Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vấn đề đồng bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm. So sánh đồng bảo hiểm với bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.21 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Khi tham gia bảo hiểm người mua bảo hiểm sẽ chỉ mua bảo hiểm của một
doanh nghiệp duy nhất cho một đối tượng bảo hiểm nhưng vì những lý do khác
nhau cả từ phía người mua bảo hiểm lẫn doanh nghiệp bảo hiểm mà trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm đã xuất hiện những trường hợp bảo hiểm đặc biệt như
đồng bảo hiểm, bảo hiểm trùng, tái bảo hiểm. Quy định của pháp luật hiện nay về
vấn đề này là tương đối ít, việc hiểu và áp dụng của các bên trong những trường
hợp này để xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm bảo hiểm ... vì vậy bài luận sau
xin được đi vào tìm hiểu về “Vấn đề đồng bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm.
So sánh đồng bảo hiểm với bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản”.

I.

Vấn đề đồng bảo hiểm trong kinh doanh bảo hiểm.
1. Khái quát chung về bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm thương mại được coi là một hoạt động kinh doanh theo đó, doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường hoặc trả tiền cho bên mua bảo hiểm hoặc
người thụ hưởng, nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm với điều
kiện bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm. Bảo hiểm thương mại có một số
đặc trưng so với các loại hình bảo hiểm khác:
• Là một hoạt động kinh doanh.
• Sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ tài chính. Dù có tên gọi là sản phẩm
nhưng sản phẩm bảo hiểm không phải là một loại hàng hóa hữu hình mà nó
là một loại dịch vụ tài chính (có tính vô hình), giá trị của nó được đánh giá
thông qua quá trình sử dụng (khi sự kiện bảo hiểm xảy ra)
• Chủ thể thực hiện là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh bảo
hiểm thì chỉ doanh nghiệp bảo hiểm mới có quyền cung cấp các sản phẩm
bảo hiểm thương mại. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp bảo hiểm nào
cũng được triển khai tất cả các loại hình bảo hiểm.
1



• Việc kinh doanh bảo hiểm thương mại chịu sự điều chỉnh trực tiếp cuả Luật
kinh doanh bảo hiểm và các văn bản có liên quan.Trong trường hợp Luật
kinh doanh bảo hiểm không quy định thì áp dụng Bộ luật dân sự 2005. Nếu
luật chuyên ngành quy định khác thì áp dụng luật chuyên ngành chẳng hạn
vấn đề bảo hiểm trong hàng hải thì sẽ ưu tiên áp dụng Bộ luật hàng hải
2004, ...
2. Đồng bảo hiểm trong kinh bảo hiểm
2.1. Khái niệm đồng bảo hiểm.
Hiện nay Luật kinh doanh bảo hiểm đã có các quy định về bảo hiểm trùng, tái
bảo hiểm nhưng lại không có bất kì quy định nào về đồng bảo hiểm.Xuất phát từ
thực tế của thị trường kinh doanh bảo hiểm, có thể hiểu đồng bảo hiểm là trường
hợp một đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm bởi nhiều bên bảo hiểm, trong đó mỗi
bên bảo hiểm bảo hiểm tài sản đó theo một tỉ lệ nhất định và người mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm.
Ngoài các đặc điểm chung của mọi quan hệ bảo hiểm thương mại thì so với
các quan hệ bảo hiểm thông thường khác thì đồng bảo hiểm có các đặc điểm riêng
như:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia. Nếu như các quan hệ bảo hiểm khác chỉ có bên
mua bảo hiểm và một doanh nghiệp bảo hiểm thì quan hệ đồng bảo hiểm chỉ được
thiết lập khi có một bên mua bảo hiểm còn bên bảo hiểm phải có ít nhất từ 2 doanh
nghiệp bảo hiểm trở lên. Đặc điểm này có thể giống với trường hợp bảo hiểm trùng
và tái bảo hiểm (trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhận tái bảo
hiểm) nhưng chúng vẫn có điểm khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên cũng
như cơ sở pháp lý.

2


Thứ hai, về cơ sở xác lập. Mọi quan hệ bảo hiểm đều được xác lập và thực

hiện trên cơ sở pháp lý là hợp đồng bảo hiểm và đồng bảo hiểm cũng không phải là
ngoại lệ. Hợp đồng bảo hiểm trong quan hệ đồng bảo hiểm được kí kết trực tiếp
giữa bên mua bảo hiểm và bên bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm chỉ là một cá nhân, tổ
chức vì vậy sẽ đương nhiên đứng ra kí kết hợp đồng còn bên bảo hiểm lại có từ hai
doanh nghiệp bảo hiểm trở lên vậy ai sẽ là người đứng ra đại diện thỏa thuận về
phí, điều kiện bảo hiểm, ... để kí kết hợp đồng với khách hàng. Điều này sẽ phụ
thuộc vào hợp đồng hợp tác kinh doanh đã kí kết giữa các doanh nghiệp này (bên
mua bảo hiểm phải biết và đồng ý về điều này).
Thứ ba, về đối tượng bảo hiểm. Đối tượng của đồng bảo hiểm có thể là tài
sản, con người hoặc trách nhiệm dân sự nhưng thông thường đối tượng của các
hợp đồng này sẽ là các tài sản có giá trị quá lớn mà một doanh nghiệp bảo hiểm
thường không có đủ khẳ năng tài chính để bảo hiểm một mình. Chính điều này đã
thể hiện mục đích liên kết, chia sẻ trong của các doanh nghiệp bảo hiểm trong đồng
bảo hiểm.
Thứ tư, về mục đích, trường hợp áp dụng. đối tượng của các hợp đồng đồng
bảo hiểm thông thường sẽ là các tài sản, hợp đồng có giá trị quá lớn hoặc mức đội
rủi ro cao lợi nhuận thấp ... mà một doanh nghiệp bảo hiểm thường không có đủ
khả năng tài chính để tiến hành bảo hiểm. Tuy nhiên vì muốn giữ chân khách hàng
và chia sẻ bớt rủi ro các doanh nghiệp đã lựa chọn hình thức đồng bảo hiểm và
khách hàng cũng đồng ý với lựa chọn này (vẫn có những trường hợp việc đồng bảo
hiểm được thực hiện với sự đề xuất của khách hàng).
2.2.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đồng bảo hiểm.

Trong quan hệ đồng bảo hiểm có sự tham gia của 2 bên chủ thể là bên mua
bảo hiểm và bên bảo hiểm, bên bảo hiểm lại có từ 2 doanh nghiệp bảo hiểm trở lên.
3



Theo nguyên tắc chung khi sự kiện bảo hiểm phát sinh thì trách nhiệm bảo hiểm nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm cũng đồng
thời phát sinh (khi có đủ các điều kiện bảo hiểm) tuy nhiên trong đồng bảo hiểm lại
có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm vậy trách nhiệm bảo hiểm sẽ thuộc về doanh
nghiệp nào?
Luật kinh doanh bảo hiểm không có quy định cụ thể vì vậy để xác định trách
nhiệm của các bên trong quan hệ đồng bảo hiểm. Chính vì lẽ đó, trong thực tế hầu
hết đều phải dựa vào quy định của luật dân sự về nghĩa vụ dân sự liên đới.Trách
nhiệm trả tiền bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường của các doanh nghiệp này đối với
bên mua bảo hiểm lúc này cũng giống như nghĩa vụ dân sự liên đới, được qui định
tại Điều 298 Bộ luật dân sự 2005.Vì vậy trong quan hệ đồng bảo hiểm:
* Các doanh nghiệp đồng bảo hiểm phải chịu trách nhiệm liên đới với nhau
theo tỉ lệ nhận bảo hiểm thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
* Bên mua bảo hiểm có quyền chỉ định bất kì trong số các doanh nghiệp đồng
bảo hiểm thực hiện trách nhiệm trả tiền hoặc bồi thường. Trường hợp một doanh
nghiệp bảo hiểm đã thực hiện trách nhiệm bảo hiểm trước bên mua bảo hiểm thì có
quyề yêu cầu các doanh nghiệp đồng bảo hiểm còn lại thực hiện nghĩa vụ hoàn lại
tương ứng với số tiền bảo hiểm mà đáng lẽ họ phải chi trả cho bên mua bảo hiểm.
* Trường hợp bên mua bảo hiểm đã chỉ định yêu cầu 1 doanh nghiệp bảo
hiểm thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nhưng sau đó lại miễn trách nhiệm bảo hiểm
cho doanh nghiệp này thì các doanh nghiệp đồng bảo hiểm còn lại cũng sẽ được
miễn trách nhiệm bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chỉ miễn trách
nhiệm bảo hiểm cho một hoặc một số doanh nghiệp bảo hiểm nhất định thì các
doanh nghiệp đồng bảo hiểm còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần trách nhiệm
của mình.
4


* Tính liên đới trong trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm trong quan
hệ đồng bảo hiểm còn thể hiện ở chỗ nếu như có bất kì doanh nghiệp nào chưa
thực hiện xong trách nhiệm bảo hiểm thì các doanh nghiệp khác dù đã thực hiện

xong phần trách nhiệm tương ứng với tỉ lệ nhận bảo hiểm của mình thì vẫn bị coi
là chưa thực hiện xong trách nhiệm và vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm.
Ví dụ:Công ty X kí hợp đồng đồng bảo hiểm thân tàu chiếc tàu của mình với
số tiền bảo hiểm là 20 tỉ VNĐ với các doanh nghiệp bảo hiểm A và B, trong đó A
là đại diện cho bên bảo hiểm, hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa A và B thỏa thuận
A và B sẽ nhận bảo hiểm cho thân tầu của công ty với tỉ lệ là 6:4, tức là A sẽ nhận
bảo hiểm cho thân tầu của công ty X với số tiền là 12 tỉ VNĐ còn B là 8 tỉ VNĐ.
Khi sự kiện bảo hiểm phát sinh thiệt hại xảy ra là 10 tỉ VNĐ, lúc này trách nhiệm
bảo hiểm được xác định như sau:
- Công ty X có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm A hoặc B thực hiện chi
trả toàn bộ 10 tỉ VND.
- Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm A hoặc B đã thực hiện hết trách
nhiệm bảo hiểm (10 tỉ VNĐ) cho công ty X thì sẽ có quyền yêu cầu doanh nghiệp
còn lại thực hiện nghĩa vụ hoàn lại. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp bảo hiểm B đã
thực hiện thì có quyền yêu cầu A hoàn lại 60% số tiền bồi thường (tương ứng với
60% số tiền bảo hiểm mà A đã nhận bảo hiểm).
- Trách nhiệm bảo hiểm chỉ được coi là hoàn thành khi doanh nghiệp bảo
hiểm A hoặc B hoặc cả 2 giao đủ10 tỉ cho công ty X. Nếu mới chỉ có doanh nghiệp
A hoặc doanh nghiệp B thực hiện trách nhiệm theo tỉ lệ nhận tiền bảo hiểm thì
trách nhiệm bảo hiểm vẫn là chưa hoàn thành và các bên phải liên đới chịu trách
nhiệm.
2.3. Vai trò của đồng bảo hiểm.
5


Đồng bảo hiểm trước tiên cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện bảo
hiểm được những hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn trong khi khả năng tài chính có
hạn hoặc mức độ rủi ro cao điều đó có nghĩa các doanh nghiệp này sẽ giữ chân
được khách hàng, không để khách hàng rơi vào tay các doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên đồng nghĩa với việc giữ chân được khách

hàng, chia sẻ được rủi ro thì các doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải chấp nhận việc
hợp tác chia sẻ lợi nhuận với nhau.
Với khách hàng, việc lựa chọn đồng bảo hiểm sẽ cho phép họ được bảo hiểm
với một điều kiện tương đối hợp lý, thuận lợi (vì có sự kết hợp giữa nhiều bên bảo
hiểm) đồng thời giảm thiểu rủi ro cho khách hàng. Trong quan hệ đồng bảo hiểm
các doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm liên đới vì vậy khi sự kiện bảo hiểm
xảy ra trách nhiệm bảo hiểm thường sẽ được bảo đảm thực hiện một cách nhanh
chóng, đầy đủ hơn so với trường hợp chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm.
2.4. Vấn đề đồng bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Đồng bảo hiểm dù chưa được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nhưng
cũng không còn là vấn đề xa lạ hay mới mẻ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
hiện nay. Như đã phân tích ở trên thì đồng bảo hiểm chủ yếu được áp dụng đối với
các hợp đồng có giá trị quá lớn hoặc tính rủi ro cao do vậy hiện nay đồng bảo hiểm
thường chỉ được áp dụng đối với các loại bảo hiểm như bảo hiểm thân tầu. Đây là
loại bảo hiểm có giá trị lớn, mức độ rủi ro cao, theo tính toán của các doanh nghiệp
bảo hiểm thì tính cả năm 2011, đây là năm thứ 11 liên tiếp, nghiệp vụ bảo hiểm tàu
thủy có số tiền phải bồi thường lớn hơn doanh thu phí bảo hiểm hay ... điều này có
nghĩa doanh nghiệp bảo hiểm đang phải chịu lỗ đối với sản phẩm bảo hiểm này
nhưng để nâng cao uy tín và giữ chân khách hàng thì các doanh nghiệp bảo hiển
vẫn phải nhận bảo hiểm thân tầu và đồng bảo hiểm là một giải pháp thích hợp.
6


Theo số liệu thống kê thì tính đến hết 9 tháng đầu năm 2011 bảo hiểm thân tàu
và trách nhiệm dân sự chủ tàu đạt doanh thu 1.473 tỉ đồng, tăng 6,7% trong đó có
nhiều hợp đồng là đồng bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm dẫn đầu về doanh
thu gồm PVI 450 tỉ đồng, Bảo Việt 436 tỉ đồng, Bảo Minh 181 tỉ đồng, Pjico 173 tỉ
đồng, Toàn Cầu 47 tỉ đồng. Số tiền bồi thường toàn nghiệp vụ 569 tỉ đồng, chiếm
39%. Các doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao là BIC 183%, Bảo Việt 64%, Pjico
49%, Bảo Long 24%.... Một trong những ví dụ điển hình về đồng bảo hiểm thân

tầu mà doanh nghiệp bảo hiểm bị thua lỗ là vụ bảo hiểm thân tầu cho tầu Vinalines
Queen, theo một số thông tin từ lãnh đạo Công ty Vận tải biển Vinalines thì
tàuVinalines Queen trọng tải 56.700 tấn, là một trong những tàu chở hàng rời lớn
và hiện đại nhất của Vinalines và Vinalines đã ký hợp đồng bảo hiểm tàu Vinalines
Queen tại CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp (ABIC) với trị giá 27 triệu
USD và MIC là một trong các doanh nghiệp tham gia đồng bảo hiểm thân tàu
Vinaline Queen với trị giá 2 triệu USD.... tuy nhiên vụ chìm tầu Vinalines Queen
đã dẫn đến thiệt hại nặng nề cho ngành bảo hiểm.
Không chỉ có sự thua lỗ của các doanh nghiệp trong đồng bảo hiểm đối với
sản phẩm bảo hiểm thân tàu mà vấn đề đồng bảo hiểm ở nước ta hiện nay còn
nhiều vấn đề bất cập trong xác định trách nhiệm của bên bảo hiểm khi trách nhiệm
bảo hiểm phát sinh. Về nguyên tắc cũng như trên thực tiễn áp dụng đều xác định
các doanh nghiệp bảo hiểm trong quan hệ đồng bảo hiểm phải chịu trách nhiệm
liên đới với nhau trước bên mua bảo hiểm nhưng trong nhiều hợp đồng bảo hiểm
lại không như vậy. Xác định là một chuyện nhưng không có căn cứ pháp lý rõ
ràng, cụ thể lại là chuyện khác. Thông thường trong các hợp đồng đồng bảo hiểm
nếu các bên không thỏa thuận rõ ràng về trách nhiệm liên đới của bên bảo hiểm thì
khi trách nhiệm bảo hiểm phát sinh thường xảy ra tình trạng cha chung không ai
khóc, người mua bảo hiểm, người thụ hưởng thì mòn mỏi đợi tiền bảo hiểm còn
7


các doanh nghiệp đồng bảo hiểm lại đùn đẩy trách nhiệm cho nhau hay chỉ có một
số doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm còn một số thì không nhưng vẫn cho rằng
mình đã thực hiện xong trách nhiệm bảo hiểm ... điều này đã làm mất đi tính hiệu
quả ý nghĩa của đồng bảo hiểm, làm mất niềm tin của người mua bảo hiểm đối với
loại bảo hiểm đặc biệt này. Vì vậy, Luật kinh doanh bảo hiểm cần nhanh chóng bổ
sung quy định về vấn đề này, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xác định quyền,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đồng bảo hiểm.


II.

So sánh đồng bảo hiểm với bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản

(BHTS).
1. Khái quát về bảo hiểm trùng
Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo
hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng
với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm (Khoản 1 Điều 44 Luật kinh doanh bảo
hiểm),
Trong trường hợp bảo hiểm trùng thì “khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm
đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo
hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không
vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản”.
2. Sự giống nhau giữa đồng bảo hiểm và bảo hiểm trùng trong BHTS.
Đây đều là các quan hệ bảo hiểm với sự tham gia giữa 2 bên chủ thể là bên mua
bảo hiểm và bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm). Trong đó bên bảo hiểm luôn
luôn có từ 2 doanh nghiệp bảo hiểm trở lên. Cả bảo hiểm trùng lẫn đồng bảo hiểm
đều được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm được kí kết giữa bên mua bảo
hiểm và bên bảo hiểm, các hợp đồng này phải tuân thủ các quy định của Luật kinh
8


doanh bảo hiểm và pháp luật có liên quan. Cả bảo hiểm trùng lẫn đồng bảo hiểm
khi phát sinh trách nhiệm bảo hiểm đều phải bồi thường theo nguyên tắc tương
xứng với thiệt hại và số tiền bảo hiểm, tức mức bồi thường không thể vượt quá tổn
thất thực tế và số tiền bảo hiểm.Về nguyên tắc bồi thường và quyền của bên bảo
hiểm trong trường hợp người thứ 3 có lỗi gây hại thì đều áp dụng Điều 49 Luật
kinh doanh bảo hiểm.

3. Sự khác nhau giữa đồng bảo hiểm với bảo hiểm trùng trong BHTS.
• Về chủ thể tham gia: Cả hai loại bảo hiểm đều có sự tham gia của bên bảo
hiểm và bên mua bảo hiểm, nhưng điểm khác nhau giữa chúng là sự độc lập của
các chủ thể. Trong bảo hiểm trùng tài sản được bảo hiểm nhiều lần tại nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm ... điều đó có nghĩa giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đều có quan
hệ với bên mua bảo hiểm nhưng lại độc lập với nhau. Còn trong đồng bảo hiểm các
doanh nghiệp bảo hiểm đều có quan hệ với bên mua bảo hiểm thông qua hợp đồng
bảo hiểm được kí giữa một doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm (việc
doanh nghiệp bảo hiểm nào đứng ra kí là theo thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác
kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm) và giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
lại có mối quan hệ với nhau trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh đã kí. Sự khác
nhau về mối quan hệ giữa các bên dẫn đến sự khác nhau về trách nhiệm của các
bên khi phát sinh trách nhiệm.
• Về đối tượng, mục đích: Đối tượng bảo hiểm của đồng bảo hiểm và bảo
hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản đều là tài sản. Tuy nhiên, đối tượng của đồng
bảo hiểm thường là các tài sản có giá trị lớn hoặc rủi ro cao và đồng bảo hiểm
thường được đặt ra với mục đích chủ yếu là để chia sẻ rủi ro, gánh nặng tài chính
cho doanh nghiệp bảo hiểm (vẫn có trường hợp bản thân người mua bảo hiểm
muốn giảm thiểu rủi ro cho chính mình nên đã lựa chọn đồng bảo hiểm) còn đối
tượng của bảo hiểm trùng có thể chỉ là các tài sản thông thường nhưng người mua
bảo hiểm muốn giảm thiểu rủi ro nên đã chọn bảo hiểm trùng. Tuy nhiên cũng có
9


những trường hợp người mua bảo hiểm thực hiện bảo hiểm trùng là nhằm mục
đích trục lợi.
• Về cơ sở thực hiện:Hoạt đồng bảo hiểm trùng được thực hiện trên cơ sở các
hợp đồng bảo hiểm được kí kết độc lập giữa bên mua bảo hiểm với từng doanh
nghiệp bảo hiểm còn hoạt động đồng bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở hợp đồng
bảo hiểm kí kết giữa bên mua bảo hiểm với một doanh nghiệp bảo hiểm đại diện

cho bên bảo hiểm, quan hệ giữa các doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của
hợp đồng hợp tác kinh doanh đã kí kết.
• Về quyền và nghĩa vụ của các bên:Trong quan hệ đồng bảo hiểm ngoài các
quyền và nghĩa vụ thông thường giống như mọi quan hệ bảo hiểm khác thì bên bảo
hiểm và bên mua bảo hiểm khi trách nhiệm bảo hiểm phát sinh còn có các quyền
và nghĩa vụ đặc trưng như bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu bất kì doanh
nghiệp bảo hiểm nào thực hiện trách nhiệm, hay các doanh nghiệp bảo hiểm phải
liên đới chịu trách nhiệm với nhau ... thì trong quan hệ bảo hiểm trùng quyền và
nghĩa vụ giữa các bên có một số điểm khác biệt sau:
Bên mua bảo hiểm phải công khai, thông báo cho các bên bảo hiểm biết về
việc bảo hiểm trùng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì bảo hiểm trùng
không bị cấm nhưng phải công khai, quy định này được đặt ra nhằm ngăn chặn
hành vi trục lợi của bên mua bảo hiểm. Nếu không công khai thì tất cả các doanh
nghiệp bảo hiểm đều phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bên mua bảo hiểm, như
vậy doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được lợi khi phí bảo hiểm thì thấp, tiền bảo hiểm thì
nhiều và lúc này sẽ dẫn tới sự vi phạm nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm tài sản đó
là việc bồi thường không được vượt quá tổn thất thực tế. Trong trường hợp bên
mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ này thì sẽ bị coi là có hành vi gian lận và
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu phát hiện ra
trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra còn nếu sự kiện bảo hiểm đã xảy ra thì doanh
nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối thực hiện trách nhiệm bảo hiểm. Cũng cần
khẳng định nghĩa vụ này chỉ đặt ra đối với bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản
10


còn trong bảo hiểm nhân thọ bên mua bảo hiểm có quyền tự do giao kết bảo hiểm
trùng mà không cần tuân thủ nghĩa vụ thông báo công khai.
Các doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm độc lập với nhau theo tỉ lệ giữa
số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng
mà bên mua bảo hiểm đã giao kết và không vượt quá thiệt hại thực tế.

Như vậy đã có sự khác nhau giữa bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản và
trong bảo hiểm nhân thọ. Trong bảo hiểm nhân thọ, bên mua bảo hiểm được tự do
giao kết bảo hiểm trùng mà không cần phải thông báo. Các doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm độc lập với nhau và bên mua bảo hiểm được thanh toán độc lập theo
số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận và được nhận cả tiền bồi thường của bên thứ 3 có
lỗi mà không phải chuyển giao quyền yêu cầu cho doanh nghiệp... điều này xuất
phát từ chính đặc điểm của đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ là vô giá,
không thể bồi thường.
III. Một số vấn đề thực tế khi áp dụng các qui định của pháp luật về bảo hiểm
trùng và đồng bảo hiểm.
- Hiện nay chưa có cơ sở pháp lý cho vấn đề đồng bảo hiểm đã dẫn đến tranh
chấp, tiêu cực giữa các bên trong quan hệ này hay vẫn có nhiều nhầm lẫn xung
quanh vấn đề đồng bảo hiểm chẳng hạn có sự nhầm lẫn giữa bảo hiểm nhóm với
đồng bảo hiểm, giữa đồng bảo hiểm với tái bảo hiểm trong trường hợp có nhiều
doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm hay phổ biến nhất là nhầm đồng bảo hiểm với bảo
hiểm trùng, ... vì vậy cần nhanh chóng bổ sung, ghi nhận cơ sở pháp lý rõ ràng cho
vấn đề này.
- Hiện nay pháp luật không cấm bảo hiểm trùng nhưng bên mua bảo hiểm
phải tuân thủ nghĩa vụ công khai. Nhưng trên thực tế việc bên mua bảo hiểm có
thực hiện nghĩa vụ này hay không hay lại lợi dụng nó để trục lợi thì rất khó kiểm
soát. Do vậy cần tạo một cơ chế để kiểm soát hiệu quả vấn đề này. Ngoài ra việc
xác định một hợp đồng bảo hiểm có phải là bảo hiểm trùng hay không trong trường
11


hợp có sự giao thoa giữa các nghiệp vụ bảo hiểm là một vấn đề còn gây nhiều
tranh cãi và khó khăn trong việc xác định trách nhiệm bảo hiểm. Vì vậy Luật kinh
doanh bảo hiểm nên quy định rõ về vấn đề này chẳng hạn nên quy định bảo hiểm
trùng thành thành 2 trường hợp là trùng toàn bộ và trùng một phần nội dung bảo
hiểm.

- Ngoài ra hiện nay có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã lợi dụng sự thiếu hiểu
biết của người mua bảo hiểm và việc đồng bảo hiểm, bảo hiểm trùng để giao kết
các hợp đồng bảo hiểm trên giá trị để trục lợi trong khi trách nhiệm của các doanh
nghiệp bảo hiểm trong trường hợp này tại điều 43 Luật kinh doanh bảo hiểm là
tương đối thoáng.
- Trong hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị thì Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2000 mới chỉ quy định nguyên tắc bồi thường (khoản 2 Điều 44) mà chưa quy
định về xử lý phần phí bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm.
Sự thiếu quy định của pháp luật trong trường hợp này sẽ gây ảnh hưởng đến lợi ích
của các doanh nghiệp bảo hiểm và theođó dễ dẫn đến tranh chấp giữa các doanh
nghiệp nhận bảo hiểm trùng.
- Trong hợp đồng bảo hiểm trùng trên giá trị áp dụng tương tự theo quy định
tại khoản 2 Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm:Như vậy thì khi xác định được lỗi
vô ý của bên mua bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm trùng trên
giá trị phải hoàn lại số phí bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo
hiểm, còn khi không xác định được lỗi của bên tham gia bảo hiểm, do lỗi cố ý của
bên tham gia bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có được giữ lại phần phí bảo
hiểm vượt quá đó hay không, điều đó vẫn chưa được luật giải quyết. Việc xác định
lỗi trong trường hợp này là rất khó khăn bởi ưu thế luôn thuộc về phía doanh
nghiệp bảo hiểm. Do vậy pháp luật cần quy định rõ vấn đề này để bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm nhất là phía người mua bảo hiểm.
12


Ngoài ra, một khi pháp luật đã thừa nhận vấn đề bảo hiểm trùng thì cũng cần
quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trùng để các bên
có quy tắc xử sự chung ,tránh tranh chấp xảy ra.

KẾT THÚC
Đồng bảo hiểm góp phần giảm thiểu rủi ro cho cả bên bảo hiểm lẫn bên mua bảo

hiểm điều này có nghĩa nó sẽ giúp giảm thiểu rủi ro cho toàn bộ thị trường bảo
hiểm từ đó góp phần thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển ổn định an toàn. Hơn
nữa đồng bảo hiểm còn tăng cường sự hợp tác, cạnh tranh lành mạnh, công bằng
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, khai thác tối đa tiềm năng khách hàng đồng thời
hạn chế tình trạng độc quyền, cá lớn nuốt cá bé ...Đồng bảo hiểm cũng như bảo
hiểm trùng là đề tài không còn quá mới mẻ nhưng chưa có nhiều công trình nghiên
cứu kỹ lưỡng, vì thế vẫn là một vấn đề phức tạp cần nghiên cứu thêm.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi, bổ sung 2010.
2. Bộ luật dân sự 2005.
3. TS. Phạm Văn Tuyết, Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007.
4. TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009.
13



×