Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Hãy tìm hiểu hai (02) vụ việc có thật có liên quan đến việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về mặt hình thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.86 KB, 24 trang )

Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

1


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Bài tập nhóm số 1
Luật dân sự 1
Nhóm 1 N06 TL1
Hãy tìm hiểu hai (02) vụ việc có thật có liên quan đến việc tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu về mặt hình thức?

MỤC LỤC
trang
2


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Mở đầu

4

Cơ sở lý luận



4

Vụ việc thực tế

6

A, Vụ việc thứ nhất

6

I, Tóm tắt, phân tích vụ việc.

6

II, Phân tích, nhận xét quyết định của Tòa án
III, Quan điểm giải quyết vụ việc của nhóm
IV, Đánh giá các quy định có liên quan đã được áp dụng để giải quyết
vụ việc.
B, Vụ việc thứ hai
I, Tóm tắt, phân tích vụ việc.

7
8
8
9
9

II, Phân tích, nhận xét quyết định của Tòa án
III, Quan điểm giải quyết vụ việc của nhóm

IV, Đánh giá các quy định có liên quan đã được áp dụng để giải quyết
vụ việc.

Phụ lục

10
13
14
17

A, Vụ việc thứ nhất

17

B, Vụ việc thứ hai

21

Mở đầu
3


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Trong giao dịch dân sự, nhằm đảm bảo lợi ích công cộng, sự quản lý của nhà nước,
lợi ích của các bên tham gia hợp đồng cũng như lợi ích của người khác, pháp luật quy
định hợp đồng liên quan đến tài sản lớn phải được thể hiện dưới một dạng hình thức
nhất định.

Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản
có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy
định đó.
Tuy nhiên trong nhiều vụ việc các bên vẫn tiến hành tạo lập và thực hiện các hợp
đồng dân sự nhưng hợp đồng này không tuân thủ chính xác các yêu cầu bắt buộc của
pháp luật về hình thức. Những hợp này mặc nhiên được xác định là vô hiệu và kéo theo
là các hậu quả pháp lý tất yếu khi hợp đồng vô hiệu.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu
quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng
mắc. Việc nắm vững và hiểu rõ về giao dịch dân sự vô hiệu có ý nghĩa rất quan trọng
với trong cả thực tiễn và lý luận. Chính vì vậy nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài: “Hãy
tìm hiểu hai vụ việc có thật có liên quan đến việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
về mặt hình thức?”.

Cơ sở lý luận
1. Giao dịch dân sự:
Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lý (hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa
phương – một bên hay nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lý. Tùy từng giao dịch cụ
thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao dịch là hành vi
có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch dân sự là
hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ
nhất định.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu
Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ mỗi bên và được
Nhà nước bảo đảm thực hiện. Vì vậy, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch đã không
tuân thủ một số nguyên tắc mà pháp luật đã quy định về việc có hiệu lực của giao dịch
thì sẽ bị vô hiệu.
3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
“1- Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
từ thời điểm xác lập.

2- Khi giao dịch dân sự vô hiệu, thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả
bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Tuỳ từng trường hợp, xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và
hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật”.
4


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Giao dịch dân sự vô hiệu không làm pháp sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm giao kết
Như vậy khi giao dịch vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ. Nếu hợp đồng chỉ mới xác lập mà chưa thực hiện thì các bên
không được phép thực hiện, còn trường hợp đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện
nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì các bên xử lí tài sản.
Khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
Theo pháp luật Việt Nam khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, các bên phải khôi phục
tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng
hiện vật thì hoàn trả bằng tiền.
Thực tế ở nước ta cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực sự
đảm bảo lợi ích của các chủ thể. Điển hình đối với các giao dịch có đối tượng là nhà,
quyền sử dụng đất. Việc xử lí hậu quả giao dịch vô hiệu càng trở nên phức tạp hơn
trong trường hợp bên nhận tài sản đã sửa chữa, cải tạo tài sản đó hay nói cách khác là
làm tăng giá trị của tài sản đó.
Bồi thường thiệt hại.
Khi giao dịch bị vô hiệu, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Như vậy để buộc
một bên bồi thường thì chúng ta phải xác định đủ 2 yếu tố: một là yếu tố có lỗi, hai là

thực tế phải tồn tại thiệt hại.
Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi. Bên bồi thường chỉ phải bồi thường
thiệt hại do phần lỗi của mình gây ra.
3. Giao dịch vô hiệu về mặt hình thức
Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự vô hiệu, nếu không được thể
hiện bằng văn bản, không được Công chứng nhà nước chứng nhận, không được chứng
thực, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức
của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô
hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ
những giao dịch, hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải
có chứng nhận, chứng thực…mà các bên không tuân thủ mới bị vô hiệu. Khi các bên có
yêu cầu thì Tòa án xem xét và buộc các bên thực hiện về hình thức giao dịch trong một
thời hạn. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất được các quy định trong thời hạn
đó thì giao dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.

5


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Vụ việc thực tế
A, Vụ việc thứ nhất
Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003 (phụ lục trang 17)
I, Tóm tắt, phân tích vụ việc.
Trong Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003 giải quyết vụ việc tranh
chấp hợp đồng mua bán nhà giữa Bà Trần Thị Ngọc Hiền và các con bà Hiền; Bà Trần

Thị Lý; Trần Thanh Bình; Trần Văn Nghĩa; Trần Thị Giàu; Trần Văn Hùng; tất cả đều
uỷ quyền cho bà Trần Thị Lệ với Ông Trần Văn Thọ và vợ là bà Phan Thị Hồng Hoa.
Vụ án diễn ra trong khoảng thời gian từ tháng 9/1999 đến khi có định số
18/2003/HĐTP-DS ngày 30/5/2003. Như vậy toàn bộ sự việc sẽ được giải quyết theo bộ
luật dân sự năm 1995 và các văn bản liên quan có hiệu lực trong khoảng thời gian này.
Xét thấy tranh chấp trong vụ án xoay quanh hợp đồng mua bán căn nhà 2/7 khu phố 3
(khi ấy là sở hữu của ông Trần Văn Lung) với giá 2,4 tỷ đồng cho vợ chồng ông Thọ, bà
Hoa. Tuy nhiên hợp đồng này chưa qua Công chứng theo quy định. Như vậy theo
điều 433 BLDS 1995 hợp đồng mua bán nhà ở này vô hiệu về mặt hình thức.
Tranh chấp xảy ra khi 2 bên đang thực hiện hợp đồng. Ông Thọ khởi kiện ông ông
Lung (18/4/2000) yêu cầu ông Lung phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà đất cho
mình sau đó mới tiếp tục giao tiền như hợp đồng. 1/11/2000 ông Thọ rút đơn kiện để
yêu cầu Ủy ban nhân dân quận 7 giải quyết. Sự việc chưa được giải quyết thì ông Lung
chết (10/5/2000) những người hưởng thừa kế của ông Lung lập giấu ủy quyền cho bà Lệ
giải quyết tranh chấp nhà đất nói trên với ông Thọ.
22/11/200 bà Lệ kiện ông Thọ tại Toà án yêu cầu ông Thọ tiếp tục thực hiện hợp
đồng mua bán nhà với ông Lung, yêu cầu ông Thọ phải trả số tiền còn lại và lãi suất
chậm trả trên số tiền đó. Ông Thọ cho rằng nhà đất của ông Lung phần lớn chưa được
hợp pháp hoá quyền sở hữu nên yêu cầu phía bà Lệ làm xong thủ tục chuyển quyền sở
hữu nhà đất, thì ông Thọ mới trả nốt số tiền còn lại; nếu không thì xin huỷ hợp đồng
mua bán nhà và yêu cầu phía bà Lệ trả lại ông số tiền 1,4 tỷ đồng cùng với lãi suất và
tiền sửa chữa nhà hết 100 triệu đồng. Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì số tiền còn lại
là 1 tỷ đồng ông sẽ trả khi án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, việc hợp đồng phải kéo
dài là do ông không đủ tiền trả cho ông Lung, hai bên có ra Ngân hàng vay tiền theo
thoả thuận nhưng ngân hàng không cho vay đủ 1 tỷ đồng và do ông Lung đòi lãi suất
cho số tiền ông chưa trả quá cao.
Ngày 12-11-2001, bà Muội là mẹ ông Lung chết, các con của bà Muội (em của ông
Lung) gồm: Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn
Hùng là người hưởng thừa kế của bà Muội, đã lập hợp đồng uỷ quyền cho bà Lệ giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với ông Lung.

Như vậy vụ việc có thể quy về một tranh chấp dân sự giữa bên bên nguyên đơn đại
diện là bà Lệ và bên bị là vợ chồng ông Thọ bà Hoa. Tranh chấp xoay quanh hợp đồng
6


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

mua bán nhà lập bởi ông Lung và ông Thọ bà Hoa. Dù hợp đồng có khá nhiều điều
khoảng và nhiều tình tiết phát sinh phức tạp nhưng có thể thấy do khi lập hợp đồng ông
Lung và ông Thọ không tiến hành Công chứng theo quy định pháp luật nên hợp đồng
này mặc nhiên đã vô hiệu.

II, Phân tích, nhận xét quyết định của Tòa án
1, Tòa sơ thẩm Tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh và Toà Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 151/DSST ngày 24-01-2002, Tòa án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Lệ theo uỷ quyền của các nguyên đơn: Trần Thị
Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị
Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn
Hùng.
- Hủy hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 giữa ông Trần Văn Lung với ông
Trần Văn Thọ và bà Phan Thị Hồng Hoa.
Ông Lung chết tháng 05-2000, bà Muội mẹ ông Lung chết tháng 11-2001.
- Buộc ông Thọ, bà Hoa có trách nhiệm giao nhà 2/7 khu phố 3, đường liên tỉnh 15
(nay là đường Huỳnh Tấn Phát) phường Bình Thuận, quận 7 cùng khuôn viên đất cho
các đồng thừa kế của ông Lung gồm: Trần Thị Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần
Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh

Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn Hùng do bà Lệ đại diện nhận.
Các đồng thừa kế của ông Lung, do bà Lệ đại diện có trách nhiệm giao trả ông Thọ
1.103.404.350 đồng, giao nhà và tiền thực hiện cùng một lúc, hạn chót ngày 24-042002. Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 30-01-2002, ông Thọ kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-05-2002, Toà Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định giữ nguyên các quyết định
của Bản án sơ thẩm.
Nhận xét: Có thể thấy theo những phân tích ở về vụ việc thì hợp đồng mua bán nhà
đất giữa 2 bên ông Lung và vợ chồng ông bà Thọ, Hoa là hợp đồng vô hiệu. Theo
BLDS 1995:
Điều 443. Hình thức hợp đồng mua bán nhà ở
Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có chứng nhận của Công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.
Như vậy hợp đồng trên không tuân thủ theo quy định về mặt hình thức bắt buộc đối
với hợp đồng mua bán nhà ở vì vậy đây là 1 hợp đồng vô hiệu về mặt hình thức. Nay bà
Lệ đại diện cho các thừa kế của ông Lung yêu cầu hủy hợp đồng này. Bởi vậy quyết
định tuyên bố hủy hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 giữa ông Trần Văn Lung
7


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

với ông Trần Văn Thọ và bà Phan Thị Hồng Hoa của tòa sơ thẩm cũng như việc giữ
nguyên quyết định sơ thẩm của tòa phúc thẩm là hợp lý. Việc áp dụng Điều 146 BLDS
1995 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng là thỏa đáng và có căn cứ.
2, Kháng nghị của VKSNDTC và quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC.
Tại quyết định 33/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 18/4/2003 viện trưởng viện kiểm sát

đã kháng nghị Bản án phúc thẩm với quan điểm hoàn toàn đồng tính về việc xử lý hợp
đồng vô hiệu tuy nhiên yêu cầu xác định lại lỗi của ông Lung. Theo đó thứ nhất ông
Lung bán nhà thuộc sở hữu của vợ chồng nhưng chưa có sự đồng ý của vợ là bà Hiền;
thứ 2 ông Lung cam kết căn nhà và đất không có tranh chấp kiếu nại gì dù phần lớn đất
chưa có giấy tờ công nhận quyền sử dụng. Ngoài ra còn yêu cầu xem xét đến sự trượt
giá ngoại tê do 2 bên có thanh toán bằng đô la mỹ và việc định giá nhà đất so với số tiền
phía bà Lệ phải trả cho ông Thọ là chưa thỏa đáng.
Tuy nhiên có thể thấy quan điểm của viện kiểm sát là chưa chính xác. Điều này đã
được quyết định Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003 của Hội đồng
Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao khẳng định.
Mặc dù vợ ông Lung không ký hợp đồng nhưng không hề có ý kiến phản đối mà còn
yêu cầu ông Thọ thực hiện hợp đồng với chồng mình nên không có căn cứ ông Lung
bán đất trái ý bà Hiền. Căn nhà và khu đất được ông Lung đảm bảo không có tranh chấp
dù chưa có đủ giấy tờ công nhận quyền sử dụng và thực tế không hề có ai tranh chấp.
Như vậy không có căn cứ xác định lỗi của ông Lung.
Có thể thấy rõ ông Thọ là người vi phạm hợp đồng, có lỗi không thanh toán theo thỏa
thuận; mặt khác hợp đồng này vô hiệu về mặt hình thức nên việc áp dụng Điều 146
BLDS 1995 là hoàn toàn thích hợp.

III, Quan điểm giải quyết vụ việc của nhóm
Theo những phân tích trên có thể thấy giải quyết vụ việc của Tòa sơ thẩm Tòa án
nhân dân Tp Hồ Chí Minh, Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ
Chí Minh cũng như quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC là hoàn toàn chính
xác. Nhóm chúng em hoàn toàn đồng tình các giải quyết của Tòa sơ thẩm Tòa án nhân
dân Tp Hồ Chí Minh cũng như Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh và quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Vụ việc liên quan đến hợp đồng dân sự về mua bán nhà đất tuy nhiên không công
chứng theo luật định ( Điều 443 BLDS 1995 ) bởi vậy hợp đồng vô hiệu về mặt hình
thức. Khi có tranh chấp liên quan đến việc thực hiên hợp đồng Tòa án tuyến bố hủy hợp
đồng và áp dụng Điều 146 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.


IV, Đánh giá các quy định có liên quan đã được áp dụng để giải quyết
vụ việc.
Trong vụ việc nêu trên được giải quyết chủ yếu căn cứ theo điều 443 và điều 146
BLDS 1995.
8


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Điều 443. Hình thức hợp đồng mua bán nhà ở
Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có chứng nhận của Công
chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền
Điều 146. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1- Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên
từ thời điểm xác lập.
2- Khi giao dịch dân sự vô hiệu, thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn
trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Tuỳ từng trường hợp, xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và
hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Do những hạn chế nhất định cũng như tình hình thực tế và các văn bản pháp luật liên
quan lúc đó những quy đinh trong 2 điều luật này nói riêng và BLHS 1995 nói chung
vẫn còn nhiều điểm chưa thật sự phù hợp.Vào thời điểm năm 1999 Nghị định 31/CP
18/5/1996 về công chứng chứng thực vẫn còn có hiệu lực và không công nhận các hình
thức công chứng tư do vậy hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có
chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có
thẩm quyền.

Tuy nhiên khi hình thức công chứng tư được pháp luật thừa nhận quy định này đã
được đơn giản hóa tại điều 450 BLDS 2005
Ðiều 450. Hình thức hợp đồng mua bán nhà ở
Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng
thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tại điều 450 các nhà làm luật cũng dự trù các trường hợp hợp đồng mua bán nhà ở
không cần công chứng, chứng thực nhưng do có quy định khác của pháp luật mà vẫn
thỏa mãn hình thức hợp đồng ( quy định tại khoản 3 điều 93 Luật Nhà ở).
Điều 146 BLDS 1995 qui định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu tương
đối đầy đủ chính xác và hợp lý so137 BLHS 2005 cũng không có sự khác biệt lớn.

B, Vụ việc thứ hai
Trích tờ trình Viện kiểm sát nhân dân tối cao về vụ kiện: "Tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất " Rút hồ sơ theo đơn khiếu nại của nguyên đơn
(bà Nguyễn Thị Liên) đối với bản án phúc thẩm số 107/DSPT ngày 31/8/2000 của
Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hà Nội.(phụ lục trang 21)

I, Tóm tắt, phân tích vụ việc
Trong vụ việc này ông Thái đã tự ý chuyển nhượng 271m2 đất với giá 14.500.000đ
cho 4 người cụ thể: (anh Phú 47m2 với giá 2.000.000đ; chị Tụ 50m2 giá 2.300.000đ;
anh Tùng 96m2 giá 4.000.000đ; anh Cẩn78m2 giá 6.500.000đ). 271m2 đất này thuộc sở
9


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

hữu chung của 2 vợ chồng ông Thái, bà Liên tuy nhiên việc chuyển nhượng này không
được sự đồng ý của bà Liên.

Như vậy cả 4 bản hợp đồng này đều có sai phạm về nội dung. Theo khoản 3 điều 233
BLDS 1995 thì tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cần có sự bàn bạc thống nhất
hoặc uỷ quyền cho nhau khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; trong trường
hợp này là quyền sử 271m2 đất ông Thái đã tự ý chuyển nhượng mà không có sự đồng
ý của vợ - bà Liên.
Thứ hai, cả 3 trong 4 bản hợp đồng các bên ký với ông Thái không được xác nhận
của chính quyền địa phương theo quy định pháp luật :
Điều 707. BLDS 1995 Hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản. Việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phải
được làm thủ tục và đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Như vậy các bản hợp đồng trên vô hiệu cả về nội dung và hình thức.
Sau khi ông Thái chuyển quyền sử dụng anh Phú, chị Tụ, anh Tùng đã tiến hành xây
dựng trên diện tích đất này ( chỉ có anh Cẩn vẫn giữ nguyên trạng).
Ngày 16/3/1997 bà Liên đã có đơn khởi kiện yêu cầu những người mua đất phải trả
lại đất vì đó là tài sản chung của vợ chồng, ông Thái không có quyền tự mình định đoạt.
Nay bà đề nghị Tòa án giải quyết buộc 4 hộ trên phải trả lại đất cho bà.
Các đồng bị đơn (anh Tùng, anh Cẩn, chị Tụ, chị Lan) đề nghị giữ nguyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu hủy hợp đồng thì bà Liên phải thanh toán theo
giá trị định giá thực tế.

II, Phân tích, nhận xét quyết định của tòa án
1, Tòa sơ thẩm Toà án nhân dân huyện Hoài Đức, Tòa phúc thẩm Toà án nhân
dân tỉnh Hà Tây, bản án giám đốc thẩm TANDTC.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 30/8/1997 của Toà án nhân dân
huyện Hoài Đức đã xử:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 30/8/1997 của Toà án nhân dân huyện
Hoài Đức đã xử:
1. Hủy bỏ hợp đồng giao dịch mua quyền sử dụng đất giưa ông Ngô Văn Thái đối với

chị Phan Thị Tụ, anh Nguyễn Hưng Cẩn, anh Nguyễn Hưng Tùng và anh Nguyễn Phan
Phú.
2. Buộc ông Ngô Văn Thái phải thanh toán trả số tiền đã nhận cho:
Chị Phan Thị Tụ 2.300.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 6.500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 4.300.000đ; Anh Nguyễn Phan Phú 2.000.000đ
Chị Tụ, anh Cẩn, anh Tùng phải di chuyển tài sản của mình đi nơi khác sau khi nhận
được tiền của ông Thái thanh toán.
3. Bà Liên phải thanh toán tiền bồi thường thiệt hại tài sản cho các anh chị sau:
10


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Anh Tùng 200.000đ;Anh Cẩn 250.000đ; Chị Tụ 100.000đ
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự phúc thẩm số 108/DSPT ngày 28/11/1997 của Toà án nhân dân
tỉnh Hà Tây đã xử: Sửa bản án sơ thẩm cụ thể:
1. Xác định các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản giữa ông Ngô
Văn Thái với chị Phan Thị Tụ, anh Nguyễn Hưng Cẩn, anh Nguyễn Hưng Tùng,
Nguyễn Phan Phú là vô hiệu.
2. Buộc ông Ngô Văn Thái, và bà Nguyễn Thị Liên phải thanh toán trả số tiền đã
nhận cho:
Chị Phan Thị Tụ 2.300.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 6.500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 4.300.000đ; Anh Nguyễn Phan Phú 2.000.000đ
3. Buộc chị Tụ, anh Cẩn, anh Tùng phải di chuyển tài sản của mình đi nơi khác để trả
lại đất cho ông Thái, bà Liên.
4. Buộc vợ chồng ông Thái bà Liên phải bồi thường thiệt hại về công xây dựng, công
phá dỡ tài sản và các nguyên liệu xây dựng không thu hồi được cho:

Chị Phan Thị Tụ 2.200.667đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 1.220.800đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 229.333đ.
5.Buộc bà Liên phải bồi thường thiệt hại của những bức tường bị phá cho:
Chị Phan Thị Tụ 200.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 400.000đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí theo quy định của pháp luật
Sau khi xét xử phúc thẩm các đồng bị đơn có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản
án theo thủ tục giám đôc thẩm.
Ngày 10/12/1998 Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Kháng nghị số
158/DS đối với bản án phúc thẩm nêu trên; với nội dung án sơ thẩm và phúc thẩm xử
hủy các hợp đồng mua bán trên là đúng, tuy nhiên khi giải quyết hợp đồng vô hiệu, án
phúc thẩm lại buộc bà Liên cùng chịu trách nhiệm liên đới để thanh toán các khoản mua
bán đất giữa ông Thái và các anh, chị Tụ, Tùng, Cẩn, Phú là không đúng.
Bản án giám đốc thẩm số 150 ngày 22/5/1999, Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao
quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Tây xét xử theo thủ tục sơ thẩm.
Nhận xét: Cả 2 bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều khẳng định các bản hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản giữa ông Ngô Văn Thái với chị Phan Thị
Tụ, anh Nguyễn Hưng Cẩn, anh Nguyễn Hưng Tùng, Nguyễn Phan Phú là vô hiệu, và
tuyên hủy các bản hợp đồng trên. Điều này là chính xác bởi ta có thấy rõ các bản hợp
đồng này vô hiệu về cả nội dung và hình thức.
Tuy nhiên việc áp dụng Điều 146 BLDS 1995 về hậu pháp lý của giao dịch dân sự
vô hiệu thì có sự khác nhau.
11


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1


Bản án sơ thẩm áp dụng điều 146 yêu cần các bên khôi phục hiện trạng trước khi giao
dịch. Và yêu cần bà Liên bồi thường thiệt hại tài sản cho Anh Tùng 200.000đ;Anh Cẩn
250.000đ; Chị Tụ 100.000đ. Quyết định này chính xác khi yêu cầu các bên khôi phúc
hiện trạng trước giao dịch nhưng bà Liên phải bồi thường thiệt hại tài sản là không có
căn cứ. Thứ nhất các hợp đồng này đều do ông Thái lập khi không có mặt bà Liên,
không có sự nhất trí của bà. Thứ hai việc các bên lập các bản hợp đồng vô hiệu về hình
thức cũng không do lỗi của bà Liên.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Tùng, chị Tụ, anh Cẩn kháng cáo với nội dung án sơ
thẩm không ấn định thời gian trả tiền và hội đồng định giá đất là 120.000đ/m 2 nhưng
cấp sơ thẩm chỉ buộc ông Thái trả lại số tiền mua bán ban đầu là chưa thỏa đáng, đồng
thời án cấp sơ thẩm buộc các anh, chị dỡ nhà và công trình phụ mà không thanh lý là
không đúng.
Bản án phúc thẩm đã xác định vợ chồng bà Liên ông Thái bồi thường thiệt hạivề công
xây dựng, công phá dỡ tài sản và các nguyên liệu xây dựng không thu hồi được cho: Chị
Phan Thị Tụ 2.200.667đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 1.220.800đ; Anh Nguyễn Hưng Tùng
229.333đ. B
buộc bà Liên phải bồi thường thiệt hại của những bức tường bị phá cho: Chị Phan Thị
Tụ 200.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 500.000đ; Anh Nguyễn Hưng Tùng 400.000đ.
Như đã trình bày ở trên các bản hợp đồng về hình thức không theo mẫu quy định, không
có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Về nội dung nguồn gốc tài sản thuộc
quyền sở hữu chung của vợ chồng ông Thái, bà Liên, khi định đoạt, ông Thái không bàn
bạc, trao đổi thống nhất với bà Liên, đã tự ý đứng tên bán tài sản chung của vợ chồng là
không hợp pháp. Tuy nhiên án phúc thẩm khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu
lại buộc bà Liên cùng chịu trách nhiệm liên đới để thanh toán các khoản mua bán đất
giữa ông Thái và các anh chị Tụ, Tùng, Cẩn, Phú là không đúng.
Việc kháng nghị của phó chánh án TANDTC vàq uyết định hủy 2 bán án sơ thẩm,
phúc thẩm của bản án giám đốc thẩm là chính xác và có căn cứ.
2, Tòa án sơ thẩm tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân
dân tối cao tai Hà Nội
Bản án số 03/DSST ngày 31/12/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây đã quyết

định:
- Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Liên đòi hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông
Ngô Văn Thái với anh Nguyễn Phan Phú, anh Nguyễn Hưng Tùng, anh Nguyễn Hưng
Cẩn, chị phan Thị Tụ, với tổng diện tích đất đã chuyển nhượng là 271m2 nằm trong
thửa đất có diện tích 500m2 của ông Thái , bà Liên tại xóm Độc Lập, xã La Phù, huyện
Hoài Đức, Hà Tây.
Anh Phú, anh Tùng, anh Cẩn, chị Tụ phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng đất theo
quy định của pháp luật.
12


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Tụ, anh Tùng, anh Cẩn không yêu cầu bà Liên bồi
thường thiệt hại tài sản.
Ngoài ra bản án còn quyết định về những vấn đề khác, tiền án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 14/01/2000, bà Liên có đơn khiếu nại yêu cầu xem xét lại án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 107/DSPT ngày 31/8/2000 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tai Hà Nội, áp dụng Điều 69 khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự định:
Xử y án sơ thẩm.
Nhận xét: Qua các phân tích vụ việc có thể thấy các hợp đồng đồng chuyển nhượng
đất giữa ông Ngô Văn Thái với anh Nguyễn Phan Phú, anh Nguyễn Hưng Tùng, anh
Nguyễn Hưng Cẩn, chị phan Thị Tụ, với tổng diện tích đất đã chuyển nhượng là 271m2
nằm trong thửa đất có diện tích 500m2 của ông Thái , bà Liên mặc nhiên vô hiệu cả về
nội dung lẫn hình thức. Bởi vậy quyết định bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Liên đòi hủy
hợp đồng là không chính xác. Việc ông Thái chuyển nhượng không quá quyền tự định

đoạt của ông là không đúng, không theo quy định tại Điều 15 Luật HNGĐ năm 1986 và
khoản 3 Điều 233 BLDS năm 1995.

III, Quan điểm giải quyết vụ việc của nhóm.
Qua những phân tích trên nhóm chúng em đồng ý với quyết định sơ thẩm của Toà án
nhân dân huyện Hoài Đức về việc xác định các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông
Ngô Văn Thái với anh Nguyễn Phan Phú, anh Nguyễn Hưng Tùng, anh Nguyễn Hưng
Cẩn, chị phan Thị Tụ là vô hiệu và tuyên hủy các hợp đồng này. Tuy nhiên không đồng
tình với cách xác định lỗi và liên đới trách nhiệm trong bồi thường thiệt hại.
Theo nhóm chúng em việc buộc bà Liên cùng chịu trách nhiệm liên đới để thanh toán
các khoản mua bán đất giữa ông Thái và các anh chị Tụ, Tùng, Cẩn, Phú là không đúng.
Đề xuất do nhóm đưa ra là tuyên các bản hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Ngô
Văn Thái với anh Nguyễn Phan Phú, anh Nguyễn Hưng Tùng chị phan Thị Tụ là vô
hiệu và tuyên hủy các hợp đồng này. Với hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Thái
và anh Cẩn cần có sự xem xét kỹ hơn.
Theo trình bày của anh Cẩn ngày 12/5/1996, ông Thái viết giấy chuyển nhượng 54m2
đất cho anh Tạ Công Ba với giá 4.500.000đ được UBND xã La Phù xác nhận ngày
13/5/1996. Sau đó anh Ba chuyển nhượng lại cho anh sử dụng vào tháng 5/1996 cũng
với giá 4.500.000đ. Ngày 26/7/1996, ông Thái tiếp tục viết giấy chuyển nhượng 24m2
đất cho anh với giá 2.000.000đ, việc chuyển nhượng chưa có xác nhận của chính quyền
địa phương.
Việc chuyển nhượng 24m2 đất với giá 2.000.000đ không có xác nhận của chính
quyền địa phương giữa ông Thái và anh Cẩn là vi phạm pháp luật về mặt hình thức. Tuy
nhiên với 54m2 đất ông Thái viết giấy chuyển nhượng cho anh Tạ Công Ba với giá
13


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1


4.500.000đ được UBND xã La Phù xác nhận ngày 13/5/1996. Sau đó anh Ba chuyển
nhượng lại cho anh sử dụng vào tháng 5/1996 cũng với giá 4.500.000đ. Cần xem xét
đến trường hợp anh Cẩn là người thứ 3 ngay tình. Về hình thức hợp đồng giữa ông Thái
và anh Ba hoàn toàn phù hợp các quy định về pháp luật, và nếu anh Cẩn không biết việc
chuyển nhượng đất của ông Thái cho anh Ba có sự vi phạm về nội dung cùng với việc
hợp đồng chuyển nhượng giữa anh Ba và anh Cẩn là hợp pháp thì anh Cẩn có thể là
người thứ 3 ngay tình trong trường hợp này.
Điều 147 BLDS1995. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vô hiệu
Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, nhưng tài sản giao dịch đã được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình, thì giao dịch với người thứ
ba vẫn có hiệu lực; nếu tài sản giao dịch bị tịch thu, sung quỹ nhà nước hoặc trả lại
cho người có quyền nhận tài sản đó, thì người thứ ba có quyền yêu cầu người xác lập
giao dịch với mình bồi thường thiệt hại.
Theo điều 147 BLDS 1995 anh Cẩn nếu là người thứ 3 ngay tình có quyền yêu cầu
anh Ba bồi thường thiệt hại khi các hợp đồng chuyển nhượng này bị tuyên vô hiệu.
Các bản hợp đồng bị tuyên vô hiệu phía ông Thái phải thanh toán trả số tiền đã nhận
cho: Chị Phan Thị Tụ 2.300.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 6.500.000đ; Anh Nguyễn
Hưng Tùng 4.300.000đ; Anh Nguyễn Phan Phú 2.000.000đ. Phía bị đơn giao trả lại
nguyên trạng đất cho vợ chồng ông Thái bà Liên.
Về việc xác định lỗi, nhóm chúng em cho rằng ông Thái tự ý định đoạt việc chuyển
nhượng quyền sử dụng mảnh đất thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi vợ là bà Liên
vắng mặt và không được sự đồng ý thống nhất của bà là sai. Việt ông lập các bản hợp
đồng như đã nêu trên vi phạm pháp luật về cả mặt hình thức lẫn nội dung cũng là lỗi của
ông Thái. Việc xác định lỗi nhằm mục đích xác định người có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại. Như vậy ông Thái phải bồi thường thiệt hại về công xây dựng, công
phá dỡ tài sản và các nguyên liệu xây dựng không thu hồi được cho bên bị.
Về việc xác định trách nhiệm liên đới đối với bà Liên theo nhóm chúng em là không
có căn cứ. Tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng ông Thái, bà Liên, khi định

đoạt, ông Thái không bàn bạc, trao đổi thống nhất với bà Liên, đã tự ý đứng tên bán tài
sản chung của vợ chồng là không hợp pháp. Và các bản hợp đồng lập ra vô hiệu cũng
hoàn toàn không có lỗi của bà Liên. Vì vậy theo chúng em bà Liên không phải chịu
trách nhiêm liên đới trong vụ việc này.

IV, Đánh giá các quy định có liên quan đã được áp dụng để giải quyết
vụ việc.
Trong vụ việc thứ hai ngoài liên quan đến điều 146 BLDS 1995 như đã trình
bày ở vụ việc thứ nhất, còn liên quan đến 2 quy định :

14


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Điều 707 BLDS 1995. Hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Uỷ ban nhân dân
cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai.
Điều 233 BLDS 1995. Sở hữu chung của vợ chồng
1- Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2- Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công
sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung.
3- Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4- Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thoả thuận hoặc theo
quyết định của Toà án.
Có thể thấy điều 707 BLDS 1995 quy định khá cụ thể về hình thức hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất nhưng có sự chồng chéo, trùng lặp khi
những yêu cầu hình thức này cũng tương tự và đã được quy định tại điều 691
BLDS và giống với các quy định tại điều 701.
BLDS 2005 đã gộm nhưng quy đinh riêng về hình thứ hợp đồng vào điều
689 trong phần nhưng quy định chung về quyền sử dụng đất.
Ðiều 689. Hình thức chuyển quyền sử dụng đất
1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Ðiều này.
2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
3. Việc thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các
điều từ Ðiều 733 đến Ðiều 735 của Bộ luật này.
Về quy định sở hữu chung của vợ chồng đã tương đối hoàn thiện và cũng
không có thay đổi lớn ở điều 219 BLDS 2004 Quy định về sở hữu chung vợ
chồng.

15


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1,Giáo trình luật dân sự 1
Đại học Luật Hà Nội, NXB CNND
2,Bộ luật dân sự năm 1999, 2005

3,Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
94,Luật Nhà ở ( sửa đổi bổ sung 2009)
5,Tập chí luật hoc số 6/2000 về trách nhiệm liên đới trong bồi thường thiệt
hại.
6,Luật văn trách nhiệm liên đới về bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp
đồng.
7, Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu


8, Luật đất đai 1993

16


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

PHỤ LỤC

A, Vụ việc thứ nhất.
Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003
Về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Tại phiên toà ngày 30-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng mua
bán nhà giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
- Bà Trần Thị Ngọc Hiền, sinh năm 1957 và các con bà Hiền là Trần Thị Ngọc Diệp;
Trần Thị Ngọc Chi; Trần Thị Ngọc Hiếu; Trần Thị Bích Trâm (đều do bà Hiền giám
hộ); cùng trú tại số 4 khu phố II, phường Tân Thuận Tây, quận 7, thành phố Hồ Chí

Minh.
- Bà Trần Thị Lý; Trần Thanh Bình; Trần Văn Nghĩa; Trần Thị Giàu; Trần Văn
Hùng; tất cả đều uỷ quyền cho bà Trần Thị Lệ trú tại số 11/4B khu phố 1, phường Phú
Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn:
Ông Trần Văn Thọ và vợ là bà Phan Thị Hồng Hoa; cùng trú tại số 1B khu A khu
phố 1, phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Trần Thanh Xuân và chị Mai Lan Robetts cư trú tại Australia, ủy quyền cho anh
Thọ.
NHẬN THẤY: Diện tích 120m2 nhà trên diện tích 1.199m2 đất tại số 2/7 khu phố 3,
đường liên tỉnh lộ 15 (nay là đường Huỳnh Tấn Phát), phường Bình Thuận, quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh là sở hữu của ông Trần Văn Lung. Ông Lung có vợ là bà Trần
Thị Ngọc Hiền. Trong diện tích nhà đất nói trên mới chỉ có 120m2 nhà trên 170m2 đất
là có giấy tờ, phần đất còn lại chưa được hợp thức hoá quyền sử dụng do ông Lung mua
lại của người khác, nhưng chưa hoàn tất thủ tục mua bán.
Ngày 24-09-1999, ông Lung thoả thuận bán căn nhà 2/7 khu phố 3 nói trên cho vợ
chồng ông Thọ, bà Hoa với giá 2,4 tỷ đồng. Dù chưa lập hợp đồng, nhưng ông Thọ đã
giao cho ông Lung 360 triệu đồng. Ngày 26-09-1999, ông Lung giao toàn bộ nhà đất
cho ông Thọ sử dụng. Việc giao nhà hai bên có làm “tờ giao nhận” trong đó có nội
dung: “trong thời gian ông Lung chưa nhận đủ số tiền còn lại (theo hợp đồng bán nhà),
mọi chi phí sửa chữa ông Lung hoàn toàn không bồi thường gì cả”. Sau đó, phía ông
Thọ tiếp tục trả thêm cho phía ông Lung tổng cộng là 1,08 tỷ đồng (trong đó có số tiền
51.000USD do em ông Thọ là anh Xuân và chị Mai Lan gửi trả từ Australia).
17


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1


Tháng 12-1999, ông Thọ và ông Lung mới cùng nhau lập hợp đồng mua bán nhà đất
nêu trên. Nội dung ông Lung bán nhà 2/7 khu phố 3 cho ông Thọ với giá 2,4 tỷ đồng,
thanh toán tiền mua bán nhà làm 2 đợt:
Đợt 1: 1,4 tỷ đồng.
Đợt 2: Tính từ ngày 24-09-1999 đến ngày 24-12-1999, bên ông Thọ phải thanh toán
tiếp số tiền còn lại là 1 tỷ đồng. Nếu đến hạn mà bên ông Thọ không đủ tiền thanh toán
thì hai bên sẽ cùng nhau thế chấp căn nhà đang mua bán để vay 1 tỷ đồng trả cho ông
Lung. Trong khi làm thủ tục vay thì ông Thọ phải chịu lãi suất bằng 5% trên số tiền 1 tỷ
và phần lãi này sẽ trừ dần vào 1,4 tỷ đồng tiền đặt cọc. Bên ông Thọ phải chịu chi phí
sang tên, thuế trước bạ và các khoản lệ phí khác... Bên bán cam kết nếu nhà đất có tranh
chấp thì bên bán chịu trách nhiệm. Hợp đồng này chỉ có ông Lung, ông Thọ ký và Uỷ
ban nhân dân phường Bình Thuận xác nhận chữ ký của hai ông, chứ chưa phải là xác
nhận tình trạng tài sản chuyển dịch và chưa qua Công chứng theo quy định.
Thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 04-12-1999, phía ông Thọ mới giao cho ông Lung
51.000USD và 430 triệu đồng (làm 3 lần BL 84, 85, 86). Phía ông Thọ cho rằng lần thứ
4 giao cho ông Lung 320 triệu đồng, nhưng không làm biên nhận. Điều này không được
nguyên đơn thừa nhận. Sau đó, ông Thọ cũng không trả thêm tiền cho ông Lung, không
thiết lập hợp đồng mua bán nhà đất theo quy định với lý do ông Lung không cùng ông
Thọ lo thủ tục mua bán nhà đất đó. Ngày 18-04-2000, ông Thọ khởi kiện tại Toà án
nhân dân quận 7 yêu cầu ông Lung phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà đất cho
ông Thọ, sau đó, ông Thọ sẽ trả hết số tiền còn lại là 1 tỷ đồng. Ngày 01-11-2000, ông
Thọ xin rút đơn khởi kiện ông Lung tại Tòa án để yêu cầu Uỷ ban nhân dân quận 7 giải
quyết hợp đồng nêu trên. Sự việc chưa được giải quyết thì ngày 10-05-2000 ông Lung
chết. Những người hưởng thừa kế của ông Lung gồm: bà Muội là mẹ ông Lung; bà
Hiền là vợ cùng các con của ông Lung gồm: Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi,
Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm. Ngày 01-11-2002, bà Hiền cùng các con
của ông Lung lập giấy uỷ quyền cho bà Lệ giải quyết tranh chấp nhà đất nói trên với
ông Thọ. Ngày 22-11-2000, bà Lệ khởi kiện ông Thọ tại Toà án yêu cầu ông Thọ tiếp
tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà với ông Lung, yêu cầu ông Thọ phải trả số tiền còn

lại và lãi suất chậm trả trên số tiền đó. Ông Thọ cho rằng nhà đất của ông Lung phần
lớn chưa được hợp pháp hoá quyền sở hữu nên yêu cầu phía bà Lệ làm xong thủ tục
chuyển quyền sở hữu nhà đất, thì ông Thọ mới trả nốt số tiền còn lại; nếu không thì xin
huỷ hợp đồng mua bán nhà và yêu cầu phía bà Lệ trả lại ông số tiền 1,4 tỷ đồng cùng
với lãi suất và tiền sửa chữa nhà hết 100 triệu đồng. Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì
số tiền còn lại là 1 tỷ đồng ông sẽ trả khi án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, việc hợp
đồng phải kéo dài là do ông không đủ tiền trả cho ông Lung, hai bên có ra Ngân hàng
vay tiền theo thoả thuận nhưng ngân hàng không cho vay đủ 1 tỷ đồng và do ông Lung
đòi lãi suất cho số tiền ông chưa trả quá cao.
18


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

Ngày 12-11-2001, bà Muội là mẹ ông Lung chết, các con của bà Muội (em của ông
Lung) gồm: Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn
Hùng là người hưởng thừa kế của bà Muội, đã lập hợp đồng uỷ quyền cho bà Lệ giải
quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với ông Lung.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 151/DSST ngày 24-01-2002, Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Lệ theo uỷ quyền của các nguyên đơn: Trần Thị
Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị
Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn
Hùng.
- Hủy hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 giữa ông Trần Văn Lung với ông
Trần Văn Thọ và bà Phan Thị Hồng Hoa.
Ông Lung chết tháng 05-2000, bà Muội mẹ ông Lung chết tháng 11-2001.
- Buộc ông Thọ, bà Hoa có trách nhiệm giao nhà 2/7 khu phố 3, đường liên tỉnh 15

(nay là đường Huỳnh Tấn Phát) phường Bình Thuận, quận 7 cùng khuôn viên đất cho
các đồng thừa kế của ông Lung gồm: Trần Thị Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần
Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh
Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn Hùng do bà Lệ đại diện nhận.
Các đồng thừa kế của ông Lung, do bà Lệ đại diện có trách nhiệm giao trả ông Thọ
1.103.404.350 đồng, giao nhà và tiền thực hiện cùng một lúc, hạn chót ngày 24-042002. Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 30-01-2002, ông Thọ kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-05-2002, Toà Phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định giữ nguyên các quyết định
của Bản án sơ thẩm.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nói
trên tại Quyết định số 33/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 18-04-2003 với nhận xét: Việc
Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với
ông Thọ, bà Hoa là hợp đồng vô hiệu là đúng. Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm mới chỉ
xác định lỗi của ông Thọ mà chưa xem xét lỗi của ông Lung là bán nhà thuộc sở hữu
của vợ chồng mà chưa có sự đồng ý của bà Hiền; ông Lung còn cam kết căn nhà và đất
không có tranh chấp, khiếu nại gì nhưng phần lớn đất chưa có giấy tờ công nhận quyền
sử dụng. Trong tổng số 1,08 tỷ đồng phía ông Thọ trả cho ông Lung có 5 l.000 đô la Mỹ
nhưng khi buộc phía bà Lệ trả lại cho ông Thọ thì Bản án sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem
xét đến sự trượt giá của đồng đô la Mỹ là không đúng. Đồng thời giá trị nhà, đất theo
định giá là 7.385.963.200 đồng, nhưng Bản án sơ thẩm, phúc thẩm chỉ buộc phía bà Lệ
trả lại cho ông Thọ 1,08 tỷ đồng là gây thiệt hại cho ông Thọ. Đề nghị Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử huỷ cả hai Bản án sơ thẩm, phúc thẩm nói trên,
giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.
19


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1


XÉT THẤY:Diện tích nhà đất tại 2/7 khu phố 3, đường Huỳnh Tấn Phát, phường
Bình Thuận, quận 7 thuộc sở hữu của ông Trần Văn Lung (BL 92, 88, 43, 38, 36, 63) và
mới chỉ được hợp thức hoá diện tích 219,24m2 nhà trên diện tích 170m2 trong tổng số
1.199m2 đất (BL 36, 37). Toàn bộ diện tích đất này ông Lung mua của ông Nhãn từ
năm 1991 (BL 63) và hiện không có tranh chấp. Mặc dù bà Hiền là vợ ông Lung không
ký hợp đồng mua bán nhà với ông Thọ nhưng bà Hiền không những không có ý kiến
phản đối mà còn yêu cầu ông Thọ thực hiện hợp đồng đã ký với ông Lung (BL 61, 62),
nên không có căn cứ cho rằng ông Lung bán nhà đất mà không được sự đồng ý của bà
Hiền như lập luận trong kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tại hợp đồng
mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ lập tháng 12-1999 chỉ quy định: “Bên A (ông
Lung) chịu trách nhiệm căn nhà và khu đất trên không tranh chấp, khiếu nại” (BL 45)
và thực tế, sau khi ký hợp đồng mua bán cũng không có ai tranh chấp. Dù vậy, phía bà
Lệ còn chủ động lập bản đồ hiện trạng nhà đất để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông
Thọ (BL 43) nên không có căn cứ cho rằng ông Lung có lỗi.
Cũng tại hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 quy định ông Thọ phải thanh
toán cho ông Lung 1,4 tỷ đồng vào ngày 24-09-1999, số tiền còn lại thanh toán đợt 2 là
1 tỷ đồng vào ngày 24-12-1999. Tuy ông Thọ khai đã trả cho ông Lung 1,4 tỷ đồng,
nhưng thực tế, ông Thọ mới chỉ giao cho ông Lung được 1,08 tỷ đồng (BL 84, 85, 86);
phần còn lại, ông Thọ không thanh toán.
Đối với số tiền còn lại (tại BL 107) ông Thọ khai: “gia đình ông vẫn có thiện chí tiếp
tục mua bán nhà nhưng do tiền bạc bị trục trặc nên không thực hiện đúng hạn thoả
thuận...”. “Số tiền thanh toán đợt 2 là 1 tỷ, ông đồng ý tính theo cách tính của bà Lệ là 1
tỷ vốn + 160 triệu đồng lãi chậm trả trong hạn 3 tháng” (BL 94).
Như vậy, ông Thọ là người vi phạm thoả thuận về điều khoản thanh toán, mặc dù tại
đơn khởi kiện (BL 61) và các lời khai ban đầu của bà Lệ (BL 94, 88), bà Lệ chỉ yêu cầu
ông Thọ tiếp tục thực hiện hợp đồng, chịu lãi trên số tiền chậm trả nhưng ông Thọ vẫn
hẹn thanh toán sau 3 tháng. Đồng thời, bà Lệ còn yêu cầu ngày 19-06-2000 ông Thọ
cũng có mặt tại Uỷ ban nhân dân phường Bình Thuận để xác định nguồn gốc nhà đất
nhằm lập thủ tục mua bán nhà đất theo qui định, nhưng ông Thọ từ chối.

Như vậy, bản thân ông Thọ là người có lỗi không thanh toán theo thoả thuận và hợp
đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ bị vô hiệu về mặt hình thức. Nay bà Lệ
đại diện cho các thừa kế của ông Lung yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán nhà giữa ông
Lung với ông Thọ. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 151/DSST ngày 24-01-2002 của Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-052002 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã áp
dụng Điều 146 Bộ luật Dân sự để xử hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông
Thọ là có căn cứ.
Đối với khoản tiền 51.000 đô la Mỹ do bà Lệ nhận từ phía ông Thọ giao thì các bên
đã thống nhất quy đổi và tính trong tổng số 1,08 tỷ đồng tiền ông Thọ đã trả lần thứ nhất
20


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

nên bản án sơ thẩm và phúc thẩm không đặt vấn đề xem xét khoản ngoại tệ đó một cách
độc lập là đúng. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận những nội dung nêu trong Kháng
nghị số 33/KN-VKSTC- KSXXDS ngày 18-04-2003 của Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao.
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự, QUYẾT ĐỊNH: Giữ nguyên hiệu lực Bản án dân sự phúc thẩm số 119/DSPT ngày
30-05-2002 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ bác kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao Bản án sơ thẩm
và phúc thẩm xác định lỗi giữa hai bên mua bán và xử huỷ hợp đồng mua bán nhà giữa
họ là đúng.

B, Vụ việc thứ hai
Trích tờ trình Viện kiểm sát nhân dân tối cao về vụ kiện: "Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất " Rút hồ sơ theo đơn khiếu

nại của nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Liên) đối với bản án phúc thẩm số
107/DSPT ngày 31/8/2000 của Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao
tại thành phố Hà Nội.
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Liên, sinh năm 1942;
Trú tại: Xóm Độc Lập, xã La Phù, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội.
Bị đơn:
1. Anh Nguyễn Phan Phú, sinh năm 1962;
2. Anh Nguyễn Hưng Tùng, sinh năm 1963;
3. Anh nguyễn Hưng Cẩn, sinh năm 1964;
Đều trú tại: Xóm Độc Lập, xã La Phù, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội.
4. Chị Phan Thị Tụ, sinh năm 1971;
Trú tại: Đội 2, xã Tiền Phong, huyện Thường Tín, TP Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Ngô Văn Thái (chồng bà Liên), sinh năm 1940;
Trú tại: Xóm Độc Lập, xã La Phù, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội.
Tóm tắt nội dung vụ án:
Trình bày của nguyên đơn ( bà Liên): Bà và ông Ngô Văn Thái (chồng bà) có một
nhà ngói 4 gian và công trình phụ trên diện tích 527m2 đất ở xóm Độc Lập, xã La Phù,
huyện Hoài Đức, Hà Tây ( nay là TP Hà Nội).
Năm 1986, do mâu thuẫn vợ chồng, bà cùng 3 con đi xây dựng kinh tế mới ở Lâm
Đồng, toàn bộ tài sản ở nhà do ông Thái quản lý. Đến năm 1995, 1996 ông Thái đã tự ý
chuyển nhượng 271m2 đất với giá 14.800.000đ cho 4 người cụ thể: (anh Phú 47m2 với
giá 2.000.000đ; chị Tụ 50m2 giá 2.300.000đ; anh Tùng 96m2 giá 4.000.000đ; anh
21


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1


Cẩn78m2 giá 6.500.000đ). 4 hộ mua quyền sử dụng đất của bà thì có chị Tụ xây nhà
ngói 2 gian lợp ngói + công trình phụ; anh Cẩn xây nhà 2 gian + giếng khoan, anh Tùng
xây tường bao cao 30cm, riêng anh Phú vẫn giữ nguyên hiện trạng. Ngày 16/3/1997 bà
ở Lâm Đồng về đã có đơn khởi kiện yêu cầu những người mua đất phải trả lại đất vì đó
là tài sản chung của vợ chồng, ông Thái không có quyền tự mình định đoạt. Nay bà đề
nghị Tòa án giải quyết buộc 4 hộ trên phải trả lại đất cho bà. (BL 02, 17).
Trình bày của các bị đơn:
- Chị Phan Thị Tụ trình bày: Ngày 31/8/1995 chị mua của ông Thái 50m2 đất với giá
2.000.000đ ( có làm giấy viết tay, không thông qua chính quyền địa phương). Chị đã đổ
đất làm 2 gian nhà, bếp, bể nước, sân, tường bao, tổng chi phí hết 20.400.000đ. (BL 15).
- Anh Nguyễn Hưng Tùng trình bày: Tháng 10/1995 anh mua quyền sử dụng đất của
ông Thái, diện tích 96m2 giá trị 4.000.000đ; được UBND xã La Phù xác nhận ngày
05/11/1995, anh đã xây tường bao hết 1.000.000đ. (BL 20).
- Đồng bị đơn chị Nguyễn Thị Lan (vợ của anh Nguyễn Phan Phú ) trình bày: gia
đình chị mua quyền sử dụng đất của ông Thái vào tháng 02/1995 với diện tích là 47m2
giá trị 2.000.000đ ( có giấy viết tay, có người làm chứng, nhưng chưa có xác nhận của
chính quyền địa phương). (BL 19).
- Anh Nguyễn Hưng Cẩn trình bày: Ngày 12/5/1996, ông Thái viết giấy chuyển
nhượng 54m2 đất cho anh Tạ Công Ba với giá 4.500.000đ được UBND xã La Phù xác
nhận ngày 13/5/1996. Sau đó anh Ba chuyển nhượng lại cho anh sử dụng vào tháng
5/1996 cũng với giá 4.500.000đ. Ngày 26/7/1996, ông Thái tiếp tục viết giấy chuyển
nhượng 24m2 đất cho anh với giá 2.000.000đ, việc chuyển nhượng chưa có xác nhận
của chính quyền địa phương. (BL 16, 109).
Các đồng bị đơn (anh Tùng, anh Cẩn, chị Tụ, chị Lan) đề nghị giữ nguyên hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nếu hủy hợp đồng thì bà Liên phải thanh toán theo
giá trị định giá thực tế. ( BL 23, 110, 111).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Văn Thái trình bày: Ông nhất trí với
lời trình bày của nguyên đơn ( bà Liên) và các bị đơn ( chị Tụ, chị Lan, anh Tùng, anh
Cẩn), trong khi bà Liên cùng các con đi tỉnh Lâm Đồng khai hoang, ở nhà ông đã bán
271m2 quyền sử dụng đất cho các anh Phú, anh Tùng, anh Cẩn, chị Tụ, trị giá

14.500.000đ, số tiền trên ông dùng để xây dựng nhà mái bằng 36m2 trên diện tích đất
còn lại. Ông đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông và những người
mua đất. ( BL 18, 98, 112).
Quá trình xét xử của Toà án:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 30/8/1997 của Toà án nhân dân huyện
Hoài Đức đã xử:
1. Hủy bỏ hợp đồng giao dịch mua quyền sử dụng đất giưa ông Ngô Văn Thái đối với
chị Phan Thị Tụ, anh Nguyễn Hưng Cẩn, anh Nguyễn Hưng Tùng và anh Nguyễn Phan
Phú.
22


Đại học Luật Hà Nội

Nhóm 1 N06 TL1

2. Buộc ông Ngô Văn Thái phải thanh toán trả số tiền đã nhận cho:
Chị Phan Thị Tụ 2.300.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 6.500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 4.300.000đ; Anh Nguyễn Phan Phú 2.000.000đ
Chị Tụ, anh Cẩn, anh Tùng phải di chuyển tài sản của mình đi nơi khác sau khi nhận
được tiền của ông Thái thanh toán.
3. Bà Liên phải thanh toán tiền bồi thường thiệt hại tài sản cho các anh chị sau:
Anh Tùng 200.000đ;Anh Cẩn 250.000đ; Chị Tụ 100.000đ
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, anh Tùng, chị Tụ, anh Cẩn kháng cáo với nội dung án sơ
thẩm không ấn định thời gian trả tiền và hội đồng định giá đất là 120.000đ/m2 nhưng
cấp sơ thẩm chỉ buộc ông Thái trả lại số tiền mua bán ban đầu là chưa thỏa đáng, đồng
thời án cấp sơ thẩm buộc các anh, chị dỡ nhà và công trình phụ mà không thanh lý là
không đúng.
* Bản án dân sự phúc thẩm số 108/DSPT ngày 28/11/1997 của Toà án nhân dân tỉnh

Hà Tây đã xử: Sửa bản án sơ thẩm cụ thể:
1. Xác định các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản giữa ông Ngô
Văn Thái với chị Phan Thị Tụ, anh Nguyễn Hưng Cẩn, anh Nguyễn Hưng Tùng,
Nguyễn Phan Phú là vô hiệu.
2. Buộc ông Ngô Văn Thái, và bà Nguyễn Thị Liên phải thanh toán trả số tiền đã
nhận cho:
Chị Phan Thị Tụ 2.300.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 6.500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 4.300.000đ; Anh Nguyễn Phan Phú 2.000.000đ
3. Buộc chị Tụ, anh Cẩn, anh Tùng phải di chuyển tài sản của mình đi nơi khác để trả
lại đất cho ông Thái, bà Liên.
4. Buộc vợ chồng ông Thái bà Liên phải bồi thường thiệt hại về công xây dựng, công
phá dỡ tài sản và các nguyên liệu xây dựng không thu hồi được cho:
Chị Phan Thị Tụ 2.200.667đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 1.220.800đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 229.333đ.
5.Buộc bà Liên phải bồi thường thiệt hại của những bức tường bị phá cho:
Chị Phan Thị Tụ 200.000đ; Anh Nguyễn Hưng Cẩn 500.000đ; Anh Nguyễn Hưng
Tùng 400.000đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí theo quy định của pháp luật
Sau khi xét xử phúc thẩm các đồng bị đơn có đơn khiếu nại đề nghị xem xét lại bản
án theo thủ tục giám đôc thẩm.
Ngày 10/12/1998 Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Kháng nghị số
158/DS đối với bản án phúc thẩm nêu trên; với nội dung án sơ thẩm và phúc thẩm xử
hủy các hợp đồng mua bán trên là đúng, tuy nhiên khi giải quyết hợp đồng vô hiệu, án
phúc thẩm lại buộc bà Liên cùng chịu trách nhiệm liên đới để thanh toán các khoản mua
bán đất giữa ông Thái và các anh, chị Tụ, Tùng, Cẩn, Phú là không đúng.
23


Đại học Luật Hà Nội


Nhóm 1 N06 TL1

* Bản án giám đốc thẩm số 150 ngày 22/5/1999, Tòa dân sự, Tòa án nhân dân tối cao
quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh
Hà Tây xét xử theo thủ tục sơ thẩm.
Bản án số 03/DSST ngày 31/12/1999, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây đã quyết định:
- Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị Liên đòi hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông
Ngô Văn Thái với anh Nguyễn Phan Phú, anh Nguyễn Hưng Tùng, anh Nguyễn Hưng
Cẩn, chị phan Thị Tụ, với tổng diện tích đất đã chuyển nhượng là 271m2 nằm trong
thửa đất có diện tích 500m2 của ông Thái , bà Liên tại xóm Độc Lập, xã La Phù, huyện
Hoài Đức, Hà Tây.
Anh Phú, anh Tùng, anh Cẩn, chị Tụ phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng đất theo
quy định của pháp luật.
Chấp nhận sự tự nguyện của chị Tụ, anh Tùng, anh Cẩn không yêu cầu bà Liên bồi
thường thiệt hại tài sản.
Ngoài ra bản án còn quyết định về những vấn đề khác, tiền án phí và quyền kháng
cáo của các đương sự.
Ngày 14/01/2000, bà Liên có đơn khiếu nại yêu cầu xem xét lại án sơ thẩm.
* Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 107/DSPT ngày 31/8/2000 của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tai Hà Nội, áp dụng Điều 69 khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự định:
Xử y án sơ thẩm.

24



×