Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Một số vấn đề về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.74 KB, 61 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do thực hiện đề tài:

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng tại Việt
Nam ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển
nền kinh tế, văn hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội nhập quốc tế của
nước ta. Việc Việt tham gia công ước Berne hay Hiệp định TRIPS cùng với pháp
luật về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam giúp Việt Nam cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của
WTO nhưng việc bảo hộ trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Sự vi phạm diễn ra
phổ biến, xếp chúng ta vào nước có tình trạng vi phạm quyền tác giả cao nhất
thế giới. Khắp các nơi đều bán và sử dụng các sản phẩm vi phạm quyền tác giả
đến nỗi không ai nghĩ đó là một hành vi phạm pháp và cần phải ngăn chặn. Thực
trạng này thật đáng báo động bởi theo hiến pháp nhà nước ta khuyến khích mọi
người nghiên cứu sáng tạo nhưng trên thực tế quyền lợi của họ lại không được
đảm bảo. Và càng ngày các tranh chấp trong lĩnh vực này càng nhiều nhưng
chúng ta lại chưa có kinh nghiệm để giải quyết. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “
Một số vấn đề về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam” để nghiên cứu những quy
định pháp luật tại Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả, từ đó tìm ra những giải
pháp đối với việc bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:

Vấn đề quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả không phải đến bây giờ, tức
là khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne, rồi trở thành thành viên chính thức
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mới là vấn đề nóng hổi. Cục bản
quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tổ
chức nhiều cuộc hội thảo về vấn đề bảo hộ quyền tác giả, về hội nhập, về thực thi
Công ước Berne, về các Luật mới như Luật xuất bản, Luật sở hữu trí tuệ… Các
nhà xuất bản cũng rất quan tâm đến các vấn đề như mua bản quyền như thế nào,
ở đâu, bao nhiêu tiền, thời hạn bao lâu, quyền và nghĩa vụ ra sao.


Hiện nay, đã có nhiều những khóa luận, báo cáo liên quan đến vấn đề bảo
hộ quyền tác giả. Ở báo cáo này, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm về vấn đề
này, đồng thời góp thêm một số giải pháp để pháp luật về bảo hộ quyền tác giả tại
Việt Nam có thể được hoàn thiện hơn.
3. Mục đích nghiên cứu:


2

Mục đích của báo cáo chính là nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam về việc bảo hộ quyền tác giả, từ đó đánh giá nhận xét về tình hình bảo hộ
quyền tác giả trên thực tiễn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Báo cáo này sẽ tập trung vào vấn đề bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam theo
những quy định của pháp luật trong nước trong mối tương quan về nội dung pháp
lý với Công ước Berne và một số văn bản liên quan. Đồng thời, thu thập các
thông tin về tình hình thực tiễn Việt Nam hiện nay, để nhìn nhận vấn đề, đánh
giá việc thực thi các quy định bảo hộ quyền tác giả trên thực tế và đưa ra các
giải pháp...
5.

Phương pháp nghiên cứu:

Sử dụng các phương pháp nghiên cứu là duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, kết hợp với phương pháp , phân tích, tổng hợp, so sánh đồng thời thu thập các
sự kiện diễn ra trên thực tiễn để rồi đánh giá, bình luận.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài:

Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, để đánh giá

thực tiễn bảo hộ quyền tác giả hiện nay tại Việt Nam. Từ đó tìm ra phương hướng
bảo hộ các tác phẩm trong thời gian tới, giảm tình trạng xâm phạm bản quyền tại
Việt Nam.
7. Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả
Chương 2 : Thực trạng và những giải pháp đối với bảo hộ quyền tác giả của
Việt Nam


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ
QUYỀN TÁC GIẢ
1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả:

1.1.1. Khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành một lĩnh vực được quan tâm. Trong
cuộc sống chúng ta rất nhiều vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ. Bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng trong việc thúc đẩy sự sáng tạo, phát triển
nền kinh tế, văn hóa và trở thành điều kiện tiên quyết trong hội nhập quốc tế của
mỗi quốc gia. Đối với nền kinh tế trong nước, làm tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo, bảo đảm động lực thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh và thương mại; khuyến khích nghiên cứu, phát triển công
nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và tạo uy tín cho sản phẩm. Hệ thống sở hữu trí
tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển công nghệ và kinh doanh lành
mạnh, có vai trò tích cực đối với công cuộc phát triển kinh tế.
Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)

ký ngày 14-7-1967 quy định: “Sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các
tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các cuộc biểu diễn của nghệ sĩ biểu
diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các sáng chế trong tất cả các
lĩnh vực sáng tạo của con người; các khám phá khoa học; các kiểu dáng công
nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và các tên thương mại; bảo hộ
chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh; và tất cả các quyền khác nảy sinh từ kết
quả của hoạt động trí tuệ thuộc các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học và công
nghiệp”.
Từ khái niệm trên, sở hữu trí tuệ được chia thành hai nhóm: sở hữu công
nghiệp bảo hộ các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa và quyền sở
hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định; và quyền tác giả bảo hộ các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và những sáng tạo trong lĩnh vực quyền kề
cận hay được gọi là quyền liên quan.
Suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài người, tri thức luôn là một
trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển. Tài sản tri thức là tài sản vô
hình và cũng mặc định như sản hữu hình. Nhưng sự hình thành, chuyển dịch và


4

chấm dứt, cũng như bảo hộ các quyền phát sinh từ tài sản vô hình có những điểm
khác biệt so với tài sản hữu hình. Do đó, hầu hết các nước trên thế giới đều ban
hành những quy định pháp luật riêng biệt để điều chỉnh các quan hệ liên quan tới
quyền sở hữu trí tuệ.
Ở Việt Nam, Theo Điều 63 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản khác”. Như vậy ngoài các vật thông
thường, tài sản còn bao gồm cả các quyền tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ cũng là một
dạng của quyền tài sản nên cần được pháp luật bảo vệ. Đó là quyền của tác giả đối
với những sản phẩm trí tuệ

Theo khoản 1, điều 4, Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009
(LSHTT) “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí
tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”.
Ý tưởng về bảo hộ sở hữu trí tuệ mà trước tiên là quyền tác giả đã được ghi
nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 (Điều 10, 12, 13). Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đã thừa nhận quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản của
công dân, quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và bảo đảm
quyền tư hữu tài sản cùng quyền lợi của trí thức. Năm 1986 đánh dấu một mốc mới
trong hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng: Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị định 142/CP –
văn bản riêng biệt đầu tiên để điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền tác giả. Từ đó
đến nay còn có nhiều văn bản, sửa đổi thể hiện một bước tiến đáng kể trong hoạt
động lập pháp về lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2005 và có
hiệu lực từ ngày 1-7-2006. Đặc biệt, khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới thì thực tiễn đặt ra những vấn đề bức bách đòi hỏi phải giải
quyết trước áp lực trong và ngoài nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm tạo
dựng hành lang pháp lý khuyến khích hoạt động sáng tạo có giá trị của công dân.
Trải qua một thời gian được áp dụng. Năm 2009, Luật sở hữu trí tuệ 2005 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều, để nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về bảo hộ sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về quyền tác giả:
Theo nghĩa khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật
về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả, của chủ sở hữu quyền tác


5

giả, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sử dụng các tác phẩm văn học,

nghệ thuật, khoa học; quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có
hành vi xâm phạm. Với ý nghĩa này, quyền tác giả chính là pháp luật quyền tác giả
với những quy định về: tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, các tác phẩm được bảo
hộ, nội dung quyền tác giả, các trường hợp giới hạn quyền tác giả, thời hạn bảo hộ
quyền tác giả, xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả, các biện pháp bảo hộ
quyền tác giả.
Theo nghĩa chủ quan: quyền tác giả là tổng hợp các quyền, nghĩa vụ của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả và các chủ thể có liên quan khác.
Theo nghĩa là quan hệ pháp luật: Quyền tác giả chính là các quan hệ xã hội
trong việc tạo ra, sử dụng về quyền tác giả được các xác lập giữa tác giả với chủ sở
hữu quyền tác giả; giữa tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác thông
qua các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học1
Tóm lại, “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm
do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.2
Như vậy, quyền tác giả bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo
đối với các tác phẩm của họ. Các tác giả, và người thừa kế của họ, nắm giữ các độc
quyền để sử dụng hoặc cấp li-xăng cho người khác sử dụng tác phẩm theo các điều
kiện thỏa thuận. Tác giả và chủ sở hữu của nó được quyền khai thác tác phẩm,
chống lại sự sao chép bất hợp pháp. Việc sao chép, phổ biến nội dung của tác phẩm
mà không có sự đồng ý của tác giả là sự xâm phạm quyền tác giả.
Trong quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả, chủ thể của quan hệ này là
tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả; khách thể là các tác phẩm văn học, nghệ thuật;
nội dung là các quyền tài sản và quyền nhân thân của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả và quyền tác giả được pháp luật bảo hộ theo những nguyên tắc chung của luật
dân sự, có nghĩa là nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung trái pháp
luật, đạo đức xã hội, đi ngược lại với lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, xâm
phạm quyền nhân thân.
1.1.3.

Đặc điểm của quyền tác giả


Quyền tác giả là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ, do vậy, quyền tác giả
có đầy đủ các đặc trưng của quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là một lĩnh
1 TS Lê Đình Nghị -TS.Vũ Thị Hải Yến, Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, Nxb giáo dục Việt Nam, trang 23.
2 Khoản 2, điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005.


6

vực sở hữu đặc thù có đối tượng là các tài sản vô hình, tài sản phi vật thể hình thành
từ hoạt động sáng tạo của con người.
Với quyền tác giả, không thể dùng phương pháp khoanh vùng, cách ly như đối
với tài sản vật thể. Chúng ta có thể thấy rằng vấn đề quan trọng nhất đặt ra trong
quyền sở hữu trí tuệ không phải là vấn đề chiếm hữu, mà chính là vấn đề xác định ai
là người có quyền khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu.Với quyền tác giả, ranh giới
giữa người tiêu dùng và "tên kẻ cắp" tương đối mong manh và còn phải có nhiều
tranh cãi. Việc khai thác khía cạnh thương mại của quyền tác giả nếu được sự cho
phép của tác giả thì là hợp pháp, nhưng không được cho phép là "ăn cắp".
Thứ nhất, Quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ
nội dung sáng tạo.
Quyền tác giả chỉ tập trung bảo vệ hình thức thể hiện tác phẩm, không
bảo vệ nội dung tác phẩm. Vì thế, quyền tác giả được phát sinh kể từ khi tác phẩm
được thể hiện dưới một hình thức nhất định. Pháp luật không bảo hộ quyền tác giả
tác phẩm khi nó mới chỉ là ý tưởng sáng tạo. Để được bảo hộ, ý tưởng sáng tạo đó
phải được thể hiện ra ngoài bằng một hình thức cụ thể, bằng âm thanh, lời nói, chữ
viết, hình khối, đường nét, màu sắc, ký hiệu... hoặc bất kỳ một phương tiện nào
khác. Mặt khác nếu hình thức thể hiện của một ý tưởng trùng với nội dung ý tưởng
đó, thì hình thức cũng không được bảo hộ. Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm, còn tác
phẩm là sự hình thành một ý tưởng dưới một hình thức nhất định. Thí dụ cùng
một ý tưởng về tình yêu có các bài hát "Tình ca" của Hoàng Việt, "Hành khúc

ngày và đêm", "Thuyền và biển" của Phan Huỳnh Điểu, v.v.. 3 Nói cách khác, căn
cứ phát sinh quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả là các hành vi pháp lý.
Điều này có nghĩa là cơ quan nhà nước sẽ không xem xét nội dung tác phẩm, và
việc đăng ký bảo hộ quyền tác giả chỉ có giá trị chứng cứ chứ không có giá trị
pháp lý như đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ hai, với tư cách là quyền dân sự, quyền tác giả có đặc trưng là một
quyền nhân thân gắn liền với tài sản.
Là quyền nhân thân, quyền tác giả mang đầy đủ các đặc tính pháp lý của các
quyền nhân thân khác: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác. Bên cạnh đó, với đặc tính gắn liền với tài sản, chủ thể quyền
tác giả được hưởng các lợi ích vật chất phát sinh từ đối tượng sở hữu của mình. Ở
3 Lê Nết, tài liệu bài giảng Quyền sở hữu trí tuệ, nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
2006, trang 49.


7

đây, quyền nhân thân chính là tiền đề, là cơ sở để chủ thể hưởng quyền tài sản. Nói
cách khác, quyền tài sản chính là hệ quả pháp lý của quyền nhân thân. Thật vậy, nếu
tác giả không sáng tạo ra tác phẩm của mình, không có các quyền nhân thân đối với
tác phẩm như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền cho phép hay không cho phép
người khác sử dụng tác phẩm của mình... thì tác giả không thể có quyền hưởng
nhuận bút, hưởng các lợi ích vật chất từ việc khai thác, sử dụng tác phẩm. Các
quyền tài sản của tác giả có thể được chuyển giao cho người khác theo hợp đồng
hoặc dưới hình thức thừa kế. Còn các quyền nhân thân thì gắn bó vĩnh viễn với tác
giả, không thể chuyển giao cho người khác.
Thứ ba, Quyền tác giả là lĩnh vực pháp luật quy định sự bảo hộ đối với
"tác phẩm nguyên gốc do tác giả sáng tạo".
Sự bảo hộ pháp lý bắt nguồn từ việc một tác giả độc lập sáng tạo ra tác phẩm
và "sự thể hiện" của tác giả về một ý tưởng là sự thể hiện nguyên gốc, thay vì nó

được sao chép từ một người khác. Điều đó không có nghĩa là ý tưởng của tác
phẩm phải mới, mà có nghĩa là hình thức thể hiện của ý tưởng phải do chính tác giả
sáng tạo ra. Như vậy, một tác phẩm muốn được bảo hộ, phải do chính sức lao
động trí óc của tác giả tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa là không có kế
thừa.Thí dụ "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là chuyển thể thơ của tiểu thuyết
"Đoạn trường Tân thanh" của Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng cả Nguyễn Du và
Thanh Tâm Tài Nhân đều được công nhận là tác giả của các tác phẩm của mình4.
Quyền tác giả có một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn tính mới trong bằng độc quyền
sáng chế, tức là lĩnh vực tập trung vào tính mới của ý tưởng hoặc khái niệm hữu ích,
không tập trung vào sự thể hiện ý tưởng. Khác với sáng chế, tác phẩm do tác giả
sáng tạo không cần mang tính hữu ích. Quyền tác giả chỉ dành cho sự thể hiện về ý
tưởng hoặc khái niệm, không dành cho bản thân ý tưởng hoặc khái niệm. Sự khác
biệt giữa quyền tác giả và bằng độc quyền sáng chế là "sự đối lập thể giữa sự hiện ý tưởng". Ví dụ nổi tiếng là tuy vở kịch Romeo và Juliet của Shakespeare đã là một
sự thể hiện sáng tạo, một tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả (nếu như đã tồn
tại một học thuyết như vậy lúc đó), nhưng tất cả các câu chuyện trai gái yêu nhau
bất chấp sự cản trở về gia đình và đẳng cấp đều không xâm phạm vở kịch đó.
Cuối cùng, quyền tác giả được bảo hộ tự động.

4 Lê Nết, tài liệu bài giảng Quyền sở hữu trí tuệ, NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 2006,
trang 50.


8

Kết quả của hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học
mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định sẽ được
công nhận là tác phẩm và được pháp luật về quyền tác giả thừa nhận và bảo hộ.
Như vậy, thủ tục đăng ký quyền tác giả không phải là đối tượng bắt buộc. Tuy
nhiên, thực hiện thủ tục này giúp giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh cho tác giả, chủ sở
hữu quyền tác giả khi có tranh chấp hay xâm phạm quyền tác giả xảy ra.

Trên thực tế, cũng khó có được ranh giới rõ rệt giữa bảo hộ quyền tác giả và
bảo hộ các quyền khác thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Bảo hộ quyền tác giả có thể
phát sinh đối với cùng một sản phẩm hoặc công nghệ, đồng thời với những hình
thức khác của sở hữu trí tuệ; ví dụ, một sáng chế liên quan đến phần mềm máy tính
có thể được bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế, đồng thời mã phần mềm có thể
được bảo hộ theo quyền tác giả. Tương tự như vậy, quyền tác giả có thể bảo hộ một
tác phẩm nghệ thuật trong khi tác phẩm nghệ thuật đó cũng được bảo hộ dưới danh
nghĩa một kiểu dáng công nghiệp, cũng như quyền tác giả có thể bảo hộ một văn
bản trong khi văn bản đó còn là một bí mật thương mại.
1.1.4.

Phân biệt quyền tác giả với quyền sở hữu công nghiệp

Việc phân biệt quyền tác giả với quyền sở hữu công nghiệp không chỉ có ý
nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn. Giá trị thực tiễn ít nhất của sự phân biệt
này là mọi người có thể nhận thấy, đối với một sản phẩm trí tuệ, con người sẽ được
hưởng cơ chế bảo hộ nào: bảo hộ quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp.
1.1.4.1. Sự khác biệt giữa hai lĩnh vực này thể hiện ở một số khía
cạnh:
- Thứ nhất, Bảo hộ tác phẩm hướng tới sự bảo hộ hình thức sáng tạo chứa
đựng nội dung tác phẩm thông qua các phương thức biểu hiện ngôn ngữ, màu sắc,
hình ảnh.. Do đó nội dung bảo hộ là việc cấm người khác nhân bản tác phẩm, không
được thay đổi nội dung tác phẩm nếu không được phép của tác giả. Còn bảo hộ các
đối tượng sở hữu công nghiệp hướng tới bảo hộ nội dung đối tượng, bảo hộ ý tưởng
bằng quy định cấm người khác sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu
hàng hóa… để sản xuất, kinh doanh thương mại.
- Thứ hai, Bảo hộ quyền tác giả phát sinh tự động, không đòi hỏi tác giả phải
thực hiện một thủ tục nào. Đăng ký bản quyền tại cơ quan nhà nước chỉ là chế độ
củng cố quyền lợi của tác gi. Nếu mà có tranh chấp thì không phải chứng minh bằng
chứng về quyền sở hữu đối với tác phẩm nữa. Quyền tác giả tự động phát sinh khi

tác phẩm được thể hiện dưới một hình thức nhất định chính là chế độ "bảo hộ tự


9

động". Do nguyên tắc bảo hộ tự động, nên trên lý thuyết có thể có hai tác phẩm
tương tự nhau, được sáng tạo một cách độc lập đều cùng được bảo hộ. Đối lập với
chế độ bảo hộ tự động, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp phải tuân theo thủ tục
hành chính, phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Quyền sở hữu công nghiệp phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ, nếu không có yêu
cầu bảo hộ thì quyền lợi không tự động phát sinh. Các đối tượng được bảo hộ
thường phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cao, phải có sự khác biệt so với các đối
tượng cùng loại tức là không được trùng với các đối tượng cùng loại.
- Thứ ba, do quyền tác giả được bảo hộ tự động nên quyền tác giả được bảo hộ
mà tác giả không phải chi trả các khoản tiền cho việc bảo hộ, còn trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp tồn tại quan hệ giữa chủ sở hữu và cơ quan nhà nước thông qua
việc yêu cầu và cấp văn bằng bảo hộ nên dẫn đến khoản lệ phí bảo hộ mà chủ sở
hữu phải thực hiện.
1.1.4.2. Nguyên nhân của sự khác biệt:
- Việc sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật… nói chung để đáp ứng nhu
cầu về tinh thần, văn hóa, tình cảm của con người. Còn việc sáng tạo ra các đối
tượng sở hữu công nghiệp là nhằm để giải quyết các vấn đề đặt ra đối với khoa học
- kỹ thuật, thương mại phục vụ cho sản xuất sản phẩm bằng máy móc (sản xuất
hàng loạt), cho hoạt động kinh doanh. Do vậy các đối tượng sở hữu công nghiệp
được con người sáng tạo ra nó phản ánh trình độ công nghệ của xã hội, phản ánh mức
độ phát triển của nền kinh tế thị trường.
- Các tác phẩm văn học nghệ thuật… trong lĩnh vực quyền tác giả luôn thể hiện dấu
ấn cá nhân của tác giả trên tác phẩm đó. Tất nhiên không phải trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp người ta không quan tâm đến quyền của tác giả của sáng chế, giải pháp
hữu ích… Nhưng do tính ứng dụng vào sản xuất, kinh doanh thương mại đòi hỏi quá

trình áp dụng này phải đầu tư nhiều công sức, chi phí vật chất rất lớn từ phía nhà sản
xuất, từ phía chủ sở hữu. Các sản phẩm sáng tạo của con người phải trải qua rất nhiều
công đoạn, nhà sản xuất không biết chắc chắn liệu việc áp dụng này có đem lại thành
công cho họ hay không và rồi những sáng tạo có khi sẽ không được sử dụng.
- Trong việc xâm phạm quyền tác giả, gây thiệt hại về tinh thần quan trọng hơn
rất nhiều so với việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, bởi vì xâm phạm quyền
tác giả còn là sự xâm phạm đến uy tín sáng tạo nghệ thuật của tác giả. Như vậy xâm
phạm quyền tác giả thì người thực hiện hành vi xâm phạm phải bồi thường cả về vật
chất và tinh thần. Thiệt hại về tinh thần: thì không thể đưa ra được các phương pháp


10

toán học để đánh giá mức độ thiệt hại về uy tín sáng tạo nghệ thuật. Ngược lại,
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có thể tính toán được mức độ thiệt hại: bằng
cách xem xét lợi nhuận mà người thực hiện hành vi xâm phạm thu được do sử dụng
trái phép các đối tượng sở hữu công nghiệp của chủ sở hữu được nhà nước bảo hộ.
1.2. Các điều ước quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả:
1.2.1. Các điều ước quốc tế:
Sự phát triển như vũ bão của kinh tế và khoa học kỹ thuật đã làm cho việc
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế: vai trò và ảnh hưởng của các sản phẩm - tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan
trọng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các sản phẩm trí tuệ đã đóng vai trò quan
trọng đến như thế trong toàn bộ đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân loại thì
việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng trên phạm vi
quốc tế càng trở nên cần thiết.
Nhận thức được vấn đề này, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cùng
các quốc gia thành viên cũng quan tâm đến việc xây dựng hàng loạt các điều ước
quốc tế quan trọng trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ như: Công ước Berne về Bảo hộ

các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước Paris về Việc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp; Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá; Công ước
Rome 1961 về Bảo hộ người biểu diễn, người ghi âm, tổ chức phát sóng; Công ước
Washington năm 1989 về Sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp... Cùng với sự phát
triển không ngừng của khoa học kỹ thuật đã dẫn đến sự hình thành và phát triển
nhiều đối tượng mới của quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, trong quan hệ quốc tế hiện
nay, mà đặc biệt là trong quan hệ kinh tế quốc tế, vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ luôn là một nội dung được nhiều nước quan tâm.
Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật được ký kết
ngày 9-9-1886 tại Berne - Thủ đô Thụy Sĩ. Hiện nay có 156 nước gia nhập Công
ước, tập hợp các nước thành viên gọi là Liên hiệp Berne. Qua 118 năm vận hành,
Công ước đã có 8 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1896, 1908, 1914, 1928, 1948,
1967, 1971, 1979. Công ước hiện hành là Công ước được sửa đổi ngày 24-7-1971
tại Paris và bổ sung vào ngày 2-10-1979. Công ước gồm 38 điều chính, 9 điều bổ
sung và phụ lục gồm 6 điều.5
5 Các công ước và hiệp ước quốc tế về quyền tác giả, Cục bản quyền tác giả 2000.


11

Gần đây là hai hiệp ước WIPO Copyright Treaty (WCT) và WIPO
"Performances and Phonograms Treaty" (WPPT), ký tháng 12.1996, còn gọi là
"Internet Treaties" - "các Hiệp ước Internet" vì qui định các biện pháp bảo vệ sở
hữu tri thức trước các phương tiện sao chép tối tân qua kỹ thuật điện tử.
Ngoài ra, hiệp định TRIPs (Agreement on Trade-Related Aspects of
Intellectual Property Rights) của tổ chức WTO sáp nhập Công ước Berne vào
khung pháp lý của WTO và bổ sung các qui định về thực thi, đặt vấn đề bảo vệ bản
quyền và sở hữu tri thức nói chung dưới sự chi phối của bộ máy giải quyết tranh
chấp của WTO. Các vi phạm bản quyền do đó có thể bị xét xử trong khuôn khổ đa
phương và dẫn đến những biện pháp trả đũa hay trừng phạt cụ thể qua quan hệ

thương mại.
Trong một trăm năm đầu tiên kể từ khi Công ước Berne ra đời, sự phát triển
trong bảo hộ quyền tác giả đã lên phạm vi quốc tế. Trong một trăm năm đầu tiên
cũng diễn ra sự thiết lập và phát triển của quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trong
lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả. Trong suốt thế kỷ vừa qua, việc bảo hộ quyền tác giả
nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ nói chung đã đạt được kết quả trên thực tế là nhiều
quốc gia thừa nhận vai trò của sở hữu trí tuệ trong thúc đẩy, kích thích đổi mới và
thành tựu về công nghệ, nghệ thuật.
1.2.2. Nội dung cơ bản của TRIPs, công ước BERNE
1.2.2.1. Hiệp định về những vấn đề liên quan đến thương mại của
Quyền sở hữu trí tuệ ( TRIPs).
Hiệp định được áp dụng với các nước thành viên của WTO nên đương nhiên
Việt Nam cũng phải tuân theo những quy định này. Hiệp định TRIPs không quy
định mức bảo hộ cụ thể mà đưa ra các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu. Các nước vi
phạm sẽ bị đưa ra hội đồng giải quyết tranh chấp và sẽ bị áp dụng biện pháp trừng
phạt. Năm 1996, thoả thuận về hợp tác giám sát thực thi quyền sở hữu trí tuệ giữa
WIPO và WTO có hiệu lực, bao gồm việc hợp tác trong việc trợ giúp các thành
viên xây dựng luật về sở hữu trí tuệ…sao cho các thành viên có thể thoả mãn các
yêu cầu của TRIPs vào 1/1/2000.
TRIPs được hoạt động trên các nguyên tắc như:
Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia: Mỗi thành viên chấp nhận cho công dân của
các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử mà thành
viên đó dành cho công dân của mình trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy


12

nhiên, nguyên tắc này cũng có những ngoại lệ, theo đó các thành viên có thể dựa
vào để miễn trừ nghĩa vụ tuân thủ hiệp định TRIPs. Trường hợp ngoại lệ quy định
cụ thể trong công ước BERNE.

Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc: Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ
một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền, hoặc sự miễn trừ nào được một thành viên
dành cho công dân của bất kỳ một thành viên nào khác cũng phải được lập tức và
vô điều kiện dành cho công dân tất cả các nước thành viên khác.
Hiệp định TRIPs cho phép thành viên có một khoảng thời gian chuyển đổi
thích hợp để đảm bảo việc thực thi đầy đủ các nghĩa vụ. Các nước phát triển được
phép trì hoãn thực hiện hiệp định trong vòng 1 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu
lực. Thời hạn này đối với các nước đang phát triển là 5 năm và các nước kém phát
triển là 11 năm.
Như vậy hiệp định TRIPs đã mở ra một chương mới về bảo hộ và thực thi
quyền sở hữu trí tuệ trên bình diện quốc tế cũng như tăng cường vai trò của WIPO
trong việc giám sát thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
1.2.2.2. Công ước BERNE
Đây là công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật lần đầu tiên
được thiết lập giữa nhiều quốc gia được ký tại Thuỵ Sỹ năm 1886. Theo đó các
quốc gia thành viên của công ước công nhận quyền tác giả của các tác phẩm xuất
bản tại các quốc gia khác cũng tuân thủ công ước này.
Công ước BERNE đã được sửa chữa vài lần: Berlin (1908), Roma (1928),
Brussels (1948), Stockholm (1967) và Paris (1971).Từ 1967 công ước BERNE
được quản lý bởi tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Ngày 26/7/2007, chính phủ Việt Nam đã nộp văn kiện gia nhập công ước
BERNE và tuyên bố bảo lưu các quy định tại điều 33.1. Ngày 26/10/2004, công ước
chính thức có hiệu lực ở Việt Nam .
Công ước BERNE chấm dứt tình trạng vi phạm quyền tác giả của tác phẩm
được xuất bản ở một quốc gia thành viên khác mà trước đây điều này rất phổ biến.
Quyền tác giả được bảo hộ ngày từ khi tác phẩm được hình thành, không cần phải
đăng ký tác quyền. Ngoài ra, công ước còn quy định không được đặt ra các thủ tục
hành chính sách nhiễu các tác giả trong việc hưởng thụ quyền, điều này không được
áp dụng với các tác giả trong nước hoặc những nước không đăng ký công ước .



13

Công ước BERNE cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm
tối thiểu 50 năm sau đó. Tuy nhiên các quốc gia được phép nâng thời hạn lên dài
hơn. Việc bảo hộ được xây dựng dựa trên các nguyên tắc:
Đối xử quốc gia: Nghĩa là cam kết dành cho các công dân của nhau sự đối xử
không kém thuận lợi hơn so với công dân nước mình.
Bảo hộ đương nhiên: Việc bảo hộ không lệ thuộc vào các thủ tục hình thức
như đăng ký, nộp lưu chiểu hoặc thủ tục tương tự.
Bảo hộ độc lập: Việc hưởng và thực thi quyền theo công tác là hoàn toàn độc
lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm.
Bảo hộ tối thiểu: luật quốc gia thành viên quy định bảo hộ không thấp hơn
mức tối thiểu do công ước quy định 6.
1.3. Quyền tác giả tại Việt Nam
1.3.1. Quá trình hình thành pháp luật về quyền tác giả tại Việt Nam.
1.3.1.1. Pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam trước khi gia
nhập WTO.
Trước khi Luật sở hữu trí tuệ 2005 ra đời việc thực thi quyền tác giả đã được
đặt ra và điều chỉnh bằng con đường luật pháp từ những năm 1990 rồi được quy
định trong Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản liên quan khác.
Có thể nói rằng pháp luật về quyền tác giả ở thời kỳ này hầu như không đi
vào cuộc sống, tình trạng vi phạm bản quyền xảy ra thường xuyên và phổ biến.
Nguyên nhân không chỉ do pháp luật không đầy đủ mà chủ yếu do ý thức của mọi
người trong việc bảo hộ quyền tác giả chưa cao. Việc vi phạm diễn ở tất cả các đối
tượng bao gồm cả tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, phổ biến như phần
mềm máy tính, lĩnh vực âm nhạc và sách.
Trong giai đoạn này, lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả còn khá mới mẻ ở Việt
Nam và hầu như chưa được chú trọng. Chỉ có rất ít văn bản pháp luật ban hành
trong giai đoạn này và việc thực thi nó không hiệu quả. Bước ngoặt đánh dấu việc

bảo hộ quyền tác giả được quy định trong Bộ luật dân sự 1995. Cụ thể các văn bản
điều chỉnh trong giai đoạn này chỉ có:Bộ luật dân sự 1995, Nghị định 76/CP ngày
29/11/1996 về quyền tác giả, Nghị định 31/2001/NĐ-CP ngày 20/06/2006 về xử
6 ThS. Nguyễn Bá Bình, CV Phạm Thanh Tùng, Công ước Bern 1886 – Công cụ hữu hiệu bảo hộ quyền tác
giả, NXB.Tư pháp 2006, trang 52.


14

phạt hành chính trong lĩnh vực văn hoá thông tin, Thông tư 27/2001/TT-BVHTT
hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định 76/CP ngày 29/11/1996/TTLT-TAND
TC BVHTT/VKSNDTC về xử lý tranh chấp vi phạm bản quyền tác giả.
Với việc ban hành một số ít các văn bản như trên có thể thấy quyền tác giả
trong giai đoạn này được coi như quyền dân sự và được điều chỉnh chung trong Bộ
luật dân sự, chỉ có một số tính chất riêng được hướng dẫn thi hành ở các nghị định.
Nội dung cơ bản về quyền tác giả trong bộ luật dân sự 1995:
Pháp luật trong giai đoạn này cũng có quy định về chủ thể quyền tác giả gồm:
tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Tác giả có thể sáng tạo ra một phần hoặc toàn
bộ tác phẩm, có thể độc lập sáng tạo ra tác phẩm hoặc dựa trên tác phẩm của người
khác qua các hình thức: dịch, cải biên, chuyển thể, tuyển chọn…(tuy không đưa ra
khái niệm tác phẩm phái sinh như hiện nay). Ngoài ra cũng có những quy định về
đối tượng được bảo hộ, đối tượng được bảo hộ riêng. Đặc biệt có quy định về
những trường hợp mà nhà nước không bảo họ như: chống phá lại nhà nước Việt
Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực, tiết lộ bí mật của
Đảng, xuyên tạc lịch sử…Luật sở hữu trí tuệ hiện nay không đưa ra những trường
hợp trên nhưng có thể hiểu những tác phẩm như vậy sẽ không được bảo hộ dựa vào
quy định chung của Bộ luật dân sự.
Quyền tác giả cũng bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản; có phân chia
thành quyền tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm và tác giả không phải là chủ
sở hữu tác phẩm. Trong đó Điều 759 có nêu quyền yêu cầu được bảo hộ : “ Tác giả ,

chủ sở hữu tác phẩm khi bị người khác xâm phạm quyền tác giả, quyền của chủ sở
hữu tác phẩm có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền buộc người đó phải chấm dứt, xin lỗi, cải chính công khai bồi
thường thiệt hại”. Tuy nhiên có trường hợp sử dụng không bị coi là vi phạm, có thể
đó là hành vi sử dụng hạn chế (Điều 760, Điều 761)
Ngoài ra còn có quy định sơ lược về việc chuyển giao quyền, đăng ký bảo
hộ , thừa kế quyền tác giả .
Nhìn chung, pháp luật giai đoạn này còn những thiếu sót cần phải sửa đổi, bổ
sung. Trước hết là các biện pháp áp dụng đối với hành vi vi phạm chưa đủ mạnh.
Cụ thể, có một thiếu sót nghiêm trọng là đã không đưa ra được các hành vi nào bị
coi là đã không đưa ra được các hành vi vi phạm làm căn cứ cho việc xử lý. Vì thế
rất khó cho chủ sở hữu và cơ quan có thẩm quyền xem xét vụ việc. Không những
thế, Bộ luật dân sự 1995 chỉ có một điều khoản chung quy định cho chủ sở hữu có


15

quyền buộc người vi phạm chấm dứt hoặc nhờ đến sự can thiệp của nhà nước.
Không đưa ra các biện pháp cụ thể để có thể tiến hành bảo vệ quyền lợi của mình
khi bị vi phạm.
Khi đã có hành vi vi phạm, cũng không có một quy định riêng biệt nào về
biện pháp xử phạt và cơ quan tiến hành dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền giữa
các cơ quan. Việc xử phạt đó sẽ không biết do cơ quan nào tiến hành và áp dụng
biện pháp hành chính, hình sự hay dân sự. Do đó sẽ rất khó khăn cho các chủ sở
hữu, tác giả khi muốn yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Cơ quan nhà nước cũng
không đủ căn cứ, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm. Một vụ vi phạm có thể có nhiều cơ
quan cùng giải quyết, chẳng hạn như: quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, thanh tra
khoa học công nghệ hoặc là UBND các cấp cả toà án.
Một vấn đề nữa là pháp luật trong giai đoạn này còn có những quy định chưa
phù hợp với luật pháp quốc tế. Cho đến thời điểm này đã có rất nhiều thay đổi, việc

ký kết các điều ước quốc tế về vấn đề quyền tác giả là một điều đương nhiên và là
xu thế tất yếu. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Quyền tác giả mang những đặc thù riêng biệt vừa mang tính chất hành chính
lẫn dân sự mà chỉ được điều chỉnh trong Bộ luật dân sự và các văn bản dưới luật.
Mặt khác các quy đinh về lĩnh vực này tương đối phức tạp tập trung vào tài sản vô
hình, đối tượng bảo hộ ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật nên việc quy định trong một bộ luật có tính chất tĩnh như Bộ luật dân sự là
không phù hợp.
1.3.1.2. Pháp luật về quyền tác giả trong giai đoạn hiện nay:
1.3.1.1. Pháp luật Việt Nam hiện nay về quyền tác giả.
Năm 2005, Bộ luật dân sự được sửa đổi lần thứ nhất được gọi dưới cái tên Bộ
luật dân sự năm 2005. Tại Phần thứ sáu của Bộ luật dân sự có qui định về quyền sở
hữu trí tuệ, đã quy định bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan (chương 34).
Bên cạnh sự kế thừa các qui định về bảo hộ quyền tác giả đã có trước đây Bộ
luật dân sự còn bổ sung và khắc phục một số thiếu sót tồn tại của các văn bản pháp
luật trước đây. Các qui định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự là một bước tiến
mới trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam.
Là một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, các qui định về quyền tác giả
trong Bộ luật dân sự là nền móng quan trọng để dần dần hoàn chỉnh và thống nhất
hoá các qui định pháp luật về quyền tác giả, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh các


16

quan hệ xã hội trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập
quốc tế, gia nhập các công ước quốc tế về quyền tác giả.
Ý thức được việc Việt Nam ngày càng phải hội nhập sâu rộng hơn vào tiến
trình phát triển chung về kinh tế và văn hoá của khu vực và thế giới, bảo vệ các
quyền về sở hữu trí tuệ càng trở nên quan trọng. Việc hội nhập đòi hỏi phải "theo
luật chơi của người khác" chứ không phải một mình đá một sân. Chính vì thế mà

không chỉ dựa vào một mình Bộ luật Dân sự mà tất yếu phải có được một Luật
chuyên môn riêng về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Sau bao ngày cố gắng thì cuối
cùng, Luật sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005) cũng
ra đời, và sau đó gần một năm, có thêm các Nghị định hướng dẫn thi hành cũng ra
đời, đó là:
- Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ.
- Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền tác giả
và quyền liên quan.
- Năm 2009, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2009 (có hiệu lực từ 01/01/2010) được ban hành, nhằm khắc phục những hạn chế
trong Luật sở hữu trí tuệ 2005.
- Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20/09/2011 về việc sửa đổi bổ sung một
số điều của nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền tác
giả và quyền liên quan.
1.3.2.2. Các điều ước quốc tế về quyền tác giả Việt Nam đã tham gia
Để bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài và phù hợp hơn với pháp luật
quốc tế, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể khi bảo hộ tác phẩm, đảm bảo quyền lợi
của các chủ thể khi bảo hộ tác phẩm của mình ở nước khác, Việt Nam đã ký kết
những điều ước sau:
-

Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật.
Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức
phát sóng.



17

-

Công ước Geneva bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép khai
thác trái phép bản ghi âm của họ
Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình
vệ tinh.
Thoả thuận TRIPs về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ.
Hiệp định WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT)
Công ước toàn cầu về bản quyền .

* Hiệp định song phương
- Hiệp định giữa chính phủ cộng hoà XHCN Việt Nam và Chính phủ hợp
chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả.
- Hiệp định giữa chính phủ cộng hoà XHCN Việt nam và Chính phủ Thuỵ Sỹ
về bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
- Hiệp định giữa cộng hoà XHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về
quan hệ thương mại.
1.3.2. Nội dung pháp luật quyền tác giả:
1.3.2.1. Đối tượng của quyền tác giả:
1.3.2.1.1.Tác phẩm trong nước hay do người Việt Nam sáng tạo
Sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học không chỉ làm phong
phú đời sống tinh thần của con người mà còn góp phần quan trọng, thúc đẩy phát
triển kinh tế và khoa học – công nghệ. Pháp luật quyền tác giả được hình thành
nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ thể sáng tạo, thúc đẩy sáng tạo, đồng thời khai thác
hiệu quả các sản phẩm trí tuệ trong các lĩnh vực này. Quyền “sáng tác, phê bình văn
học, nghệ thuật và tham gia vào các hoạt động văn hóa khác là quyền hiến định
trong điều 60 hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tác

giả được quy định trong bộ luật dân sự 2005 ( từ điều 736 đến điều 743) và LSHTT
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa
học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình
thức nào ( khoản 7, điều 4, LSHTT). Như vậy, sản phẩm lao động trí tuệ của con
người trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được công nhận là tác phẩm khi


18

thỏa mãn hai điều kiện: (a) mang tính sáng tạo; (b) được thể hiện dưới hình thức vật
chất nhất định.
Theo quy định của pháp luật nước ta, những tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học được bảo hộ quyền tác giả ở nước ta được liệt kê tại Điều 14 LSHTT:
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm
khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự
(sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc,
công trình khoa học;

l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này
nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm
tác phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do
tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ
tác phẩm của người khác.
Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác
được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác là tác phẩm được thể hiện bằng


19

chữ viết hoặc các ký hiệu khác thay cho chữ viết ( như chữ nổi, ký hiệu tốc ký) mà
các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác là loại hình tác phẩm thể hiện bằng
ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định 7.
Tác phẩm báo chí bao gồm các thể loại: phóng sự, ghi nhanh, tường thuật,
phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các
thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử
hoặc các phương tiện khác8.
Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản
nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc
trình diễn hay không trình diễn9.
Tác phẩm sân khấu là tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật biểu diễn, bao
gồm kịch (kịch nói, nhạc vũ kịch, ca kịch, kịch câm), xiếc, múa, múa rối và các loại
hình tác phẩm sân khấu khác10.
Tác phẩm điện ảnh là những tác phẩm được hợp thành bằng hàng loạt hình
ảnh liên tiếp tạo nên hiệu ứng chuyển động kèm theo hoặc không kèm theo âm

thanh, được thể hiện trên một chất liệu nhất định và có thể phân phối, truyền đạt tới
công chúng bằng các thiết bị kỹ thuật, công nghệ, bao gồm loại hình phim truyện,
phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác. 11
Tác phẩm tạo hình là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình
khối, bố cục như: hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và các hình thức thể
hiện tương tự, tồn tại dưới dạng độc bản. Riêng đối với loại hình đồ hoạ, có thể được
thể hiện tới phiên bản thứ 50, được đánh số thứ tự có chữ ký của tác giả
Tác phẩm mỹ thuật là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình
khối, bố cục với tính năng hữu ích có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản

7 Điều 10, NĐ 100/2006/NĐ-CP.
8 Điều 11, NĐ 100/2006/NĐ-CP.
9 Điều 12, NĐ 100/2006/NĐ-CP.
10 Điều 13, NĐ 100/2006/NĐ-CP.
11 Điều 41, NĐ 100/2006/NĐ-CP.


20

xuất hàng loạt bằng tay hoặc bằng máy như: biểu trưng; hàng thủ công mỹ nghệ;
hình thức thể hiện trên sản phẩm, bao bì sản phẩm.12.
Tác phẩm nhiếp ảnh là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan
trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể
được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào (hoá học, điện tử hoặc phương
pháp khác)13.
Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh hay tương tự như điện ảnh
không được coi là tác phẩm nhiếp ảnh mà là một phần của tác phẩm điện ảnh đó.
Tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ thiết kế dưới bất kỳ hình thức nào thể hiện ý
tưởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian (quy hoạch
xây dựng) đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các bản vẽ thiết kế

về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo về ngôi nhà,
công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của
một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cư nông thôn
Mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian
được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập14
Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ bao gồm họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên
quan đến địa hình, các loại công trình khoa học và kiến trúc15.
Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là các loại hình nghệ thuật ngôn từ
như truyện tiếu lâm, ngụ ngôn, sử thi, thần thoại, truyền thuyết, giai thoại, thơ, ca
dao, tục ngữ, câu đố và các hình thức thể hiện tương tự khác; các loại hình nghệ
thuật biểu diễn như tuồng, chèo, cải lương, điệu hát, làn điệu âm nhạc; điệu múa, vở
diễn, trò chơi dân gian, hội làng, các hình thức nghi lễ dân gian và các hình thức thể
hiện tương tự khác; các loại hình nghệ thuật tạo hình như đồ họa, hội họa, điêu
khắc, nhạc cụ; hình mẫu kiến trúc và các hình thức thể hiện tương tự khác.” 16
Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng các
lệnh, các mã, lược đồ hoặc bất kỳ dạng nào khác, khi gắn vào một phương tiện mà
12 Điều 15, NĐ 100/2006/NĐ-CP.
13 Điều 16, NĐ 100/2006/NĐ-CP CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của bộ luật dân sự, luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
14 Điều 17, NĐ 100/2006/NĐ-CP (đã dẫn)
15 Điều 18, NĐ 100/2006/NĐ-CP.

16 Điều 4, NĐ 85/2011


21

máy tính đọc được, có khả năng làm cho máy tính thực hiện được một công việc
hoặc đạt được một kết quả cụ thể.
Sưu tập dữ liệu là tập hợp có tính sáng tạo thể hiện ở sự tuyển chọn, sắp xếp

các tư liệu dưới dạng điện tử hoặc dạng khác.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với sưu tập dữ liệu không bao hàm chính các tư
liệu đó, không gây phương hại đến quyền tác giả của chính tư liệu đó17.
Danh sách các tác phẩm được nêu trong Điều 14 LSHTT không cố định, và
số loại hình tác phẩm sẽ ngày một tăng với sự ra đời của các phương tiện lưu trữ và
truyền tải thông tin hiện đại, thí dụ như cơ sở dữ liệu, truyền thông đa phương
diện, hay xa lộ thông tin. Các loại hình này được tập trung thành ba nhóm: các
tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật. Tuy vậy cũng có những trường hợp
một tác phẩm vừa là một tác phẩm khoa học, vừa là một tác phẩm nghệ thuật,
thí dụ một bộ phim tài liệu khoa học. Sự sáng tạo của một tác giả không nhất thiết
phải độc lập với sự sáng tạo của tác giả khác. Các tác phẩm dẫn xuất từ những tác
phẩm khác cũng được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả, thí dụ tác phẩm dịch,
phóng tác, cải biên, chuyển thể, tuyển chọn, sưu tầm 18.
Việc liệt kê các loại hình sáng tạo theo hướng kế thừa một tác phẩm đã có
này không tự loại trừ lẫn nhau, có nghĩa là một tác giả có thể vừa chuyển thể,
vừa cải biên một tác phẩm đã có. Vở cải lương "Nghêu Sò Ốc Hến" do soạn giả
Trần Hữu Trang cải biên và chuyển thể từ một vở tuồng cổ đã có trong dân
gian.
Tuy rằng quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội
dung sáng tạo, song không phải với bất kỳ nội dung nào thì tác phẩm cũng sẽ
được bảo hộ. Luật ở nước nào cũng quy định một tiêu chuẩn tối thiểu về mặt
nội dung để được bảo hộ. Một hình vẽ vô ý thức trên tường, một bài báo xuyên tạc
sự thật không thể được bảo hộ.
Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin.
2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực
tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
17 Điều 22, Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009.
18 Vụ pháp luật quốc tế, Bình luận về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam, NXB Tư pháp 2005, trang 37



22

3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
Hiện nay một số luật gia tập hợp các văn bản pháp luật vào một tuyển tập
để phát hành. Thí dụ "Những văn bản pháp luật thương mại", hay "Hệ thống văn
bản pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam". Những tuyển tập này có được bảo
hộ theo quyền tác giả hay không? Trên thực tế, việc họ in lại văn bản pháp luật thì
không vi phạm luật về quyền tác giả, song họ cũng không được bảo hộ khi có
người in lại các văn bản pháp luật trên sách mà họ in ra. Câu hỏi thú vị mà hiện
chưa có lời giải đáp là: liệu việc sao chép văn bản pháp luật trên các cơ sở dữ liệu
như Luật Việt Nam nhằm mục đích kinh doanh có xâm phạm quyền lợi chính
đáng gì của chủ các cơ sở dữ liệu đó hay không? Tin tức thời sự thuần túy đưa
tin, thí dụ như bản tin ngắn trên báo Sài Gòn Giải phóng, tuy không được bảo hộ
dưới dạng quyền tác giả; song một bài xã luận hay phóng sự, có kèm nhận định,
chọn lọc tin tức lại được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả19.
Quyền tác giả cũng là một dạng độc quyền, và độc quyền có những mặt hạn
chế của nó. Cần phải có những quy định để bảo hộ quyền tác giả nhưng vẫn phải
đảm bảo cho người dân được tiếp cận với các thông tin được bảo hộ.
Một vấn đề hiện đang được quan tâm là các tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian. Việc bảo hộ quyền tác giả của các tác phẩm này còn khó khăn. Trước
tiên là vì khó xác định được tác giả của những tác phẩm đó. Hơn nữa nếu tác giả
tác phẩm chết không có người thừa kế, các tác phẩm nghệ thuật dân gian có thể bị
thất truyền. Ngoài ra, bảo hộ độc quyền những tác phẩm dân gian cũng có những
mặt hạn chế của nó. Trước tiên, nghệ thuật dân gian thường xuất phát từ một địa
phương hơn là từ một cá nhân hay dòng họ. Thí dụ sắc thái tranh Đông Hồ, hay
múa Hội Lim xuất phát từ những địa phương ấy chứ không phải từ một dòng họ.
Rất nhiều nghệ nhân đã tham gia đóng góp tạo nên sắc thái và tính nguyên gốc
của những tác phẩm dân gian. Vì vậy, việc công nhận quyền tác giả cho một nghệ
nhân hay một dòng họ là không công bằng, có thể làm cho truyền thống văn hóa

dân gian ở địa phương nói trên bị mai một. Chính vì vậy, tại Điều 23 LSHTT có
qui định người sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu
xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Điều luật này tuy vậy vẫn còn một số điểm
chưa rõ như “thế nào là giá trị đích thực”, nhạc sỹ Trần Tiến sử dụng các làn điệu
19 Lê Nết, tài liệu bài giảng Quyền sở hữu trí tuệ, NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 2006,
trang 58.


23

dân ca như lý qua cầu, lý ngựa ô để sáng tác bài hát có ảnh hưởng đến “giá trị đích
thực” của các làn điệu dân ca đó không, v.v.
1.3.2.1.2. Tác phẩm do người nước ngoài sáng tạo
Hiện tại Việt Nam đã gia nhập Công ước Berne, nên các tác phẩm nước
ngoài (là thành viên của Công ước Berne) sẽ được bảo hộ tại Việt Nam. Ngoài
ra, Nhà nước CHXHCN Việt Nam còn bảo hộ các tác phẩm của người nước
ngoài lần đầu tiên được hình thành, công bố, phổ biến tại Việt Nam, với điều kiện
là chúng phải thoả mãn các điều kiện về nội dung (không phải là tác phẩm phản
động, văn hoá đồi trụy, v.v.). Đối với các tác phẩm được hình thành tại một nước
có Hiệp định tương trợ về bảo hộ bản quyền (như Mỹ), hay do công dân các nước
đó sáng tạo, thì các tác phẩm này cũng được bảo hộ tại Việt Nam như các tác
phẩm Việt Nam, thí dụ như Hiệp định với Hoa Kỳ (có hiệu lực từ ngày
23/11/1998) và với Thụy Sỹ.
Những vướng mắc:
Rất nhiều các tác phẩm lập thể (tác phẩm hình khối hay tác phẩm trên
không gian ba chiều) hiện nay đã được qui định bảo hộ, thí dụ như tác phẩm điêu
khắc, hay tác phẩm mỹ thuật ứng dụng. Tuy nhiên các qui định pháp luật vẫn
chưa nêu ra được tiêu chí rõ ràng xem các tác phẩm nào thì nên bảo hộ, tác phẩm
nào thì không được bảo hộ. Thí dụ, chiếc xe DREAM II có được bảo hộ quyền

tác giả như một tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không? Nếu có, thì đây là cơ hội để
Công ty TNHH Honda Việt Nam có thể ngăn cản các hãng xe máy Trung Quốc
hay Hàn Quốc sản xuất xe theo kiểu dáng của mình. Tuy nhiên, nếu kiểu dáng xe
DREAM II được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả, thì điều này sẽ tạo ra kẽ hở
trong pháp luật: nghĩa là Honda Việt Nam sau khi không thể đăng ký bảo hộ kiểu
dáng công nghiệp lại có thể quay sang đăng ký bảo hộ quyền tác giả. Lại có
người lập luận: khi Công ty nhựa Chợ Lớn sản xuất ra chiếc xe điện cho trẻ em
chạy có kiểu dáng giống xe DREAM II, những chiếc xe này có thể được bảo hộ
dưới dạng quyền tác giả hay kiểu dáng công nghiệp, vậy thì tại sao kiểu dáng xe
DREAM II lại không được bảo hộ? Quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng là một vấn đề hiện nay pháp luật Việt Nam chưa giải thích rõ ràng được.
Đối với tác phẩm kiến trúc, Bộ Văn hoá Thông tin Việt Nam đã có qui định
rõ: tác phẩm kiến trúc là các bản vẽ kiến trúc, chứ không phải là một toà nhà có
hình khối kiến trúc. Theo qui định hiện tại, thì việc sao chép một bản vẽ kiến


24

trúc để xây dựng một toà nhà không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả,
cũng tương tự như việc đọc một quyển sách nấu ăn và chế biến được món phở tái.
Đây là hành vi sao chép nội dung chứ không phải sao chép hình thức thể hiện tác
phẩm, và vì vậy không thể là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tuy nhiên, việc
sao chép bản vẽ thành nhiều bản để nộp lên cơ quan xin phép xây dựng, đưa cho
nhà thầu xây dựng, đưa cho nhà cung cấp v.v. lại bị coi là xâm phạm quyền tác
giả. Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cấm sao chụp bản vẽ và cấm sử dụng các
bản vẽ sao chép từ bản vẽ của mình (dù là chép tay hay photocopy). Điều này sẽ
dẫn đến cùng một hệ quả là người sao chép không thể xây dựng một ngôi nhà
giống với ngôi nhà của chủ sở hữu bản vẽ kiến trúc. Việc chụp ảnh một toà nhà,
sau đó căn cứ vào đấy để xây dựng một toà nhà khác giống hệt chưa phải là cơ
sở để kết luận hành vi xâm phạm quyền tác giả, trước khi trả lời câu hỏi: toà nhà

là tác phẩm thể loại gì và có thể được bảo hộ dưới dạng quyền tác giả không.
Thiết nghĩ, qui định hiện tại của Bộ Văn hoá Thông tin (tác phẩm kiến trúc
chỉ là bản vẽ kiến trúc chứ không phải là toà nhà) là chưa đúng với qui định của
Công ước Berne. Sau khi gia nhập Công ước Berne, Hoa Kỳ đã phải sửa định
nghĩa về tác phẩm kiến trúc trong Luật về Quyền tác giả Tác phẩm Kiến trúc
1990. Điều 102(a) định nghĩa “tác phẩm kiến trúc bao gồm kiểu dáng toà nhà
được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả toà nhà, bản vẽ kiến trúc hay thiết
kế.” Tất nhiên, không phải mọi chi tiết trong toà nhà đều được bảo hộ dưới dạng
quyền tác giả, mà chỉ những chi tiết mang tính nguyên gốc có tính trang trí nhiều
hơn tính ứng dụng mới được bảo hộ mà thôi. Ngoài ra, việc bảo hộ quyền tác giả
đối với những phần có tính nguyên gốc của toà nhà không có nghĩa là khách du
lịch không có quyền chụp ảnh toà nhà đó, hay hoạ sỹ không có quyền vẽ và trưng
bày tranh vẽ toà nhà này (trừ những công trình bí mật hay bị cấm chụp ảnh). Các
hành vi trên không ảnh hưởng đến quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.
Ngoài ra, việc một toà nhà cổ do một kiến trúc sư nổi tiếng thiết kế không phải là
lý do để chủ nhà không được phép sửa đổi, đập phá hay nâng cấp toà nhà theo ý
muốn của mình. Đó là vì chủ nhà đương nhiên được coi như chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm kiến trúc là toà nhà. Câu hỏi thú vị được đặt ra là: nếu trong
hợp đồng thiết kế, chủ nhà do không hiểu luật, đã chấp nhận để công ty thiết kế
được làm chủ sở hữu tác phẩm kiến trúc thì chủ nhà sau này có quyền sửa chữa


25

nhà không?20. Vấn đề bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc hiện nay
vẫn còn nhiều điều cần phải nghiên cứu thêm.
1.3.2.2.

Chủ thể của quyền tác giả


Chủ thể của quyền tác giả là tổ chức, cá nhân, có tác phẩm được bảo hộ
quyền tác giả gồm người tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
1.3.2.2.1.Tác giả
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hay một phần tác phẩm
(Khoản 1 Điều 13 Luật SHTT).
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hay một phần tác phẩm.
"Sáng tạo" trong quan hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả được coi là việc "sử
dụng sức lao động và khả năng suy xét" để tạo ra tác phẩm. Như vậy, sáng tạo là
việc tạo ra tác phẩm từ lao động trí óc. Sao chép lại một quyển sách không gọi là
sáng tạo. Một người chỉ được bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi mà người đó
trực tiếp sáng tạo."Trực tiếp" có nghĩa là chính tác giả đóng vai trò quyết định
trong việc thể hiện ý tưởng và tạo nên tác phẩm. Vì thế, một người cung cấp
thông tin cho phóng viên viết bài không phải là tác giả của bài báo. Như vậy, cá
nhân được coi là tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nếu tác
phẩm là kết quả sáng tạo trực tiếp của cá nhân. Cho nên người đề xuất ý kiến hoặc
cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác
giả.
Cá nhân được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam
bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài. Cụ thể: (a) Cá nhân Việt Nam có
tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả; (b) cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng
tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam; (c) Cá nhân nước
ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam; (d) Cá nhân nước ngoài
có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà
Việt Nam là thành viên. Cho dù tác giả là người Việt Nam hay người nước ngoài
đều được chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật quyền tác giả như nhau.
Quy định này xuất phát từ nguyên tắc đối xử quốc gia trong pháp luật quốc tế, nhằm
thu hút những sản phẩm trí tuệ trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được

20 Lê Nết, tài liệu bài giảng Quyền sở hữu trí tuệ, NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 2006,
trang 56 .



×