Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.96 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A – MỞ ĐẦU........................................................................................................2
B – NỘI DUNG....................................................................................................2
C – KẾT LUẬN.................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................16

1


A – MỞ ĐẦU
Cạnh tranh trong nền kinh tế được thừa nhận là yếu tố đảm bảo cho việc
duy trì tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế. Pháp luật và chính sách về
cạnh tranh là một trong các bộ phận quan trọng của nền tảng pháp lý cho
việc hình thành nền kinh tế thị trường, và đã nói đến nền kinh tế thị trường
thì yếu tố cạnh tranh là một nền tảng cơ bản, và nền kinh tế thị trường
không thể vận hành nếu không có cạnh tranh.
Cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng đóng vai trò trụ cột, đảm bảo sự
vận hành hiệu quả của cơ chế thị trường. Pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền
cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh, và Việt Nam trong nỗ lực tạo lập môi
trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế, theo đó Quốc hội khóa
XI, kỳ họp thứ 6 đã thông qua Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 vào
ngày 03/12/2004 và luật này đã có hiệu lực thi hành kể từ ngay
01/7/2005 (sau đây gọi tắt là Luật Cạnh tranh/ Law on Competition).
Trên thực tế đã có nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh gây cản trở cạnh
tranh, có khả năng gây thiệt hại cho thị trường. Vì thế hành vi này đã được điều
chỉnh bởi Luật canh tranh 2004. tuy nhiên trong những hành vi hạn chế cạnh
tranh bị cấm lại được có những trường hợp được hưởng miễn trừ. Đây là điểm
tương đối riêng của pháp luật cạnh tranh Việt Nam. Bài viết sau sẽ phân tích,
diễn giải các trường hợp này.

B – NỘI DUNG


1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CẠNH TRANH VÀ HÀNH VI HẠN
CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Cạnh Tranh Trong Nền Kinh Tế
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, song có thể hiệu cạnh tranh
là sự ganh đua để giành ưu thế về phía mình. Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền
với kinh tế thị trường. Với tư cách là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế,
cạnh tranh chỉ xuất hiện và tòn tại trong nền kinh tế thị trường dưới những tiền
đề kinh tế và pháp lý nhất định.
Về phương diện kinh tế, cạnh tranh được hình thành trên cơ sở tiền đề:
các yếu tố của sản xuất( tài nguyên, chất xám, sức lao động,..) đều là hàng hóa,
có sự tham gia của các thành viên trên thương trường có lợi ích cơ bản là mâu
2


thuẫn nhau trên một thị trường hàng hóa cụ thể. Về phương diện pháp lý, cạnh
tranh chỉ có thể diễn ra trong điều kiện quyền tự do thương mại, tự do khế ước,
quyền tự chủ của các cá nhân hình thành và đảm bảo, pháp luật thừa nhận và
bảo hộ tính đa dạng của các loại hình sở hữu. Cạnh tranh cũng chỉ diễn ra khi
không có bất kỳ một quy định hay một hành vi nào ngăn cản sư nhập cuộc của
các doanh nghiệp tiềm năng.
Nhìn chung, cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại
cho người kia, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh trạnh luôn có tác động
tích cực.
- Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh luôn thôi thúc các chủ thể kinh doanh
không ngừng tranh đua nhau nhằm thu hút ngày càng nhiều thị phần và khách
hàng về phía mình. Để đạt được mục đích đó, các chủ thể kinh doanh luôn phải
tích cực cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới nhất với sản xuất, đổi mới phương thức quản lý kinh doanh, tìm mọi
cách nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm. Hơn nữa, cạnh tranh
cũng đòi hỏi các doanh nghiệp buộc phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để

tăng hiệu quả kinh tế.
- Đối với người tiêu dùng: cạnh tranh giúp cho người tiêu dùng phát huy
tối đa quyền lựa chọn của mình. Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng được
coi là thượng đế. Họ hoàn toàn có quyteenf dùng lá phiếu bằng đồng tiền của
mình để lựa chọn sản phẩm với chất lượng tốt nhất và giá rẻ nhất. Như vậy,
người tiêu dùng luôn là người được hưởng lợi từ kết quả của cạnh tranh.
Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển cuả nền kinh tế, cạnh tranh
luôn là đối tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Sau vài thế
kỷ thăng trầm của nền kinh tế thị trường và sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, con người ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về bản
chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế.
Do đó, đã có nhiều nỗ lực xây dựng và tìm kiếm những cơ chế kinh tế thích hợp
để duy trì và bảo vệ cho cạnh tranh được diễn ra theo đúng chức năng của nó.

1.2. Các Hành Vi hạn Chế Cạnh Tranh Bị Cấm
Theo khoản 3, Điều 3 của Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh là
hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị
trường. Các hành vi thuộc nhóm hạn chế cạnh tranh bao gồm thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung
3


kinh tế kinh tế. Các hành vi này được quy định cụ thể tại Nghị định của Chính
phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005.
1.2.1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh, Nghị định 116 và các văn bản hướng dẫn có liên quan
không định nghĩa hoặc diễn giải trực tiếp về khái niệm “thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh”, tuy nhiên theo quy định tại Luật Cạnh tranh (khoản 3, Điều 3) thì
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hiểu là thỏa thuận giữa hai hoặc
nhiều doanh nghiệp nhằm mục đích làm giảm, nhằm làm sai lệch hoặc cản trở

hoạt động cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Xét về khía cạnh công cụ pháp lý thì việc chống lại “thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh” là nhằm bảo vệ hoạt động cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm khả
năng hoạt động bình thường của thị trường, ngăn chặn và loại trừ việc lạm
dụng vị thế thống lĩnh hoặc độc quyền kinh doanh trên thị trường vì sự phát
sinh các thỏa thuận có thể có hại cho thị trường.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhìn dưới khía cạnh cấu trúc và trên cơ
sở mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận sẽ có hai dạng:
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh “theo chiều dọc” là thỏa thuận được hình
thành giữa các công ty ở các giai đoạn sản xuất hoặc phân phối khác nhau,
được thể hiện dưới các hình thức như định giá, thương lượng giá và nổi bật
nhất là hình thức áp đặt giá.
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh “theo chiều ngang” được hình thành
giữa các công ty cùng kinh doanh trong một lĩnh vực, đây là một dạng cartel
để khống chế giá, phân chia thị trường hoặc có sự thoả thuận phối hợp cùng
hành động nào đó để cản trở cạnh tranh từ doanh nghiệp khác.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm trong mọi trường hợp sau
đây và không có yếu tố miễn trừ:
i. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác
tham gia thịtrường hoặc phát triển kinh doanh;
ii. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không
phải là các bên của thoả thuận;
iii. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu
trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm khi thị phần kết hợp của
các bên tham gia thỏa thuận chiếm từ 30% trở lên:
4



i.
ii.

Thoả thuận ấn định giá một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
Thoả thuận nhằm phân chia thị trường, nguồn cung cấp hàng hóa,
cung cấp dịch vụ;
iii. Thoả thuận nhằm hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản
xuất, mua, bán;
iv. Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
v. Thoả thuận áp đặt điều kiện ký kết hợp đồng hoặc buộc chấp nhận
các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng hợp đồng.
Nghị định 116, từ Điều 14 – Điều 18 có quy định cụ thể và khá chi
tiết các dạng thỏa thuận này. Các thoả thuận khi thị phần kết hợp của các bên
tham gia thỏa thuận chiếm từ 30% trở lên và có thể được miễn trừ có thời
hạn theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Việc miễm trừ chỉ
được áp dụng nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá
thành và có lợi cho người tiêu dùng:
i. Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh;
ii. Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá,
dịch vụ;
iii. Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức
kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
iv. Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng
không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
v. Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
vi. Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Quy định về miễn trừ có thời hạn nêu trên là một điểm “tương đối
riêng” của pháp luật về cạnh tranh của Việt Nam, và xét trên bình diện thực

tế thì quy định này là phù hợp với những quốc gia mà thể chế kinh tế thị
trường chưa hoàn thiện cùng với mức độ tự do gia nhập thị trường còn bị
nhiều hạn chế.
Trường hợp điển hình- Trên thực tế, tại thị trường Việt Nam không
khó để nhận ra các hành vi vi phạm, ví như trong năm 2008 Hiệp hội Thép
Việt Nam (VNSA) ra nghị quyết ấn định giá bán khi yêu cầu tất cả các
thành viên phải bán ra giá thép với mức giá thống nhất là 13,7 - 14 triệu
5


đồng/tấn thép hoặc vụ việc Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất nâng
mức phí bảo hiểm lên 3,95%/năm cho tất cả các đối tượng khách hàng.
Ngày 29/7/2010, Hội đồng Cạnh tranh đã ra quyết định xử phạt 1,7 tỷ
đồng cho 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cho các vi phạm tại khoản
1, Điều 8, Luật Cạnh tranh “Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp” và “ thoả thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên
tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở
lên” (vì thị trường của 19 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tham gia
thỏa thuận chiếm 99,79% của thị trường bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Việt
Nam).
1.2.2. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh.
Theo Điều 11 Luật Cạnh tranh, vị trí thống lĩnh trên thị trường được xác
định dựa trên thị phần hoặc khả năng gây ra các hạn chế cạnh tranh từ một
doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp, theo đó: Doanh nghiệp được
coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị
trường liên quan1 hoặc có khả năng gây ra các hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể, và Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường
nếu nhóm doanh nghiệp này cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh
và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
i. 02 doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị

trường liên quan;
ii. 03 doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên
thị trường liên quan;
iii. 04 doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên
thị trường liên quan.
Là một hành vi hạn chế cạnh tranh tuy nhiên hành vi này pháp luật không dụ
trừ các trường hợp được miễn trừ.
1.2.3. Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh
trên thị trường liên quan (Điều 12, Luật Cạnh tranh). Lạm dụng vị trí độc
1

Thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, và
được định nghĩa như sau: Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hoá, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả; Thị trường địa lý liên quan là một
khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hoá, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều
kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận

6


quyền chủ yếu liên quan tới hành vi của các doanh nghiệp hoạt động và kinh
doanh độc lập.
Ngoài các hành vi bị cấm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo
quy định tại Điều 13 của Luật Cạnh tranh, Điều 14 Luật Cạnh tranh còn quy
định thêm 02 hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm như sau:
i. Áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng;
ii. Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ bỏ hợp
đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.

Đây cũng là hành vi không có điều khoản miễn trừ.
Thị trường Việt Nam hiện tại, có nhiều doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền, ví như: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Vietnam
Arlines ... và trong mối tương quan này người tiêu dùng không có hoặc có
ít quyền được lựa chọn cho hàng hóa, dịch vụ theo ý muốn của mình.
Trường hợp điển hình- Tranh chấp giữa Công ty Xăng dầu
Hàng không Việt Nam (Vinapco) và hãng hàng không Jet-Star Pacific (JPA)
về cung cấp xăng dầu.
Sự việc xảy ra vào năm 2008, và vào thời điểm xảy ra vụ việc giữa
Vinapco và JPA đã có hợp đồng mua bán xăng dầu, trong hợp đồng có ghi rõ
phí nạp xăng dầu là 593.000 đồng/ tấn. Ngày 20/3/2008, Vinapco gởi văn
bản cho JPA đề nghị tăng phí nạp xăng dầu lên 750.000 đồng/ tấn và việc
tăng này sẽ được áp dụng từ ngày 01/4/2008, tuy nhiên việc tăng này chỉ áp
dụng riêng cho JPA mà không lại không được áp dụng cho Vietnam
Airlines (VNA)- là đối thủ cạnh tranh của JPA tại các sân bay nội địa. Cũng
cần đề cập thêm, vào thời điểm tháng 4/2008 Vinapco là nhà cung ứng duy
nhất được phép kinh doanh xăng dầu hàng không thương mại tại các sân bay
trong nước.
Khi tranh chấp đang diễn ra và chưa có sự thống nhất của JPA thì ngày
vào ngày 01/4/2008, Vinapco đơn phương ngừng cung cấp nguyên liệu cho tất
cả các chuyến bay của JPA và sự việc này làm ảnh hưởng tới hàng nghìn hành
khách của JPA cũng như các hoạt động khác của JPA đều bị đình trệ.
Vụ tranh chấp đã được phân định bởi Hội đồng Cạnh tranh
(Vietnam Competition Council-VCC) vào tháng 4/2009. Hội đồng Cạnh
tranh đã căn cứ vào khoản 2 và 3 của Điều 14 Luật Cạnh tranh ra quyết định
xử phạt đối với Vinapco do các hành vi từ “Áp đặt các điều kiện bất lợi cho
7


khách hàng” và “Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc huỷ

bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng”.
1.2.4. Hành vi tập trung kinh tế
Tập trung kinh tế hay thường được gọi là “sáp nhập/ M&A” bao gồm
các loại hợp nhất về cấu trúc, đây là nội dung quan trọng cấu thành quyền tự
do kinh doanh và đã được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 2005
(Điều 152, 153), Luật Đầu tư năm 2005 trong các quy định về hình thức
đầu tư. Ngoài ra tập trung kinh tế còn được quy định tại các văn bản pháp
khác như Luật Chứng khoán năm 2006, Luật các Tổ chức Tín dụng.
Với tính chất là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của
cấu trúc thị trường, tập trung kinh tế được hiểu là quá trình mà số lượng
các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua
các hành vi sáp nhập hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh
nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất, năng lực kinh doanh hay quản
lý. Luật Cạnh tranh không đưa ra định nghĩa về tập trung kinh tế mà chỉ liệt
kê các loại hành vi tập trung.
Điều 16 và Điều 17 của Luật Cạnh tranh quy định tập trung kinh tế là
hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
i. Sáp nhập doanh nghiệp: là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang
một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập.
ii. Hợp nhất doanh nghiệp: là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các
doanh nghiệp bị hợp nhất.
iii. Mua lại doanh nghiệp: là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
iv. Liên doanh giữa các doanh nghiệp: Liên doanh giữa các doanh
nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần

tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.
v. Các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật.
8


Như vậy, trong các hình thức tập trung kinh tế theo Điều 16, 17 của
Luật Cạnh tranh không có đề cập đến hình thức liên kết bằng cách có chung
đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà chỉ đề cập đến việc liên kết bởi và giữa các
doanh nghiệp với nhau.
Việc cơ quan Nhà nước quản lý hoạt động tập trung hay hoạt động
“sáp nhập” là nhằm ngăn chặn sự hình thành các doanh nghiệp lớn có sức
mạnh khống chế thị trường qua việc kết hợp về mặt cấu trúc. Luật Cạnh
tranh theo đó tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan quản lý Nhà
nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Tuy nhiên, việc kiểm soát này
chỉ tập trung vào một số trường hợp trên cơ sở đánh giá quy mô của
doanh nghiệp hình thành sau hoạt động tập trung kinh tế. Theo đó:
i. Đối với các trường hợp tập trung trong đó thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia dưới
30% hoặc trường hợp doanh nghiệp hình thành sau khi thực
hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
theo quy định của pháp luật thì các doanh nghiệp được tiến hành
tập trung kinh tế mà không cần phải thực hiện thủ tục thông báo
bắt buộc;
ii. Đối với các trường hợp tập trung trong đó thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia từ 30%
đến 50% thì các doanh nghiệp được tiến hành tập trung kinh tế
phải thực hiện thủ tục thông báo cho Cục Quản lý Cạnh tranh
trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Luật Cạnh tranh có quy định cấm thực hiện tập trung kinh tế đối với

các trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các
doanh nghiệp tham gia tập trung chiếm trên 50% trên thị trường liên quan
và doanh nghiệp hình thành sau hoạt động tập trung kinh tế không thuộc
loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật (Điều 18, Luật
Cạnh tranh). Như vậy, chỉ có trường hợp tập trung kinh tế tạo ra trên 50% thị
phần kết hợp trên thị trường liên quan mới bị cấm do tiềm ẩn nguy cơ hạn
chế cạnh tranh, tương ứng với quy định tại điểm a, Khoản 2, Điều 11 về
doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Tuy nhiên, việc tập trung kinh tế thuộc diện bị cấm cũng có thể được
xem xét và miễn trừ trong hai trường hợp:
9


i.

Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong
nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; hoặc
ii.
Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
Quy định về chống hạn chế cạnh tranh là để bảo vệ môi trường kinh
doanh tự do và kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh, chứ không phải bảo
vệ sản xuất hay phát triển công nghệ được hiểu theo một phương cách cụ
thể. Do đó, với quy định khá chung trong khoản 2, Điều 19 đã vô hình
chung miễn trừ các trường hợp tập trung kinh tế của các doanh nghiệp Nhà
nước.
Trường hợp điển hình- Vụ việc Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Prudential
mua lại Công ty Bảo hiểm Nhân thọ AIA theo hình thứ sáp nhập.
Tập đoàn Prudential Plc (mang quốc tịch Anh) và Tập đoàn American
International Group Inc (AIG- mang quốc tịch Hoa Kỳ) vào tháng 4/2010 có

gởi văn bản tham vấn đến Cục Quản lý Cạnh tranh nhằm tham vấn và hỏi ý
kiến về việc mua lại Công ty AIA Việt Nam.
Công ty AIA Việt Nam là công ty con, có sở hữu vốn và thuộc Tập đoàn
AIG, chiếm 6,67% thị phần của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam vào
năm 2009.
Công ty Prudential Việt Nam là công ty con và thuộc sở hữu vốn của
Tập đoàn PrudentialPlc, chiếm 39,97% thị phần của thị trường bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam vào năm 2009.
Với hình thức mua lại doanh nghiệp và do thị phần kết hợp của hai
Bên chiếm 46,64% thị phần của thị trường bảo hiểm nhân thọ (thuộc trường
hợp thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia
từ 30% đến 50%) nên trong trường hợp này phải nộp hồ sơ và thực hiện thủ tục
thông báo cho Cục Quản lý Cạnh tranh trước khi tiến hành việc mua lại doanh
nghiệp. Do đó, nhận thức được việc này, Tập đoàn Prudential Plc và Tập
đoàn AIG đã gởi văn bản tham vấn để hỏi ý kiến và xúc tiến thủ tục.

2. CÁC HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH BỊ CẤM ĐƯỢC
HƯỞNG MIỄN TRỪ
Trong các hành vi hạn chế cạnh tranh trên chỉ có 2 hành vi có thể được
hưởng miễn trừ đó là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi tập trung
kinh tế.

2.1. Miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
10


2.1.1. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được hưởng miễn trừ
Như đã phân tích ở trên, không phải tất cả các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh đều được miễn trừ mà có những thỏa thuận bị cấm tuyệt đối và có những
thỏa thuận có thể được hưởng miễn trừ. Đó là các thỏa thuận:

i.
ii.

Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp;
Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá,
cung ứng dịch vụ;

iii.

Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất,
mua, bán hàng hoá, dịch vụ;

iv.

Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;

v.

Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng
mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận
các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;

Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này được miễn trừ có thời hạn nhằm
mục đích hạ giá thành và có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên để được hưởng
miễn trừ, các bên phải đáp ứng được các điều kiện luật đinh.
2.1.2. Điều kiện để được hưởng miễn trừ
Để được hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh các bên
phải nộp đơn lên cục quản lý cạnh tranh và đáp ứng một trong các điều kiện sau
i.

ii.

Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả
kinh doanh;
Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá,
dịch vụ;

iii.

Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định
mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;

iv.

Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng
không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;

v.

Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
11


vi.

Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế.

Hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh; hoặc thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng

hóa,dịch vụ đó có thể là hai doanh nghiệp cùng cạnh tranh trên thị trường, trong
đó một doanh nghiệp có chất lượng chất lượng sản phẩm tốt nhưng mạng lưới
phân phối kém có thể phối hợp với doanh nghiệp có sản phẩm với chất lượng
trung bình nhưng mạng lưới phân phối hiệu quả. Sự kết hợp này giúp cho hiệu
quả hoạt động của hai doanh nghiệp tốt hơn và đem lại hiệu quả cho người tiêu
dùng trong việc hưởng thụ sản phẩm với chất lượng đảm bảo yêu cầu. Hoặc, các
doanh nghiệp có thể hợp tác và phát triển và thực hiện các công trình nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật có liên quan mà nếu như làm một mình
sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Trường hợp này thường xảy ra với
những nghành nghề kỹ thuật đòi hỏi công nghệ có trình độ cao như chế tạo máy
bay, khoa học viễn thông.
Thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại
sản phẩm điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán có nội dung là thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp nhằm thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm hoặc thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh
doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của
giá. Dưới góc độ kinh tế, các thỏa thuận về việc đặt ra các tiêu chuẩn nói trên
nhìn chung là có lợi cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động
một cách có hiệu quả hơn nếu như những tiêu chuẩn đó là tiến bộ và phản ánh
sự đi lên trong công nghệ kỹ thuật, chất lượng và trình độ kinh doanh.
Nâng cao năng lực cạnh tranh được Luật cạnh tranh dự liệu bao gồm hai
loại là: các thỏa thuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ
và vừa; tăng cường sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2.1.3. Hồ sơ, thủ tục xin hưởng miễn trừ
Đối tượng nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ là các bên dự định tham gia
thoả thuận hạn chế cạnh tranh.Các bên tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh
có thể cử một đại diện làm thủ tục đề nghị hưởng miễn trừ. Việc cử đại diện phải
được lập thành văn bản có xác nhận của các bên. Quyền và nghĩa vụ của bên đại
diện do các bên thoả thuận quy định.Các bên chịu trách nhiệm về hành vi của
bên đại diện trong phạm vi uỷ quyền.

12


Hồ sơ xin hưởng miễn trừ bao gồm:
1. Đơn theo mẫu của cơ quan quản lý cạnh tranh. Mẫu đơn có thể được

tải từ website của Cục Quản lý cạnh tranh: www.qlct.gov.vn
2. Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của từng doanh
nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh và Điều lệ của hiệp
hội đối với trường hợp thoả thuận hạn chế cạnh tranh có sự tham gia
của hiệp hội
3. Báo cáo tài chính trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng doanh
nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh có xác nhận của tổ
chức kiểm toán theo quy định của pháp luật;
4. Báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng doanh
nghiệp tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường liên
quan;
5. Báo cáo giải trình cụ thể việc đáp ứng các trường hợp được hưởng
miễn trừ;
6. Văn bản uỷ quyền của các bên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cho bên đại diện.
7. Nếu người nộp hồ sơ tại Cục Quản lý cạnh tranhkhông phải là đại
diện theo pháp luật của bên đại diện thì phải có giấy giới thiệu của
bên đại diện.
8. Chứng minh thư nhân dân của người nộp hồ sơ.
Trong trường hợp hồ sơ có nhiều tài liệu, để tiết kiệm thời gian tiếp nhận
hồ sơ, Cơ quan quản lý cạnh tranh khuyến khích doanh nghiệp lập bản thống kê
tên các tài liệu trong hồ sơ thành file mềm. Bên nộp hồ sơ và các bên tham gia
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ.
Hồ sơ xin miễn trừ gửi về cục quản lý cạnh tranh – Bộ công thương.


2.2. Miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế
2.2.1. Các hành vi tập trung kinh tế bị cấm có thể được hưởng miễn trừ

13


Theo quy định của pháp luật tại các Điều 16, 17, 18, 19 Luật cạnh tranh
2004 thì tất cả các hành vi tập trung kinh tế bị cấm đều có thể được hưởng miễ
trừ. Tức là tất cả các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh và các hành
vi tập trung kinh tế khác mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan trừ trường hợp doanh nghiệp
sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định
của pháp luật thì đều có thể được hưởng miễn trừ.
Tuy nhiên để được hưởng miễn trừ thì các phải thuộc các trường hợp nhất
định được coi là điều kiện để được hưởng miễn trừ.
2.2.2. Điều kiện để được hưởng miễn trừ
Theo quy định tại Điều 19 Luật cạnh tranh 2004, tập trung kinh tế bị cấm
theo quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ nếu nộp
đơn lên cục quản lý cạnh tranh và thỏa mãn 1 trong các điều kiện:
i. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ
bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản, hoặc
ii. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp
phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
Đối với trường hợp một, khi một bên hay nhiều bên đang trong nguy cơ
giải thế hoặc lâm vào tình trạng phá sản tham gia vào tập trung kinh tế là nhằm
cơ cấu lại doanh nghiệp, đưa doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn. Luật
cạnh tranh quy định miễn trừ đối vơí trường hợp này là phù hợp với thông lệ
quốc tế trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh và pháp luật phá sản , theo đó pháp
luật phá sản ưu tiên việc cứu doanh nghiệp hơn là xóa sổ nó.

Đối với trường hợp hai, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập, chúng ta phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh
nghiệp nước ngoài . Việc các doanh nghiệp liên kết lại với nhau để tăng sức
cạnh tranh, phát triển năng lực sản xuất, năng lực xuất khẩu là vô cùng cần thiết.
Chính vì vậy, pháp luật quy định miễn trừ đối với trường hợp tập trung kinh tế
có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội , tiến bộ
khoa học- kỹ thuật, công nghệ là phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2.2.3. Hồ sơ, thủ tục xin hưởng miễn trừ
Đối tượng nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ là các bên dự định tham gia tập
trung kinh tế. Các bên tham gia tập trung kinh tế có thể cử một đại diện làm thủ
tục đề nghị hưởng miễn trừ. Việc cử đại diện phải được lập thành văn bản có xác
nhận của các bên. Quyền và nghĩa vụ của bên đại diện do các bên thoả thuận
14


quy định. Các bên chịu trách nhiệm về hành vi của bên đại diện trong phạm vi
uỷ quyền.
Hồ sơ xin hưởng miễn trừ bao gồm:
1. Đơn theo mẫu của cơ quan quản lý cạnh tranh
Mẫu đơn có thể được tải từ website của Cục Quản lý cạnh tranh:
www.qlct.gov.vn
2. Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của từng doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế.
3. Báo cáo tài chính trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế có xác nhận của tổ chức kiểm toán
theo quy định của pháp luật.
4. Báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế trên thị trường liên quan.
5. Báo cáo giải trình cụ thể việc đáp ứng các trường hợp được hưởng miễn
trừ;

6. Văn bản uỷ quyền của các bên tham gia tập trung kinh tế cho bên đại
diện.
Hồ sơ xin hưởng miễn trừ được nộp lên cục quản lý cạnh tranh.

C – KẾT LUẬN
Với vai trò đảm bảo duy trì cạnh tranh trên thị trường, Luật cạnh tranh
luôn quan tâm đến việc cấm đoán mọi hành vi có khả năng làm tổn hại đến trật
tự hoặc mức độ cạnh tranh. Bên cạnh những hành có tác động tiêu cực đó thì
vẫn có những hành vi có tác động tích cực đến sản xuất , kinh doanh và những
hành vi đó đã được hưởng miễn trừ theo Luật cạnh tranh. Điều đó góp phần tạo
cơ hội cho những doanh nghiệp phát huy khả năng cạnh tranh của mình trên thị
trường.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011.
2. Cục quản lí cạnh tranh - Bộ công thương, Hỏi đáp về Luật cạnh tranh
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. Trần Bảo Ánh, Một số vấn đề pháp lí về tập trung kinh tế theo Luật cạnh
tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2006.
4. Đồng Ngọc Dám, Kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh - Những vấn
đề lí luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2006.
5. Luật cạnh tranh năm 2004
6. Nghị định của Chính phủ số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh.

16



×