Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.37 KB, 11 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng " lấy dân làm gốc", bảo
đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ
quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình.
Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp
luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia
của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham
gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng.
Để hiểu hơn về vấn đề này nhóm chúng em xin đi sâu tìm hiểu đề tài số 8: “Nguyên tắc thực hiện
chế độ xét xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự”.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham
gia trong tố tụng hình sự
1. Cơ sở pháp lý

I.

Khái niệm Hội thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
Tòa án nhân dân năm 2002: “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án”. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét
xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong Hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và
Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) năm 2003.Tại Điều 129 Hiến pháp 1992 quy định:
" Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án Quân sự có Hội thẩm quân
nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán" . Tại
Điều 15 Bộ luật TTHS 2003 quy định về việc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia: “Việc
xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân
tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Như
vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với


Thẩm phán là một nguyên tắc Hiến định, vì vậy, nếu việc xét xử của Tòa án nhân dân mà không có
Hội thẩm nhân dân tham gia thì sẽ không chỉ là vi phạm Luật tố tụng mà còn là vi phạm Hiến pháp.
So với những quy định tương ứng trong BLTTHS năm 1988, Điều 15 BLTTHS năm 2003 có
sự sửa đổi, bổ sung nhất định theo hướng đảm bảo sự đầy đủ và chính xác. Đó là BLTTHS hiện hành
dùng cụm từ “Hội thẩm” với nghĩa bao hàm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân thay cho
cụm từ hội thẩm nhân dân như luật cũ; cụ thể hóa khái niệm Tòa án thành TAND và Tòa án quân sự;
thay từ “ở” thành từ “của” cho chính xác hơn1.
Điều 16 BLTTHS năm 1988 quy định về thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia: “Việc xét xử ở Tòa
án có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm
phán”.
1
1


Ngoài ra, theo quy định của các Luật Tổ chức Toà án nhân dân (các năm 1960, 1981, 1992),
Luật Tổ chức Toà án nhân dân hiện hành năm 2002 và các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự và tố tụng hành chính thì Toà án thực hiện chức năng xét xử thông qua các Thẩm phán
và Hội thẩm.Như Điều 4 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có
Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo
quy định của pháp luật tố tụng”. Khi được Chánh án phân công, Thẩm phán và Hội thẩm trở thành
người tiến hành tố tụng và có toàn quyền quyết định những vấn đề liên quan quan đến vụ án, trừ một
số việc thuộc thẩm quyền của Chánh án, Phó Chánh án.
2. Cơ sở lý luận
Như đã nói ở trên, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia được quy định tại
Điều 15 của Bộ luật TTHS năm 2003: “Việc xét xử của tòa án nhân dân, của tòa án quân sự có hội
thẩm nhân dân tham gia theo quy định của bộ luật này. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán”.
Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân” đã được Hiến pháp, pháp luật và văn kiện của Đảng ghi nhận nên việc tham gia của quần
chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước cũng như công tác xét xử của Toà án là nhu cầu tất

yếu khách quan. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân là một trong những hình thức thu hút nhân dân
tham gia quản lý công việc của nhà nước, thể hiện tinh thần dân chủ hóa trong hoạt động tố tụng.
Điều 3 Hiến pháp 1992 của nước ta khẳng định: “Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy
quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Yêu cầu đặt ra là, việc xét xử của Toà án phải đảm bảo
công khai, dân chủ. (Trừ trường hợp để bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn bí mật nhà nước, giữ gìn
đạo đức xã hội, toà án xét xử kín. Tuy nhiên, trong trường hợp này, bản án, quyết định của Toà án
vẫn phải được công khai). Vì là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án nhân dân
mà không có Hội thẩm nhân dân tham gia thì sẽ không chỉ là vi phạm Luật tố tụng mà còn là vi
phạm Hiến pháp. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia của
Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng Pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân.
Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân tham
gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân
cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố
tụng. Mặc dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt
động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ
việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều
quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự pháp huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân
của mình.

2


 Từ các khía cạnh trên, có thể thấy rằng việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử
có Hội thẩm tham gia là hoàn toàn có cơ sở và không trái với các nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt động
xét xử và tạo điều kiện cho hoạt động xét xử được tiến hành một cách khách quan, công bằng, chính
xác. Sự tham gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử là một trong những biểu hiện, hình thức quan
trọng của việc thực hiện nguyên tắc đó, là một trong những biểu hiện của dân chủ trong hoạt động tư

pháp.
3. Cơ sở thực tiễn
Trong tố tụng hình sự, thì dù ít hay nhiều, quyền con người cũng dễ bị xâm phạm nên việc
tham gia của các tổ chức, cá nhân vào quá trình đó là rất cần thiết. Việc tham gia xét xử của Hội
thẩm là một trong những biểu hiện rõ nét nhất, cụ thể nhất của chế độ dân chủ, thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời, đây cũng là một hình thức thu hút
nhân dân tham gia một cách bình đẳng rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước và xã hội. Hội thẩm
là những người am hiểu thực tế cuộc sống, nắm được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, từ đó, họ
dễ dàng trong việc tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tâm lý của người phạm tội để cùng Thẩm
phán có được phán xét công bằng, chính xác, nghiêm minh. Bên cạnh đó, bằng việc tham gia xét xử,
Hội thẩm có điều kiện thuận lợi nhất giám sát hoạt động của Toà án. Như vậy, khi tham gia xét xử,
Hội thẩm vừa thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời cũng thể hiện được ý chí, nguyện vọng của
nhân dân. Điều này góp phần đáng kể trong việc bảo đảm cho hoạt động xét xử thực sự mang tính
dân chủ. Do vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được bảo đảm một cách công bằng, tránh
cho quyền con người của họ bị xâm hại từ phía các cơ quan quyền lực hoặc bất cứ cá nhân, tổ chức
nào. Hội thẩm có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên Hội thẩm hiểu sâu
hơn tâm tư nguyện vọng của quần chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử
hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ
quan, đơn vị, cơ sở của mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am
hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã
hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình
ủng hộ. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia trong TTHS được quy
định tại điều 15 BLTTHS 2003.
Việc tham gia xét xử của Hội thẩm cũng là yếu tố góp phần khắc phục bệnh nghề nghiệp (nếu
có) của Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác. Nhiều Hội thẩm đã thể hiện rõ tinh thần
trách nhiệm, thực hiện tốt nghĩa vụ, kiên định với quan điểm của mình, kiên quyết bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình tham gia công tác xét xử, Hội thẩm còn góp phần quan trọng trong
việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đóng góp vào việc xây dựng và hoàn thiện đường lối xét xử,
giúp cho việc xét xử đúng pháp luật và có sức thuyết phục hơn.
II. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự


3


Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia phản ánh tư tưởng thu hút
sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xét xử, nội dung của nguyên tắc này được ghi nhận như sau:
- Thứ nhất, việc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội
thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử
tham gia vào hoạt động xét xử. Với kinh nghiệm sống của mình, cùng với kiến thức chuyên môn,
Hội thẩm góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật của vụ án. Hội thẩm là người trực tiếp làm
việc và tham gia sinh hoạt xã hội cùng quần chúng nhân dân, họ mang đến phiên tòa những suy nghĩ
và ý kiến quần chúng đối với vụ án góp phần giúp Tòa án xử lí vụ án chính xác. Với vốn hiểu biết
thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm
sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một
phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư
pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết,
trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà
phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…". Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh
chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những
người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử có phán quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có
kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định
khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực đó. Hơn nữa,
Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản
ánh một cách khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng
nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy2.
Thực tế cho thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những người có uy tín trong xã hội,
được quần chúng tín nhiệm và có ảnh hưởng nhất định trong xã hội. Họ thường là những người có
lối sống gương mẫu, có phẩm chất tốt, là tấm gương trong lao động, công tác, nhân dân tin cậy vào
sự công minh và vô tư của họ. Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của cơ quan xét xử ngày

càng được nâng cao và được nhân dân tin cậy ủng hộ, đồng thời Hội thẩm còn đóng vai trò to lớn
trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật. Bằng vai trò cá nhân, Hội thẩm đóng góp nhất định
trong việc giữ gìn " tình làng nghĩa xóm" ổn định xã hội, phòng chống tội phạm.
- Thứ hai, khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán: Khi xét xử bất kỳ một vụ án nào
thuộc thẩm quyền của Toà án mà có Hội thẩm tham gia, thì Hội thẩm và Thẩm phán có quyền ngang
nhau trong việc giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án, không phân biệt vấn đề đó là về mặt tố tụng
hay về mặt nội dung. Và khi xét xử vụ án hình sự, mọi vấn đề phải được thảo luận và thông qua tại
phòng nghị án. Việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử cũng như trong khi quyết
định bản án, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội
đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân tham gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền

2

Nguồn:
4


với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ
án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng.
Mặc dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ
chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào
hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán,
từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là
điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự pháp huy được vai trò là đại diện cho quần chúng
nhân dân của mình.
- Thứ ba, hoạt động của Hội thẩm không phải là một nghề chuyên nghiệp. Hội thẩm là người
được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Mặc dù thế, khi xét xử “Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” Quy định này thể
hiện tính dân chủ trong pháp luật tố tụng hình sự của nước ta.
Khác với Việt Nam, tại Trung Quốc, Hội thẩm là được coi là một nghề và bất cứ ai muốn trở

thành Hội thẩm thì phải trải qua một khoá đào tạo, vượt qua kì thi vào nghề và được cấp chứng chỉ
hành nghề. Quy định hội thẩm viên nhân dân phải đạt các tiêu chuẩn sau đây: từ 23 tuổi trở lên; có
hạnh kiểm tốt; tôn trọng hiến pháp Trung Quốc; không có tiền án, tiền sự, có sức khỏe và trình độ
giáo dục thấp nhất là bậc cao đẳng.Hội thẩm viên tại Trung Quốc sẽ do Ủy ban Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp quận, huyện bổ nhiệm với nhiệm kỳ năm năm. Những người đủ tư cách làm hội
thẩm viên có thể nộp đơn xin hoặc được các tổ chức chính quyền cấp quận huyện đứng ra giới thiệu.
III. Ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia trong tố tụng hình sự mang những ý
nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong hoạt
động xét xử.
- Thứ nhất, thực hiện tốt nguyên tắc này góp phần vào việc củng cố tốt mối quan hệ giữa Tòa
án với nhân dân, nâng cao tính chính xác, bảo đảm công minh trong công tác xét xử và góp phần vào
việc phòng ngừa và chống tội phạm.
- Thứ hai, nguyên tắc này nhằm phát huy tính dân chủ và trí tuệ tập thể trong công tác xét xử
để hội đồng xét xử đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Thứ ba, nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử, bởi việc tham gia của
Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân, đảm bảo phán quyết của Tòa án đi sát với thực tiễn.
- Thứ tư, việc xét xử có hội thẩm tham gia sẽ nâng cao uy tín của cơ quan xét xử. Thực tế cho
thấy những người được bầu làm Hội thẩm là những người có uy tín trong xã hội, được quần chúng
tín nhiệm và có ảnh hưởng nhất định trong xã hội, họ thường là những người có lối sống gương mẫu,
có phẩm chất tốt, là tấm gương trong lao động, công tác, nhân dân tin cậy vào sự công minh và vô tư
5


của họ. Qua sự tham gia xét xử của Hội thẩm, uy tín của cơ quan xét xử ngày càng được nâng cao và
được nhân dân tin cậy ủng hộ, đồng thời Hội thẩm còn đóng vai trò to lớn trong công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật. Ngoài ra, trong nguyên tắc này còn có nội dung quy định quyền của Hội
thẩm ngang hang với Thẩm phán. Tuy rằng còn nhiều ý kiến trái chiều về quy định này nhưng chúng
ta không thể phủ nhận mặt tích cực của nó là thể hiện sự tôn trọng tối đa của Đảng và Nhà nước đối

với nguyện vọng của quần chúng nhân dân bởi lẽ một “người ngoài” không có biên chế trong Tòa án
mà khi tham gia xét xử lại có quyền ngang hang với một vị thẩm phán đầy quyền uy. Nội dung này
lại một lần nữa giúp nâng cao uy tín của cơ quan xét xử nói riêng và của Đảng và Nhà nước nói
chung.
IV. Nguyên tắc chế độ xét xử có hội thẩm tham gia – Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng
Qua thực tế hoạt động của hội thẩm và áp dụng các biện pháp của pháp luật về địa vị pháp lí của
hội thẩm trong tố tụng hình sự, có thể thấy còn nhiều vấn đề bất cập cần phải được khắc phục và
hoàn thiện nhằm làm cho nguyên tắc hội thẩm thực sự phát huy tác dụng trong việc xét xử các vụ án
hình sự:
- Thứ nhất, Ý tưởng về sự tham gia của đại diện của dân vào quá trình xét xử trong tư cách
“Thẩm phán” không chuyên nghiệp là một nguyên tắc thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ của tố
tụng hình sự. Chính vì vậy, mọi ý định chỉ tập trung vào việc tăng cường năng lực và trình độ mọi
mặt cho Thẩm phán mà không quan tâm đến chế định Hội thẩm nhân dân, coi đó như một kiểu
“trang trí”, hoặc ngược lại, muốn “Thẩm phán hóa”, chuyên môn hóa các Hội thẩm mà không quan
tâm đến trách nhiệm và ý thức xã hội của họ đối với quá trình xét xử đều là những quan điểm lệch
lạc, làm mất đi bản chất dân chủ của tố tụng hình sự.
- Thứ hai, Trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân bao
giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Vấn đề cần đặt ra là chất lượng của đội ngũ Hội
thẩm nhân dân so với Thẩm phán. Hội thẩm nhân dân chưa được đào tạo bài bản, không được trang
bị kiến thức cơ bản về pháp luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tham dự một số buổi tập huấn
ngắn hạn về kiến thức Pháp luật và nghiệp vụ xét xử, nên việc xem xét các vấn đề đặt ra đối với họ
chủ yếu bằng kinh nghiệm sống chứ không hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật. Sự tham gia xét xử
của Hội thẩm nhân dân là cần thiết nhưng phần lớn Hội thẩm nhân dân không có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, hiểu biết Pháp luật không sâu thì làm sao họ có thể thực hiện tốt nhiệm vụ, vai trò, vị
trí của mình. Mặt khác, coi việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân chỉ là hình thức, nên bản
thân Hội thẩm nhân dân không trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ. −không phát huy tinh thần trách
nhiệm của Hội thẩm trong nghiên cứu hồ sơ và trong quá trình tham gia xét xử vụ án. Còn Thẩm
phán cũng không chú ý lắng nghe ý kiến của Hội thẩm nhân dân.
- Thứ ba, Chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với Hội thẩm nhân dân hiện nay còn rất bất cập,

hoạt động của Hội thẩm nhân dân chủ yếu dựa vào ý thức trách nhiệm công dân là chủ yếu. Do vậy,
cấn khắc phục tâm lý tham gia hoạt động theo kiểu “cầm chừng” hoặc không muốn tham gia.
6


- Thứ tư, quy định về chế độ nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm nhân dân cũng còn nhiều bất cập,
trong thời gian quá ngắn (kể từ khi Tòa án ra Quyết định xét xử thì Hội thẩm nhân dân mới chính
thức tham gia nghiên cứu, xét xử vụ án đó), hơn nữa đã là Hội thẩm nhân dân thì sẽ được tham gia
xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân sự, đến hành chính, kinh tế, lao động… Với trình độ. kiến
thức Pháp luật của Hội thẩm nhân dân như hiện nay, trong thời gian nghiên cứu hồ sơ ít hơn Thẩm
phán, thì Hội thẩm nhân dân không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có
quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự
về tranh chấp đất đai, thừa kế, những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ dày đến hàng
trăm bút lục… Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp, đòi hỏi các thành
viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc pháp luật, am hiểu xã hội. Đòi hỏi đặt ra
là như vậy, nhưng theo các quy định hiện hành về tiêu chuẩn để được bầu làm Hội thẩm nhân dân thì
nêu rất chung chung là “có kiến thức pháp lý”, vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người là có kiến
thức pháp lý? Với quy định chưa rõ ràng này việc tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân còn mang
tính cơ cấu và hình thức. Số Hội thẩm nhân dân có bằng cấp về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp.
- Thứ năm, cơ chế tuyển chọn Hội thẩm còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng xét xử thiếu độc
lập, khách quan. Theo quy định tại pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002, Hội thẩm
được tuyển chọn dưới hình thức bầu hoặc cử. Về yêu cầu đối với Hội thẩm, Điều 37 khoản 2 Luật tổ
chức TAND năm 2002 quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
CHXNCN VIệt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có
tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khỏe để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
được giao, thì có thể được bầu hoặc được cử làm Hội thẩm”. Theo quy định trên thì, để có thể trở
thành Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp lý (và các tiêu chuẩn khác như nêu trên); còn đối với
Thẩm phán thì yêu cầu phải có trình độ cử nhân luật, phải được đào tạo về nghiệp vụ xét xử và phải
có năng lực làm công tác xét xử. Yêu cầu, đòi hỏi này cũng là lẽ đương nhiên. Cũng chính từ quy
định như vậy, nên hiện nay, trong số 11.409 Hội thẩm, có nhiều người đã tốt nghiệp đại học, nhưng

cũng có người mới học hết phổ thông trung học và cũng có người (ở vùng sâu vùng xa) thì mới tốt
nghiệp trung học cơ sở, thậm chí có người lần đầu tiên mới tiếp xúc với những khái niệm, thuật ngữ
pháp lý khi họ được bầu làm HTND. Vì thực trạng trình độ của đội ngũ HTND như vậy cho nên có
những trường hợp, HTND tham gia xét xử một cách thụ động, chưa nắm vững pháp luật, không đánh
giá vụ án một cách khách quan, toàn diện.
- Thứ sáu, do số lượng ít, trình độ Hội thẩm còn yếu kém, đạo đức nghề nghiệp giảm sút
khiến công tác xét xử đạt hiệu quả thấp. Tính đến nay, toàn ngành Tòa án Hà Nội có 740 Hội thẩm,
trong đó HTND cấp thành phố có 84 người, cấp huyện có 656 người. Thành phố Hồ Chí Minh có
947 Hội thẩm, trong đó có 100 vị cấp thành phố. Bình quân mỗi Tòa án trên cả nước có từ 15 đến 20
Hội thẩm3. Đội ngũ Hội thẩm đang vừa thừa vừa thiếu. Vì phải xét xử quá nhiều án nên có những
nơi, những lúc tòa án thiếu Hội thẩm. Bên cạnh đó, có nhiều Hội thẩm trong cả nhiệm kỳ 5 năm chỉ
tham gia xét xử một vài lần, thậm chí có trường hợp, họ không tham gia xét xử một lần nào. Đến
3

/>7


nay, công tác quản lý cũng như sơ kết, tổng kết hoạt động của Hội thẩm chưa được quan tâm thực
hiện đúng mức, nên những hạn chế chưa kịp thời được khắc phục.
- Thứ bảy, hội thẩm được bầu hầu hết là những cán bộ đương chức đang công tác tại các cơ
quan nhà nước, ở các tổ chức chính trị xã hội như Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội chữ thập đỏ…, một số là giáo viên, cán bộ đoàn… Vì vậy họ cũng ít tham gia xét xử do bận
công tác hay có ít kiến thức chuyên môn nên tự ti, mặc cảm từ chối lời mời của tòa dẫn đến việc xét
xử không hiệu quả. Điển hình là vẫn còn nhiều hiện tượng sai lầm nghiêm trọng do lỗi của phía Hội
đồng xét xử như trường hợp kết án oan người không có tội như vụ án xét xử ba thanh niên trú tại
Yên nghĩa, Hoài Đức, Hà Nội là Nguyễn Đình Tình, Nguyễn Đình Kiên và Nguyễn Đình Lợi.
- Hơn nữa, theo quy định của pháp luật hiện hành thì Hội thẩm nhân dân cũng như thẩm phán
khi có tỷ lệ vụ việc do mình tham gia xét xử, giải quyết bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Hội đồng xét
xử thì ngoài việc không được xét thưởng, còn bị xem xét mức độ để có thể đề nghị miễn hoặc bãi
nhiệm, nhưng trên thực tế, nếu trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân được xác định một cách rõ ràng

đối với các bản án bị hủy, cải, sửa thì e rằng không ai dám chấp nhận làm Hội thẩm nhân dân trong
một điều kiện với tiêu chuẩn, chế độ như hiện nay.
 Từ những vấn đề trên có thể thấy, chính sự thiếu thực tiễn trong quy định về chế định hội
thẩm nhân dân nên hội thẩm nhân dân là đối tượng có thể dễ bị các đối tượng tác động trong các vụ
án sơ thẩm. Dẫn đến việc thiếu tin tưởng vào hội thẩm nhân dân nói riêng và Hội đồng xét xử sơ
thẩm nói chung. Thực tế là hiện nay đa số các bản án sơ thẩm đều bị kháng cáo phúc thẩm. Điều này
dẫn đến những lãng phí vô cùng to lớn về thời gian và tiền bạc của xã hội. Bên cạnh đó, việc quy
định thiếu thực tiễn về chế định hội thẩm nhân dân đã làm cho nhiều hội thẩm nhân dân trở thành
những người thừa hành của Thẩm phán. Do khi tranh luận để nghị án, hội thẩm nhân dân thường là
người yếu thế hơn thẩm phán trong việc xác định pháp luật áp dụng nên họ sẽ để các thẩm phán tự
dẫn chiếu quy phạm và luật để áp dụng chứ chẳng dại gì tham gia vào đó.
Chính vì những lý do trên, việc xác định cho đúng vai trò và thành phần của các hội thẩm
nhân dân nên được các nhà làm luật quy định làm sao cho sát đòi hỏi của thực tế tránh những quy
định mang tính hình thức và những lãng phí về mặt xã hội.
V. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội
thẩm tham gia
Nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của hội thẩm trong quá trình tố tụng, nhóm
chúng em xin đưa ra một số giải pháp như sau:
- Thứ nhất, cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân phải có trình
độ cử nhân Luật hoặc đã qua công tác pháp luật từ ba đến năm năm.
- Thứ hai, không ngừng nâng cao trình độ pháp lý cho Hội thẩm, cần có những chương trình
nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, thường xuyên
tổ chức những buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiêm giữa thẩm phán và Hội thẩm qua đó nhầm nâng
8


cao trình độ pháp lý cho Hội thẩm. Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật nhất định về định tội danh,
về quyết định hình phạt… những kiến thức này được bổ sung cho hội thẩm qua công tác tập huấn.
Kết hợp giữa tập huấn luật nội dung và kỹ năng xét xử. Hội thẩm cần được trang bị các bộ luật, các
nghị quyết của hội đồng thẩm phán và các thông tư có liên quan đến việc giải thích, hướng dẫn áp

dụng pháp luật. Hội thẩm phải được cung cấp thông tin về hoạt động xét xử và các kiến thức pháp
luật. Với 1 trình độ chuyên môn về những lĩnh vực nhất định hội thẩm cũng có thể tự bổ sung kiến
thức pháp luật cho mình. Việc tập huấn phải được tổ chức thường xuyên và có chất lượng.
- Thứ ba, cần quy định về mặt tổ chức. Đoàn Hội thẩm nhân dân là một tổ chức chính trị xã
hội không chịu sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp, có kinh phí hoạt động riêng.
Đoàn Hội thẩm có Trưởng đoàn hoặc Phó trưởng đoàn làm việc theo chế độ chuyên trách là người
trực tiếp quản lý, phân công việc tham gia xét xử của hội thẩm nhân dân. Theo đó, cơ chế phối hợp
với Tòa án sẽ là: sau khi lên lịch xét xử, Tòa án gửi cho Trưởng đoàn Hội thẩm để sắp xếp, phân
công Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử và gửi văn bản phân công cho Tòa án để ban hành quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Làm như vậy, một mặt giảm bớt công việc cho Tòa án, mặt khác hạn chế
được những tiêu cực từ phía Tòa án.
- Thứ tư, cần có chính sách đãi ngộ, chế độ bồi dưỡng, khen thưởng thoả đáng thích hợp với
Hội thẩm, để tương tầm với trọng trách mà pháp luật quy định và tạo động lực cho Hội thẩm khi
tham gia xét xử và thực hiện nhiệm vụ của mình. Vì Hội thẩm cũng là những người phải lo toan cuộc
sống gia đình khi mà họ phải thường xuyên chịu sự tác động của các yếu tố tiêu cực có khi là những
lợi ích vật chất. Vì vậy nhà nước cần xem xét cho họ hưởng một chích sách đãi ngộ hợp lý đủ để họ
có khả năng đứng vững trước những tác động từ bên ngoài, đồng thời phải có những biện pháp khen
thưởng cả về mặt vật chất lẫn tinh thần cho những hội thẩm có thành tích xuất sắc nhằm động viên,
khuyến khích họ trong việc thực hiện công tác xét xử. Đối với hội thẩm, mặc dù xét xử không phải
nghề chính của họ và cũng không đòi hỏi chế độ bồi dưỡng cao song cũng nên có chế độ đãi ngộ
thích hợp. Cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu để tăng tiền bồi dưỡng cho Hội thẩm, trang bị
trang phục đầy đủ, cung cấp văn bản, tài liệu khác có liên quan đến việc xét xử….
- Thứ năm, cần quy định trách nhiệm của Hội thẩm một cách rõ ràng. Điều này sẽ giúp nâng
cao tinh thần trách nhiệm cho Hội thẩm.
- Thứ sáu, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật.Chỉ khi nào có pháp luật đầy đủ thì hội
thẩm nhân dân mới có thể tuân theo pháp luật được. Bởi có pháp luật làm căn cứ sẽ giúp hội thẩm
thực hiện tốt việc xét xử mà không cần tham khảo ý kiến của người khác hay bị yếu tố khác tác
động. Pháp luật càng hiệu quả bao nhiêu thì hội thẩm càng xét xử chính xác và hiệu quả bấy nhiêu.
Việc xây dựng pháp luật là cần thiết nhưng chưa đủ để thực hiện nguyên tắc “chế độ xét xử có hội
thẩm tham gia”. Hội thẩm muốn xét xử thì phải có cách hiểu đúng đắn về pháp luật. Vì vậy sau khi

ra các quy phạm, nhà nước cần phải ra những văn bản hướng dẫn giải thích về các điều luật cụ thể có
như vậy mới giúp Hội thẩm hiểu đúng tinh thần, nội dung điều luật từ đó áp dụng phù hợp vào quan
hệ pháp luật cần điều chỉnh.

9


- Cuối cùng, cần phải xem xét lại việc bổ nhiệm hội thẩm. Hội thẩm do nhân dân bầu chọn
một cách công khai dân chủ trên cơ sở lựa chọn những người có đủ tiểu chuẩn, năng lực tham gia xét
xử. Ngành tòa án cũng cần có sự quản lý chặt chẽ hơn đối với đội ngũ hội thẩm. Luật quy định “khi
xét xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán” nên chăng cũng cần quy định trách nhiệm của hội thẩm
giống thẩm phán khi xét xử oan sai hoặc có tiêu cực nhưng hiện tại hầu như hội thẩm không có bất
cứ trách nhiệm nào trước pháp luật về hoạt động xét xử của họ ngoài hình thức bãi miễn hoăc không
được đề nghị khen thưởng.
 Trên đây là một số giải pháp quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc “chế độ xét
xử có Hội thẩm tham gia”. Thực tế muốn cho hoạt động xét xử của Tòa án đạt kết quả cao cần phải
tiến hành đồng thời các biện pháp đó, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau đảm bảo cho việc xét xử có
sự tham gìa của hội thẩm.

C. KẾT LUẬN
Trong hệ thống pháp luật tố tụng hiện nay ở nước ta, chế định hội thẩm nhân dân là một trong
những chế định bắt buộc, có tính quyết định đến các bản án sơ thẩm trong hoạt động tư pháp. Bởi vì,
hầu hết bản án sơ thẩm đều yêu cầu phải có sự tham gia của số lượng tối thiểu 2/3 thành viên của
Hội đồng xét xử là các hội thẩm nhân dân. Cùng với số lượng đó là tính quyết định của hội thẩm
nhân dân trong Hội đồng xét xử đối với bản án sơ thẩm. Thực tế hiệu quả hoạt động của các hội
thẩm ở nước ta hiện nay là chưa đạt yêu cầu về mặt pháp lý cũng như về mặt xã hội. Với vai trò quan
trọng như vậy, việc nâng cao chất lượng, đảm bảo hiệu quả hoạt động của đội ngũ hội thẩm là một
yêu cầu cần thiết. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp ở nước ta nhằm hướng tới
một mục tiêu chung là củng cố hệ thống Toà án ngày càng vững mạnh, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội,
2007, 2008.
2. Khoa Luật- Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, 2001.
10


3.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
4. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004
5. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
6. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân 2002.
7. Luật Tổ chức Toà án nhân dân hiện hành năm 2002
8. Mấy ý kiến về đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm / ThS. Hoàng Hùng Hải
,Tạp chí Toà án. Toà án nhân dân tối cao, Số 6/2005
9. Sổ tay Hội thẩm / Nguyễn Tất Viễn chủ biên, Hà Nội, 1998 .
10. Các web site:







11



×