cho một nước
thành viên”. Trong Hiệp định GATS chỉ liệt kê 12 ngành dịch vụ lớn, trong đó, dịch
vụ tài chính được xếp trong phân ngành thứ 7 của bảng danh mục phân loại bao gồm
:
a – Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:
(i) Bảo hiểm trực tiếp (kể cả đồng bảo hiểm):
- nhân thọ
- phi nhân thọ
14


(ii) Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm;
(iii) Trung gian bảo hiểm, như môi giới và đại lý;
(iv) Dịch vụ phụ trợ cho bảo hiểm, như tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi ro và
dịch vụ giải quyết khiếu nại.
b –Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ dịch vụ bảo hiểm)
(v) Nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản tiền có thể thanh toán khác của công
chúng;
(vi) Cho vay dưới các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín dụng thế chấp, bao
tiêu nợ và tài trợ các giao dịch thương mại;
(vii) Thuê mua tài chính;
(viii) Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ thanh toán và
báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
(ix) Bảo lãnh và cam kết;
(x) Kinh doanh tài khoản của mình hoặc của khách hàng, dù tại sở giao dịch và trên
thị trường không chính thức, hoặc các giao dịch khác về:
- công cụ thị trường tiền tệ ( gồm séc, hóa đơn, chứng chỉ tiền gửi);
- ngoại hối;
- các sản phẩm tài chính phái sinh, bao gồm nhưng không hạn chế các hợp

đồng kỳ hạn (futures) hoặc hợp đồng chọn (options) ;
- các sản phẩm dựa trên tỷ giá hối đoái và lãi suất, gồm các sản phẩm như
hoán vụ (swarps), hợp đồng tỷ giá kỳ hạn;
- chứng khoán có thể chuyển nhượng;
15


-các công cụ có thể chuyển nhượng khác và tài sản tài chính, kể cả kim khí
quý.
(xi) Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh phát hành và
chào bán như đại lý ( dù công khai hoặc theo thỏa thuận riêng) và cung cấp dịch vụ
liên quan tới việc phát hành đó;
(xii) Môi giới tiền tệ;
(xiii) Quản lý tài sản , như tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư , mọi hình thức
quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, dịch vụ bảo quản, lưu giữ và tín thác;
(xiv) Các dịch vụ thanh toán và quyết toán tài sản tài chính, bao gồm chứng khoán,
các sản phẩm tài chính phái sinh và các công cụ thanh toán khác;
(xv) Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm
liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác;
....( theo phụ lục Phụ lục về các dịch vụ tài chính trong Hiệp định chung về thương
mại dịch vụ GATS)
Như vậy, mặc dù có một danh mục các dịch vụ tài chính rất chi tiết trong GATS
nhưng cho tới nay chúng vẫn chưa bao gồm hết các dịch vụ tài chính có thể xảy ra
trong thực tế.
2. Một số hiểu biết về dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO:

2.1. Các chủ thể tham gia trên thị trường DVTC.
a. Đối với chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính.
Cung cấp các loại dịch vụ tài chính là các doanh nghiệp tài chính hoạt động trên các
lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, tư vấn đầu tư… chủ thể này hoạt động

với nhiều hình thức sở hữu, cơ chế tạo vốn linh hoạt và vốn điều lệ phải đạt tối thiểu
so với vốn pháp định mà luật pháp quy định. Thêm vào đó, luật pháp kiểm soát chặt
chẽ bằng các quy định về điều kiện kinh doanh và các chỉ số an toàn tài chính khác
trong suốt quá trình hoạt động. Ngoài ra, sức mạnh về tài chính còn quyết định đến
16


quá trình đầu tư nâng cấp về cơ sở vật chất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng cho
các sản phẩm tài chính, đầu tư mở rộng mạng lưới hoạt động nhằm gia tăng sự tiện
ích cho khách hàng, đầu tư phát triển nguồn lực của doanh nghiệp…
b. Đối với các khách hàng là các chủ thể thụ hưởng các sản phẩm dịch vụ
tài chính.
Trên thị trường DVTC các đối tượng khách hàng tạo ra nhu cầu sử dụng các
sản phẩm dịch vụ tài chính bao gồm công chúng, doanh nghiệp và cả nhà nước.
Không có nhu cầu khách hàng thì sẽ không có dịch vụ phát sinh, mặt khác, chất
lượng dịch vụ tài chính cao hay thấp không chỉ phụ thuộc vào bản thân dịch vụ mà
còn do kỹ năng của người cung cấp dịch vụ và khả năng cảm thụ dịch vụ khách
hàng. Do vậy, để phát triển thị phần dịch vụ cung cấp của mình các doanh nghiệp
không chỉ nâng cao uy tín, độ tin cậy, khả năng tài chính mà còn phải nắm bắt nhu
cầu khách hàng thông qua việc thường xuyên khảo sát thị trường, hay có thể xây
dựng chính sách marketing để hoàn thiện và nâng cấp các sản phẩm dịch vụ tài
chính sẵn có đồng thời dự định cho ra đời những sản phẩm dịch vụ mới luôn là nhu
cầu cần thiết khách quan trong lĩnh vực cung cấp DVTC.
2.2 Giá cả dịch vụ tài chính:
Giá cả là một trong những nội dung cơ bản của thị trường DVTC. Khác với
hoạt động ngân hàng, giá cả đối với các dịch vụ tài chính có thể mang nhiều tên gọi
khác nhau tùy theo loại dịch vụ cung cấp như: Lãi suất, phí bảo hiểm, phí chuyển
tiền, hoa hồng môi giới, phí tư vấn…
Giá cả dịch vụ tài chính là nhân tố ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận, doanh thu
của doanh nghiệp tài chính và là một trong những vấn đề hàng đầu ảnh hưởng đến

chiến lược cạnh tranh thị trường cũng như biểu hiện chất lượng cao của dịch vụ.
Vấn đề chi phí là căn cứ quan trọng để xác định giá dịch vụ của các doanh nghiệp tài
chính. Chi phí để cung cấp một đơn vị dịch vụ là mức giá thấp nhất có thể chấp nhận
đối với nhà cung cấp trong dài hạn. Điều này tuỳ thụôc vào tình hình cạnh tranh trên
17


thị trường và cơ chế quản lý giá dịch vụ tài chính của Nhà nước cũng như lợi thế của
dịch vụ cung cấp mà hình thành chiến lược định giá khác nhau để thu hút khách
hàng.
Như vậy, giá cả DVTC cần linh hoạt, phù hợp với cung cầu về DVTC trên thị
trường. Giá cả có sức cạnh tranh cao trên cơ sở chi phí để sản xuất và quản lý dịch
vụ thấp là điều kiện để sản phẩm DVTC phát triển và có sức cạnh tranh.
2.3. Sự can thiệp của nhà nước đối với sự ổn định và phát triển của các
dịch vụ tài chính.
Trong quá trình phát triển của các dịch vụ tài chính, sự can thiệp của nhà nước
là rất cần thiết nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh giảm thiểu những tiêu
cực có thể phát sinh trong giao dịch tài chính mang lại sự ổn định chung cho toàn thị
trường. Để thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các tổ chức tài chính để
ngăn ngừa những hành vi kinh doanh phi pháp (rửa tiền, ăn cắp thông tin, giành giật
khách hàng một cách bất hợp pháp phá vỡ những nguyên tắc kinh doanh.. ) các nước
cần phải thông qua những bộ luật chế định cho hoạt động của các doanh nghiệp tài
chính như luật ngân hàng, luật bảo hiểm, luật chứng khoán, luật kế toán – kiểm toán;
Luật hối phiếu, luật séc cũng như luật cạnh, luật chống rửa tiền...
Bên cạnh đó, những chính sách liên quan đến hoạt động tài chính – tiền tệ như
lãi suất, tỉ giá, thuế… cũng cần được Nhà nước vận dụng linh hoat tạo cơ chế kiểm
soát các dòng vốn trên thị trường một cách hiệu quả.
Như vậy, theo quan điểm của WTO, nhà nước các quốc gia phải có sự can
thiệp nhất định vào trong các dịch vụ tài chính để kiểm tra, giám sát để hạn chế
những vi phạm trong kinh doanh và ngày càng ổn định và phát triển các dịch vụ tài

chính.
3. Vai trò của các dịch vụ tài chính:
- Dịch vụ tài chính góp phần tăng trưởng kinh tế .
18


Với sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ tài chính cũng như các dịch vụ tài
chính đã thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn từ đó, không chỉ góp phần đáp ứng nhu
cầu vốn cho các doanh nghiệp trong các loại dịch vụ như DV ngân hàng, DV chứng
khoán, tham gia bảo toàn vốn với các dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu giao dịch
thanh toán như các DV thanh toán qua ngân hàng … mà còn giải quyết nhu cầu đầu
tư cho ngân sách quốc gia. Mặt khác, các dịch vụ tài chính còn là đem lại nguồn thu
đáng kể cho ngân sách quốc gia, hàng năm đã đóng góp một phần nguồn thu thuế
đáng kể cho ngân sách thành phố.
-

Dịch vụ tài chính góp phần gia tăng tiện ích trong đời sống xã hội.
Xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của người dân được nâng cao nhu cầu

về quản lý tài sản cá nhân, bảo hiểm rủi ro cho sinh mạng và tài sản đã trở thành một
nhu cầu khách quan. Từ đó mà những dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch
vụ quản lý tài sản, các dòng sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ…
ngày càng được đa dạng hơn để đáp ứng yêu cầu của người dân. Các dịch vụ tài
chính cũng đã dẫn áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trang thiết bị tiên tiến
để góp phần nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính ngày càng hoàn hảo để đáp
ứng tốt nhất nhu cầu ngày càng cao của công chúng.
-

Dịch vụ tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.


Một mặt, nó loại bỏ dần hàng rào bảo hộ các quốc gia, tạo môi trường cạnh tranh
trên thị trường làm cho giá thành sử dụng loại hình dịch vụ này giảm đáng kể, tạo
điều kiện thu hút nguồn đầu tư nước ngoài qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế... Sự
đa dạng, phong phú của các loại dịch vụ tài chính đã giúp cho nhà đầu tư có nhiều cơ
hội lựa chọn nhằm phân tán rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác, việc mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính cũng tạo ra những khó khăn, đối với nhiều nước đang phát
triển.
-

Dịch vụ tài chính góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế.

19


Sự phát triển của dịch vụ tài chính đã tạo nhịp cầu kết nối với các dòng vốn quốc
tế một cách nhanh chóng trong tiến trình hội nhập. Ngoài những hình thức của đầu
tư trực tiếp như: liên doanh, liên kết, mua cổ phần….dịch vụ tài chính còn tạo điều
kiện để thúc đẩy các dòng vốn đầu tư gián tiếp thông qua các dịch vụ chứng
khoán….Từ đó mà các dịch vụ tài chính đã phát sinh mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu
khách hàng từ thanh toán, bảo lành, đồng tài trợ, thuê mua đến hối đoái.
4. Thực trạng về khái niệm dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO và giải

pháp hoàn thiện:
Việc bố trí phân ngành trên cho thấy ngoài 2 nhóm ngành khác cụ thể là dịch
vụ ngân hàng và dịch vụ bảo hiểm, sự có mặt của “các dịch vụ tài chính khác” đã
cho thấy tính đa dạng, phong phú và phức tạp của dịch vụ tài chính. Đồng thời nói
lên cách phân ngành mang tính chất mở của WTO nghĩa là: bất kỳ dịch vụ nào đang
tồn tại hoặc các dịch vụ mới sẽ xuất hiện trong tương lai dù không được liệt kê trong
danh mục WTO cũng sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS nếu những dịch vụ này
được cung cấp trên cơ sở thương mại. Điều này nhằm tạo cơ hội dễ dàng cho các

nước khi tham gia vào WTO. Đây là điểm tích cực trong quan điểm WTO.
Song dù khái niệm dịch vụ tài chính đã khá phổ biến trên thế giới cũng như
đối với người dân Việt Nam nhưng hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa chính xác
thống nhất về dịch vụ tài chính. Ví như ở VN, thuật ngữ dịch vụ tài chính đã xuất
hiện khá thường xuyên trên các diễn đàn kinh tế và trong chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội từ 2001-2010 của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu
rõ:
- Mở rộng các dịch vụ tài chính- tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán…
- Từng bước hình thành các trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực.

20


Và một định nghĩa đầy đủ trong các văn bản pháp quy liên quan đến các hoạt
động tài chính thì chưa được công bố chính thức mà chỉ được đề cập tản mạt trong
các bộ Luật về ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…
Mặt khác, cách nhận thức của ta về loại dịch vụ tài chính vẫn còn chưa đầy đủ
so với thông lệ quốc tế đặc biệt là mảng dịch vụ ngân hàng. Như vậy, dễ dẫn đến
tình trạng hiểu sai lệch dịch vụ ngân hàng nói riêng và dịch vụ tài chính nói chung.
Hơn nữa, vì chưa có một định nghĩa chung về dịch vụ tài chính nên có khá nhiều
quan điểm không thống nhất. Ví như chỉ xem xét hoạt động dịch vụ tài chính trên
góc độ gắn kết với hoạt động của thị trường tài chính là chưa đủ thuyết phục. Như
vậy, dịch vụ tài chính là quá hẹp so với khái niệm mà nó vốn có.Vì vậy mà chúng ta
cần phải xem xét khái niệm dịch vụ tài chính với góc nhìn đầy đủ hơn, đó là một bộ
phận của thị trường dịch vụ của nền kinh tế. Nên giải pháp cần thiết ở đây là WTO
cần đàm phán để đưa ra định nghĩa thống nhất về dịch vụ tài chính, tránh tình trạng
hiểu thiếu, hiểu sai về các loại dịch vụ tài chính.
DVTC tạo nên những dòng lưu chuyển tiền tệ nên xu thế quốc tế hóa thị
trường DVTC được xem là một trong những yếu tố chiến lược nhằm phát triển thị
trường này. Như vậy, mỗi quốc gia cần phải có sự chủ động, có kế hoạch và lộ trình

để hợp nhập hiệu quả trong lĩnh vực tài chính, thúc đẩy các chính sách vĩ mô nâng
cao hiệu quả vừa tạo cơ hội để các doanh nghiệp tài chính vươn ra thế giới.
Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường này dễ dẫn đến một số bất lợi nếu doanh
nghiệp tài chính trong nước chưa đủ lực, bối cảnh cạnh tranh làm cho những phân
khúc thị trường sẽ gay gắt và ẩn chứa nhiều rủi ro hơn…Vì vậy, sẽ là cần thiết nếu
quá trình quốc tế hóa DVTC được thực hiện thận trọng, về trình tự cải cách và lộ
trình mở cửa, phù hợp với tình hình ở mỗi quốc gia.
Ngoài ra, để góp phần giúp cho việc đánh giá hiệu quả các hoạt động tài chính trên
thị trường đồng thời góp phần giảm những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình đầu
tư tài chính thì các dịch vụ kế toán – kiểm toán và tư vấn tài chính cũng có thể xem
là một bộ phận phụ trợ quan trọng của thị trường dịch vụ tài chính.
21


Theo phụ lục về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn quyền áp dụng các
biện pháp phòng ngừa, chẳng hạn để bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền và người
mua bảo hiểm, để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính.
III. Mối quan hệ giữa hoạt động ngân hàng trong Luật TCTD với dịch vụ tài
chính theo quan điểm WTO:
Theo như đã phân tích ở trên, hoạt động ngân hàng theo Luật TCTD 2010 thì chỉ
cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
- Nhận tiền gửi ( một hình thức huy động vốn)
- Cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là hình thức thanh toán qua các
trung gian. Thể thức thanh toán như: séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng
và thẻ ngân hàng hay thanh toán bằng thư tín dụng, bằng séc thanh toán quốc tế, ủy
nhiệm chi quốc tế, ủy nhiệm thu quốc tế, bằng thẻ quốc tế và các thể thức thanh toán
khác
Còn dịch vụ tài chính bao gồm:

- Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm: Bảo hiểm trực tiếp;
Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm; Trung gian bảo hiểm, như môi giới và đại lý;
Dịch vụ phụ trợ cho bảo hiểm, như tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi ro và
dịch vụ giải quyết khiếu nại.
- Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (trừ dịch vụ bảo hiểm)
+ Nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản tiền có thể thanh toán khác
của công chúng; Cho vay dưới các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu dùng, tín
dụng thế chấp, bao tiêu nợ và tài trợ các giao dịch thương mại;
+Thuê mua tài chính;

22


+Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán và báo nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng; Bảo lãnh và cam
kết;
+Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả bảo lãnh
phát hành và chào bán như đại lý, Môi giới tiền tệ; Quản lý tài sản , như tiền
mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư , mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể,
quản lý quỹ hưu trí, dịch vụ bảo quản, lưu giữ và tín thác;
+Các dịch vụ thanh toán và quyết toán tài sản tài chính, Cung cấp và
chuyển thông tin về tài chính, xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm liên quan
của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác;...
Có nghĩa là dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO bao gồm cả dịch vụ bảo
hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác; còn hoạt động ngân hàng
theo Luật TCTD thì chỉ là các hoạt động trong dịch vụ ngân hàng trong khái niệm
dịch vụ tài chính. Bởi dịch vụ tài chính ngoài dịch vụ ngân hàng ra còn có dịch vụ
bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác như: môi giới tiền tệ, chứng khoán, dịch vụ
bảo quản, lưu trữ và tín thác... Như vậy, dịch vụ tài chính theo quan điểm của WTO
bao hàm của hoạt động ngân hàng theo Luật TCTD.

Dịch vụ tài chính theo quan điểm WTO mở rộng hơn rất nhiều so với hoạt
động ngân hàng của Luật TCTD về lĩnh vực, chủ thể, đối tượng...Lĩnh vực dịch vụ
của dịch vụ tài chính ở đây không chỉ còn là dịch vụ ngân hàng nữa mà là dịch vụ
bảo hiểm, các dịch vụ tài chính khác. Hơn nữa, Việt Nam cũng có Cam kết về các
dịch vụ tài chính khi gia nhập WTO thì những quy định của pháp luật Việt Nam
cũng phải thực hiện theo nguyên tắc áp dụng trong WTO.
* Cam kết của Việt Nam về các dịch vụ tài chính khi gia nhập WTO ở các phân
ngành dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán và dịch vụ ngân hàng. Nhìn chung
các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính này đều rất chặt chẽ, phù hợp với
pháp luật Việt nam, có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển
của ngành bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng ở Việt Nam. Với mức độ tự do hóa
23


thị trường khá cao theo cam kết WTO, sẽ có nhiều tác động tới hoạt động cung cấp
dịch vụ tài chính, cụ thể:
- Cùng với việc mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ
năng chuyên ngành;
- Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, công ty bảo hiểm nước
ngoài; các công ty chứng khoán, ngân hàng mới cũng như công ty chứng khoán và
ngân hàng nước ngoài khiến thị trường sôi động hơn, góp phần thúc đẩy năng lực
cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước.
Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm,
chứng khoán hay ngân hàng cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với công ty
trong nước, đó là:
- Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường.
- Các công ty trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh lớn với các công ty bảo
hiểm nước ngoài.
- Mức độ tập trung thị trường cao dễ dẫn đến hiện tượng thông đồng giữa các công
ty bảo hiểm lớn, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường, gây thiệt hại

cho các công ty vừa và nhỏ.
C.

KẾT LUẬN
Trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật, việc chuẩn hóa khái niệm hoạt

động ngân hàng có tác dụng lớn trong việc xác định phạm vi áp dụng đạo luật điều
chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động
ngân hàng và các dịch vụ tài chính càng ngày càng được phát triển mạnh mẽ để đáp
ứng nhu cầu của con người trong xã hội mới. Thông qua bài viết trên đây: “Tìm hiểu
khái niệm hoạt động ngân hàng theo luật TCTD với khái niệm dịch vụ tài chính theo
quan điểm WTO” Chúng ta phần nào thấy được những quy định về hoạt động ngân
24


hàng cũng như hiểu rõ hơn về dịch vụ tài chính. Từ đó, có cái nhìn xác thực hơn về
khái niệm hoạt động ngân hàng và dịch vụ tài chính.

25


×