Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích cơ sở pháp lý để Ngân hàng nhà nước quản lý, điều hành thị trường ngoại hối;thực trạng và đề xuất pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.57 KB, 16 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngoại hối có ảnh hưởng rất to lớn đối với đời sống kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Trong nền kinh tế hiện đại, mỗi quốc gia đều có nhu cầu sử dụng
ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa hay can thiệp vào thị trường hàng hóa, thị
trường tiền tệ, điều hòa cán cân thanh toán quốc tế… Nhận thấy tầm quan trọng
của hoạt động ngoại hối, nước ta đã có những quy định pháp luật để điều chỉnh,
quản lý lĩnh vực này. Pháp luật điều chỉnh lĩnh vực về ngoại hối ngày càng
được Nhà nước ta chú tâm hoàn thiện, tuy nhiên bên cạnh đó thì vẫn tồn tại
những điểm bất cập chưa hợp. Vì vậy tôi xin chọn đề tài: “Phân tích cơ sở
pháp lý để Ngân hàng nhà nước quản lý, điều hành thị trường ngoại hối;
thực trạng và đề xuất pháp lý” để đi sâu và phân tích vấn đề này.

NỘI DUNG
I1-

Khái quát chung
Khái niệm ngoại hối

Ở Việt Nam, khái niệm ngoại hối được pháp luật quy định cụ thể bằng cách
liệt kê các thành phần của ngoại hối, bao gồm:
-

Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng

tiên chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực;
Phương tiên thanh toán bằng ngoại tệ, gồm sec thẻ thanh toán,hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
Vàng thuộc dữ trự ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài
của người cư trú; vàng thỏi dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp


chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc sử dụng trong thanh toán
quốc tế.
Như vậy, hiểu một cách đơn giản, ngoại hối là thuật ngữ dùng để chỉ các
phương tiện thanh toán sự dụng trong giao dịch quốc tế bao gồm ngoại tệ, công


cụ thanh toán bằng ngoại tệ, các loại chứng từ có giá bằng ngoại tệ, vàng tiêu
chuẩn quốc tế, đồng tiền quốc gia.
2Hoạt động ngoại hối.
2.1. Khái niệm hoạt động ngoại hối.
Khái niệm hoạt động ngoại hối: là hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực
ngoại hối hay quá trình tổ chức, điều hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đối với các hoạt động ngoại hối trong nền kinh tế trên cơ sở các quy định của
pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu của nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Hoạt động quản lý nhà nước về ngoại hối có phạm vi rộng, bao gồm nhiều
hình thức hoạt động khác nhau, chẳng hạn như: ban hành các quy định pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực ngoại hối; tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về
ngoại hối; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành và xử lý các vi phạm pháp luật về
ngoại hối.
2.2. Đặc điểm của hoạt động quản lý ngoại hối.
Thứ nhất, chủ thể QLNH phải là những cơ quan nhà nước có chuyên môn và
nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý kinh tế, đặc biệt là quản lý đối với ngoại hối.
Do xu hướng hoạt động ngoại hối trong nền kinh tế hiện đại ngày cáng đa dạng
hóa và phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, không chỉ gói gọn trong lãnh thổ một
quốc gia mà còn có sự liên thông với nhiều thị trường trên thế giới, vì vậy đòi
hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải là cơ quan chuyên trách, có đội ngũ dân sự
đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ, kiên thức chuyên sâu về hoạt động ngoại hối và
quản lý nhà nước.
Thứ hai, đối tượng quản lý ngoại hối là các chủ thể có hoạt động ngoại hối
trong nền kinh tế. Nghĩa là quản lý con người có sự tham gia của hoạt động

ngoại hối, chứ không phải quản lý đối với tài sản là ngoại hối.
Thứ ba, nội dung của hoạt động ngoại hối bao gồm các giao dịch vãng lai,
giao dịch vốn, các hành vi sử dụng ngoại hối, hoạt động kinh doanh ngoại hối,


cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối trên
lãnh thổ Việt Nam. Các hành vi pháp lý này luôn gắn với đối tượng là ngoại hối
và dịch vụ ngoại hối. Vì vậy, khi xác định một hoạt động nào đó được cấu
thành bới hnahf vi pháp lý nào đó, là giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, hành vi
sử dụng, kinh doanh ngoại hối hay hành vi cung ứng dịch vụ ngoại hối…Như
vậy, nội dung của hoạt dộng ngoại hối có thể xem là một trong những dấu hiệu
quan trọng để phân biệt hoạt động ngoại hối với các hoạt động kinh tế khác.
3. Quản lí hoạt động ngoại hối.
3.1. Khái niệm.
Quản lí hoạt động ngoại hối là hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực ngoại
hối hay quá trình tổ chức, điều hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với các hoạt động ngoại hối trong nền kinh tế trên cơ sở các quy định của pháp
luật, nhằm đạt được những mục tiêu nhiệm vụ quản lý nhà nước.
3.2. Đặc trưng của hoạt động quản lý ngoại hối.
Thứ nhất, chủ thể quản lý ngoại hối phải là những cơ quan nhà nước có
chuyên môn nghiệp vụ sâu về quản lý kinh tế, đặc biệt là quản lý đối với ngoại
hối. Do xu hướng hoạt động ngoại hối trong nền kinh tế hiện đại ngày càng đa
dạng hóa và phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, không chỉ giưới hạn trong lãnh
thổ một quốc gia mà còn có sự liên thông với nhiều thị trường trên thế giới, vì
vậy đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải là cơ quan chuyên trách có đội ngũ
nhân sự đủ năng lực, trình độ nghiệp vụ, kiến thức chuyên sâu về hoạt động
ngoại hối và QLNH.
Thứ hai, đối tượng QLNH là các chủ thể có hoạt động ngoại hối trong nền
kinh tế, Nghĩa là chủ thể quản lý con người có tham gia hoạt ddoogj ngoại hối,
chứ không phải quản lý đối với tài sản là ngoại hối.

Thứ ba, phương thứ QLNH có sự kết hợp giữa các biện pháp hành chính với
các biện pháp kinh tế, trong đó các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Hoạt động


ngoại hối là một hoạt động kinh tế có mối liên hệ với nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô
như tỷ giá, tỷ lệ lạm phát…, chịu tác động của các quy luật kinh tế như quy luật
cung cầu, cạnh tranh…Vì vậy, các biện pháp kinh tế thương được sủ dụng phổ
biến trong quá trình QLNH của cơ quan quản lý để điều chỉnh và tác động đến
hoạt động ngoại hối của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt đối với nền kinh
tế thị trường phát triển.
II-

Cơ sở pháp lý để Ngân hàng nhà nước quản lý, điều hành thị

trường ngoại hối.
1.
Các chủ thể có thẩm quyền quản lý.
Chủ thể QLNH là các cơ quan quản lí được Nhà nước trao quyền bằng các
quy định pháp luật để thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng QLNH. Vì vậy,
chủ thể QLNH là nội dung quạn trọng cầ phải được pháp luật về QLNH điều
chỉnh. Pháp luật quy đinh cụ thể về hệ thống các cơ quan tham gia QLNH, phân
định rõ phạm vi thẩm quyền, chức năng của mỗi cơ quan trong hệ thống
QLNH; các thẩm quyền cụ thể khi thực hiện quản lý đối với từng hoạt động
ngoại hối của các đối tượng quản lý và các công cụ, phương tiện thực hiện quản
lý của các chủ thể đó. Theo Diều 40 Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH ngày
13/12/2005 về ngoại hối,các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý ngoại hối
ở Việt Nam bao gồm:
Chính phủ là cơ quan hành pháp có thẩm quyền chung chịu trách
nhiệm trước Quốc hội trong việc thực hiện vai trò thống nhất quản lí nhà nước
về ngoại hối và hoạt động ngoại hối trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Để thực hiện

có hiệu quả hoạt động này, Chính phủ phân cấp cho Ngân hàng nhà nước và
một số Bộ có liên quan trực tiếp thực hiện các hành vi quản lí nhà nước vè
ngoại hói và hoạt động ngoại hối.
Ngân hàng nhà nước Việt nam là cơ quan chức năng của Chính phủ,
được Chính phủ trao quyền hạn trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lí nhà
nước về ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam. Trong khi thự hiện thẩm quyền này,


Ngân hàng nhà nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Chính phủ. Ngoài ra,
với vai trò là ngân hàng trung ương, Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn có
thẩm quyền thực hiện các nghiệp vụ ngoại hối bằng cách tham giá trực tiếp vào
các giao dịch ngoại hối, thông qua đó nhằm thực hiện việc điều hành chính sách
tiền tệ quốc gia theo nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội.
Đây là một khung pháp lý rộng rãi, tạo mọi điều kiện tập trung quyền quản lí
trực tiếp để Ngân hàng Nhà nước có thể nhanh chóng và linh hoạt thực hiện
hiệu quả các chính sách tiền tệ và cơ chế quản lí của mình đối với thị trường tài
chính nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Tuy nhiên, dù được tạo điều
kiện, được linh hoạt đến đâu, Ngân hàng Nhà nước vẫn chịu sự giám sát của
Quốc hội và Chính phủ. Tạo ra một cơ chế như vậy là hợp lí, vừa chặt chẽ vừa
linh hoạt.
-

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân

các tỉnh, thành phố trực thuốc trung ương có thẩm quyền quản lí ngoại hối và
hoạt động ngoại hối trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy
định.
Như vậy, khung pháp lý dành cho Ngân hàng Nhà nước quản lí, điều hành
thị trường ngoại hối khá rõ ràng và cụ thể. Pháp luật quy định rõ từ việc Ngân
hàng Nhà nước có quyền quản lí, điều hành thị trường ngoại hối như thế nào,

đối tượng chịu sự điều chỉnh, quản lí ấy là những ai, Ngân hàng Nhà nước được
thực hiện những quyền gì và phải chịu trách nhiệm gì, chịu trách nhiệm với
ai… Cơ sở pháp lí như vậy là đúng đắn và rõ ràng. Nhưng trên cơ sở pháp lý
như vậy, Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã sử dụng những quyền
năng của mình như thế nào ? Đã quản lí và tác động tới thị trường ngoại hối ra
sao ? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều này trong phần tiếp theo.
2.
Đối tượng quản lí nhà nước về ngoại hối.


Theo quy định tại điều 2 Pháp lệnh ngoại hối, đối tượng chịu sự quản
lí nhà nước về ngoại hối bao gồm:
-

Các tổ chức, cá nhân là người cư trú, người không cư trú có hoạt động

ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
Các đối tượng khác có liên quan đến hoạt động ngoại hối.
Đối tượng quản lú nhà nước về ngoại hối là các tổ chức. cá nhân có ngoại
hối có hoạt động liên quan đến ngoại hối, Pháp luật ngoại hối của nước đều quy
định rất rõ đối tượng thuộc diện quản lý là người cư trú và không cư trú. Theo
khuyến nghị của Quỹ tiền tệ quốc tế, cách phân loại người cư trú và không cư
trú cơ bản sựa trên ba tiêu chí thời hạn cư trú, nơi phát sinh nguồn thu nhập và
nơi ở. Trong đó, hai khái niệm người cư trú và người không cư trú được hiểu là
Người cư trú được thống nhất hiểu là toàn bộ tổ chức, doanh nghiệp
được thành lập theo pháp luật hiện hành của mỗi quốc gia, hoạt động, kinh
doanh trên phạm vi lãnh thổ nước đó, hoặc đặt đại diện tại nước ngoài các tổ
chức, doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật của nước ngoài được phép
hoạt động, kinh doanh tại nước đó. Người cư trú còn bao gốm những người
thuộc quóc tịch nước đó và người nước ngoài được phép cư trú có thời hạn tại

nước đó.
Người không cứ trú được hiểu là những tổ chức, doanh nghiệp được
thành lâp theo pháp luật hiện hành của một không hoạt động kinh doanh trong
nước mà không hoạt động kinh doanh tại nước ngoài, cũng như các tổ chức
doanh nghiệp dược thành lập theo pháp luật của nước ngoài không hoạt động
kinh doanh trong nước đó, hay các cơ quan đại diện của các tổ chức quốc tế,
của các Chính phủ khác đặt tại nước đó. Người không cư trú còn là những
người mang quốc tịch nước ngoài đến nước đó không phải vì mục đích định cư.
Như vậy, việc phân chia người cư trú và người không cư trú không
phụ thuộc việc tổ chức đó được thành lập theo pháp luật nước nào hay cá nhân
đó mang quốc tịch nước nào. Dấu hiệu cơ bản là thu nhập chủ yếu của tổ chức,


cá nhân đó là ở trong nước hay nước ngoài. Việc phân chia này giúp ghi chéo
và phân tích chính xác cán cân thanh toán quốc tế, có chính sách quản lý phù
hợp đối với hoạt động ngoại hối của từng loại đối tượng khác nhau, nhằm
khuyến khích hoạt động kinh tế đối ngoại và tăng cường hiệu quả quản lý nhà
nước bằng pháp luật.
3.
Nội dung quản lí nhà nước về ngoại hối
Nội dung quản lí nhà nước về ngoại hối có nghĩa là nghiên cứu các vấn đề
cơ bản sau đây:
Các chủ thể và phạm vi thẩm quyền của các chủ thể đó trong hoạt
động quản lí nhà nước về ngoại hối;
Chế độ thông tin, báo cáo liên quan đến hoạt động ngoại hối;
Thanh tra, kiểm tra và kiểm soát đối với hoạt động ngoại hối;
Chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật về ngoại hối;
III- Thực trạng quản lí, điều hành của NHNN với thị trường ngoại hối
ở Việt Nam và một số giải pháp
1.

Thực trạng pháp luật.
Để tạo môi trường hoạt động lành mạnh, ổn định cho mọi thành phần trong
nền kinh tế khi tham gia hoạt động ngoại hối, pháp luật Việt Nam đã có những
quy định tương đối chặt chẽ về xử lý vi phạm vi phạm pháp luật trong QLNH.
Theo nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng và Nghị định
95/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 202/2004/NĐ-CP,
việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngoại hối được phân chia theo từng loại hành
vi cụ thể như: Không niêm yết công khái tỷ giá mua và bán ngoại tệ tại địa
điểm gia dịch: Mua, bán, thanh toán ngoại tệ đối với khách hàng hoặc chỉ trả
ngoại tệ của khách hàng gửi từ nước ngoài về Việt Nam không đúng tỉ giá giao
dịch theo quy định; Cho vay, cho thuê tài chính hoặc trả nợ trong nước bằng
ngoại tệ không đúng quy đinh; Cho vay, cho thuê tài chính hoặc trả nợ trong
nước bằng ngoại tệ không đúng quy định; Chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài
và vào Việt Nam không đúng quy định; Thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng


ngoại tệ với người nước ngoài không đúng quy định của pháp luật; Mua bán,
thanh toán ngoại tệ không đúng quy định; Mở tài khoản hoặc sử dụng tài khoản
ngoại tệ ở nước ngoài mà chưa được phép hoặc không đúng quy định trong giấy
phép của cấp có thẩm quyền; Niêm yết giá, quảng cáo hàng hóa, dịch vụ quyền
sử dụng đất bằng ngoại tệ, vàng không đúng quy định; hoạt dộng ngoại hối mà
không được cấp có thẩm quyền cấp giấy phép hoặc giấy phép hoạt động ngoại
hối đã hết thời hạn hoặc bị đình chỉ; Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu ngoại tệ,
vàng mà không có giấy phép của NHNN…
Các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật ngoại hối bị áp dụng hình thức
phạt tiền từ mức 200.000 đồng đến 500.000.000 đồng tùy theo từng hành vi cụ
thể và có thể phải chịu áp dụng hình thức phạt bổ sung như : tịch thu tang vật,
tước quyền sử dụng Giấy chứng nhân đăng ký Đại lý đổi ngoại tệ.
Ngoài thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính của NHNN là cơ quan

quản lý nhà nước về lĩnh vực ngoại hối, pháp luật cũng quy định rõ thẩm quyền
xử phạt của các chủ thể quản lý khác nhau như Chủ tịch UBNN cấp tỉnh, Cục
trưởng Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Cục
trưởng Cảnh sát điều tra tội pham về trật tự xã hội…
2.
Thực trạng hoạt động ngoại hối ở Việt Nam.
Năm 2009, tỉ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt
sau khi Ngân hàng nhà nước (NHNN) thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5%
khiến cho tỉ giá ngoại tệ liên ngân hàng đã có đợt tăng đột biến. Năm 2010, giá
USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng 1/2010 lại giảm nhẹ và
tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010.
Nguyên nhân là do: nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp,
từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức, từ vốn đầu tư gián tiếp, từ nguồn kiều hối từ
Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách
quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng
trưởng âm sang tăng trưởng dương…; bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty


lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do
lo sợ rủi ro tỉ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết
trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể.
Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối Việt Nam rơi vào tình trạng
căng thẳng khi cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều
này khiến cho giá USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô.
Đầu tháng 11/2010, giá trị đồng USD đang giảm trên toàn thế giới
nhưng ở Việt Nam lại tăng mạnh. Đây là một nghịch lý và đã gây ra những tác
hại lớn cho nền kinh tế. Giá USD trên thị trường tự do liên tục bứt phá lên mức
cao, bỏ xa tỷ giá chính thức. Các ngân hàng đều niêm yết giá đúng quy
định,song thực tế, ngoài giá mua vào bán ra cộng thêm các chi phí khác đã cao
hơn giá niêm yết. Hiện tượng này dường như lặp lại tình hình của một số thời

kỳ trước. Đáng chú ý,trong hệ thống ngân hàng, quy mô giao dịch, trạng thái
ngoại hối cũng giảm. Nếu trước đây (hồi tháng 8) điều chỉnh là dương 3%, gần
đây, đã giảm xuống dương 1% và đến giai đoạn gần đây xuống xấp xỉ 0%. Điều
này cho thấy, các ngân hàng cũng không dư thừa ngoại tệ. Đây thực sự là một
nghịch lý khi trên thế giới USD mất giá, vàng tăng giá, còn ở Việt Nam USD
tăng giá, vàng lên giá và tiền Việt lại mất giá.
Sáu tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN,
điểm nổi bật nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỉ giá giao
dịch dần hạ xuống. Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỉ giá trên thị trường tự do,
chênh lệch tỉ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm dần
xuống, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện
tượng hiếm thấy trong nhiều năm qua. Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh
lệch tỉ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức giảm thiểu, tỉ giá cơ
bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ.
Tính đến ngày 29/9/2011, huy động vốn ngoại tệ của hệ thống các tổ
chức tín dụng từ nền kinh tế tăng 0,07% (tương đương 17 triệu USD) so với


cuối tháng 8/2011, tiền gửi ngoại tệ của tổ chức tín dụng tại NHNN tăng 45,1%
so với cuối tháng 8/2011, tương đương với mức tăng thêm 586 triệu USD. Dư
nợ tín dụng bằng ngoại tệ (thu nợ ngoại tệ) giảm 792 triệu USD, tương đương
2,71% so với cuối tháng 8/2011. Như vậy, trong tháng 9/2011, phần thu ngoại
tệ (809 triệu USD) vẫn lớn hơn phần chi ngoại tệ trả nợ (745 triệu USD) của hệ
thống ngân hàng là 64 triệu USD. Mặt khác, tiền gửi ngoại tệ của tổ chức tín
dụng tại NHNN tăng cao trong tháng 9/2011cho thấy thanh khoản ngoại tệ của
hệ thống ngân hàng tiếp tục được đảm bảo.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, thị trường ngoại hối Việt Nam
cũng đang đứng trước nhiều khó khăn cần phải giải quyết kịp thời:
- Trong hệ thống các tổ chức tín dụng, tốc độ tăng tín dụng ngoại tệ
lớn hơn gần 2 lần tốc độ tăng tín dụng nội tệ, tốc độ tăng tín dụng vàng cũng rất

cao là những nghịch lý không giống nước nào trong khu vựcvà trên thế giới.
Hậu quả là đã làm tăng tình trạng đô la hóa (thậm chí vàng hóa) vốn đã rất nặng
nề, nay lại càng phức tạp thêm. Thêm vào đó, chênh lệch quá lớn giữa lãi suất
đồng nội tệ và ngoại tệ khiến các doanh nghiệp đổ xô đi vay USD, sau đó bán ra
lấyVND để phục vụ sản xuất kinh doanh, làm cho nguồn cung ảo USD trên thị
trường gia tăng. Các chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, cung ảo này sẽ biến thành
cầu thực khi các khoản vay đến kỳ đáo hạn và sẽ tạo áp lực lên tỉ giá những
tháng cuối năm.
- Nhập siêu liên tục tăng lên trong các tháng đầu năm làm cho cán cân
thương mại, cán cân thanh toán bị mất cân đối, tạo sức ép lên tỉ giá. Đó cũng là
biểu hiện của nợ thương mại nước ngoài không trong danh mục nợ tín dụng của
Nhà nước và doanh nghiệp với nước ngoài. Mặt khác, theo thống kê từ đầu năm
đến nay, nguồn ngoại tệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, nguồn kiều hối sẽ
khó tăng cao so với năm trước. Nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp, hỗ trợ phát
triển chính thức và khách quốc tế đến Việt Nam có thể tăng, nhưng không có ý
nghĩa quyết định.


- Luật pháp về kinh tế thị trường còn rất yếu và thiếu, làm cho Nhà
nước bị bất lực trước vô số hiện tượng kinh tế ngầm nằm ngoài vòng kiểm soát
hoặc không thể kiểm soát được, gây thất thu thuế và ô nhiễm môi trường ở mọi
loại doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần kinh tế. Điển hình về việc thiếu và yếu
của luật pháp trên thị trường tài chính thể hiện trong các lĩnh vực kiểm soát tình
trạng đô la hóa, pha loãng cổ phiếu, làm giá chứng khoán, kiểm soát giao dịch
bất động sản, chi tiêu ngân sách nhà nước, lập “sân sau” để đầu tư chéo và
thanh toán biên mậu chủ yếu bằng tiền mặt nhằm trốn thuế và gian lận giá cả…
đã làm cho thị trường tài chính Việt Nam có khá nhiều hiện tượng “loạn”: loạn
giá vàng, bất động sản, tỷ giá, lãi suất và tín dụng ngoại tệ,…, vì vậy vô hình
chung thị trường tài chính đã góp phần tạo thành tổng lực đẩy chỉ số giá tiêu
dùng lên tới 2 con số: 11,75% so với tháng 12/2009.

- Mặc dù niềm tin vào đồng Việt Nam được củng cố nhưng tình trạng
đô-la hóa vẫn chưa được giải quyết triệt để; tín dụng ngoại tệ tăng cao, một số
tổ chức tín dụng có hệ số sử dụng vốn vượt 100%, một số tổ chức tín dụng huy
động vốn nước ngoài để tăng trưởng tín dụng cao, tiềm ẩn rủi ro khi các nguồn
vốn nước ngoài bị rút đột ngột. Trên thị trường vẫn còn tình trạng các TCTD
lách các quy định về tỷ giá làm tăng bất ổn trên thị trường ngoại hối…
- Hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu có nguyên liệu là hàng nhập khẩu
mà tỷ giá liên tục tăng đã đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát, cộng hưởng với
lạm phát trong nước cùng đẩy giá hàng nhập khẩu cho tiêu dùng và nhập khẩu
cho sản xuất lên cao. Việc hầu như không có ngành công nghiệp phụ trợ, không
chỉ làm cho giá trị gia tăng thấp, mà còn làm cho nền kinh tế bị chia cắt cục bộ
thành nhiều “tiểu nền kinh tế” có những cơ chế khác nhau cả về sản xuất, tiêu
thụ lẫn phương tiện thanh toán ngay trong cùng một thị trường của quốc gia
thống nhất.


- Nếu nhìn vào nền kinh tế nói chung thì nước ta vẫn luôn là nền kinh
tế bị nhập siêu (trừ năm 1992). Nghĩa là, đồng nội tệ đã liên tục yếu đi so với
sức mua bên ngoài mà vẫn không cải thiện được tình trạng nhập siêu. Theo thời
báo kinh tế Việt Nam, số 308 ngày 25-12-2010, nếu tính lũy kế chỉ 7 năm từ
tháng 12/2003 đến tháng 12/2010, CPI của Việt Nam đã tăng 200% (2 lần);
cũng theo nguồn trên, giá vàng tháng 12/2010 đã cao hơn giá vàng tháng
12/2000 tới 7,3 lần, tức là sức mua của VND sau 10 năm nếu so với vàng chỉ
còn 13,7%. Trong khi đó, cuộc chiến tiền tệ giữa các cường quốc, cũng như
cuộc chiến nợ công giữa các quốc gia châu Âu cũng đang gây sức ép giảm sức
mua của nhiều đồng tiền, làm cho thị thường ngoại hối có nhiều thay đổi to lớn.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật
Hoạt động thanh tra xử lý vi phạm về ngoại hối đối với các TCTD thương
được NHNN tiến hành lồng ghép trong các cuộc thanh ta toàn diện về hoạt
động của các TCTD. Qua thanh tra, các sai phạm chủ yếu của các TCTD trong

lĩnh vực ngoại hối thường là vi phạm quy định về trạng thái ngoại hối không
chấp hành đúng quy định về biên độ tỷ giá khi mua bán ngoại tệ với khách
hàng, bán ngoại tệ với mức giá cao vượt tỷ giá do NHNN quy đinh. Tuy nhiên,
hiện nay các sai phạm về hoạt động ngoại hối của các TCTD không nhiều và
nghiêm trọng nên việc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực QLNH đối với các
TCTD không nhiều và không nghiêm trọng nên việc xử phạt vi phạm trong lĩnh
vực QLNH đối với các TCTD là rất ít. Đối với các sai phạm nhỏ, NHNN
thương đưa ra các kiến nghị yêu cầu các TCTD chấn chỉnh, khắc phục
Trong thời gian qua, NHNN đã phối hợp với các cơ quan liên quan thành lập
các đoàn kiểm tra đột xuất để kiểm tra việc chấp hành quy định về QLNH của
các tổ chức kinh tế. Các đoàn kiểm tradđã phát hiện và xử lý các hành vi mua,
bán, thanh toán ngoại tệ không đúng quy đinh, niêm yết giá, quảng cáo hàng
hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ trái pháp luật…qua đó góp phần ổn định, lành mạnh


thị trường ngoại hối, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Như vậy, cùng với
Nghị định số 202/2004, việc ban hành Nghị định 95/2011 đã tạo cơ sở pháp lý
kịp thời cho công tác thanh tra, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về lĩnh vực ngoại hối từng bước chấn chỉnh hoạt động ngoại hối của các
chủ thể tham gia thị trương, góp phần thiết lập trật tự thị trường, tăng cường kỷ
cương pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
ngoại hối.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm trong QLNH thời
gian qua cho thất vẫn còn một số hạn chế nhất định. Theo quy định tại mục đ
khoản 5 Điều 1 Nghị đinh 95/2011, các hành vi niêm yết giá, quảng cáo hàng
hóa, dịch vụ, quyền sử dụng đất bằng ngoại tệ, vàng không đúng quy định của
pháp luật bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 500 triệu đồng. Theo cách hiểu
thông thường, niêm yết giá là phải công khái giá đê người mua có thể nhìn thấy
được như in, dán, ghi trên bao bì, trên bảng, giấy hoặc hình thức hác được đặt,
treo dán, nơi bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ. Do vậy, đối với các trường hợp

định giá dịch vụ trong các hợp đồng du lịch… có thể coi là niêm yết giá bằng
ngoại tệ hay không. Điều này gây khó khăn cho công tác kiểm tra và xử lý vi
phạm.
Hiện nay, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không còn diễn
ra công khai, song cẫn có hoạt động ngầm gây khó khăn cho việc kiểm tra,
kiểm soát. Vì vậy đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng để thực hiên kiểm tra, kiểm soát một cách quyết liệt thường
xuyên mới có hiệu quả tích cực
4. Một số giải pháp
-

Để cải thiện tình hình thị trường ngoại hối từng bước phát triển thị

trường ngoại hối chúng ta cần xây dựng một cơ chế pháp lý- thiết chế theo
hường khẳng định các biện pháp bảo đảm thông qua việc cho phép các cơ quan


có thẩm quyền áp dụng biện pháp phong tỏa việc chuyển tiền hoặc tài sản cá
nhân, tổ chức có liên quan đến các lĩnh vực như khủng bố, rửa tiền
Quản lý tốt dự trữ ngoại hối tăng tích lũy ngoại tệ, xây dựng chính
sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập
những hàng hóa cho nhu cầu cần thiết và những mặt hàng thiết yếu trong nước
chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải
có hiệu quả. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ của
mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi
USD mất giá.
Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao
gồm việc giảm dần, tiến tới loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà
nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các quy định mang tính chất hành chính
trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sủ

dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chất chủ
động trong kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại.
Cần nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại
hối, Ngân hàng Nhà nước là đầu mối quản lý ngoại tệ, là người mua bán cuối
cùng để cân bằng thị trường ngoại hối.

KẾT LUẬN:
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý và kinh doanh ngoại hối đã thu
được những kết quả đáng ghi nhận, giữ được ổn định giá trị đối nội, đối ngoại
của đồng tiền Việt Nam, góp phần phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn
định và bền vững. Những thiếu sót, bất cập đang tồn tại là những khuyết điểm
khó tránh trong quá trình hội nhập và phát triển. Như vậy Ngân hàng Nhà nước
cần ra sức khắc phục những tồn tại khó khăn, dũng cảm vượt qua chính mình
đưa hoạt động ngoại hối không bị tụt hậu trước những đổi mới của thời đại và
cố gắng phấn đấu để đồng tiền Việt Nam sớm trở thành đồng tiền có khả năng
thanh toán quốc tế.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2010.
2. Pháp lệnh ngoại hối năm 2005.
3. Nghị định của Chính phủ số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh ngoại hối.
4. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH 12.





×