Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

đặc điểm kiến trúc phật giáo của văn minh Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.18 KB, 14 trang )

PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.Khái quát đặc điểm kiến trúc phật giáo của văn minh Ấn Độ.
II.Giới thiệu một số thành tựu kiến trúc phật giáo.
A. Tháp Sanchi
1. Vị trí địa lí
2. Quá trình phát triển
3. Đặc điểm nổi bật của kiến trúc
B. Chùa hang Ajanta
1. Vị trí địa lí
2. Quá trình phát triển
3. Đặc điểm nổi bật của kiến trúc
III. Đánh giá về kiến trúc phật giáo Ấn Độ
KẾT BÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Nền văn minh Ấn Độ là một trong những nền văn minh cổ nhất thế giới. Trải qua một giai
đoạn lịch sử dài từ thời cổ đại cho đến thời lỳ trung đại, văn minh Ấn Độ đã phát triển và đạt
được những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật mà tiêu biểu
nhất là thành tựu kiến trúc phật giáo. Tìm hiểu kiến trúc phật giáo của nền văn minh Ấn Độ cổ
trung đại sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về tầm quan trọng của nền văn minh này không chỉ đối với
đất nước Ấn Độ nói riêng mà còn ảnh hưởng trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu
về vấn đề này, chúng em xin chọn đề tài cho bài tập nhóm của mình như sau: “Sưu tầm, giới
thiệu và đánh giá các thành tựu kiến trúc phật giáo của văn minh Ấn Độ cổ trung đại”.
NỘI DUNG
I.Khái quát đặc điểm kiến trúc phật giáo của văn minh Ấn Độ.
Kiến trúc: là một ngành nghệ thuật và khoa học về tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ
thiết kế các công trình kiến trúc.


Kiến trúc chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Các chùa và tu viện phật giáo xuất hiện đầu
tiên từ Ấn Độ vì vậy, kiến trúc Phật giáo được biết đến như nền kiến trúc của một thời kỳ cổ đại
có ảnh hưởng lớn đối với nghệ thuật kiến trúc Phật giáo của các nước Châu Á khác. Vào khoảng
một hai thế kỷ tiếp giáp công nguyên, những công trình kiến trúc phật giáo sớm nhất của Ấn Độ
mới thấy xuất hiện. Đây chính là những nguyên mẫu lý tưởng của nghệ thuật Phật giáo.
Đứng về mặt kiến trúc, ngay từ thời kỳ này, đã xuất hiện hai loại hình chủ yếu của kiến
trúc phật giáo: loại hình thờ thánh tích(Stupa) - một hình thức mộ táng, nhưng cũng đồng thời là
tháp. Loại hình thứ hai là chùa - bao hàm nơi thờ hình tượng phật và là chỗ ở của nhà tu hành.
Cấu trúc chủ yếu gồm hai phần là nơi làm lễ và nơi cư ngụ của sư.
Về quy mô: Các công trình Phật giáo được xây dựng nhiều với quy mô lớn như thánh
đường hoa sen, tháp Sanchi, trụ đá xácna...những quần thể kiến trúc phật giáo đồ sộ: quần thể
tháp, quần thể chùa hang...
Phong cách kiến trúc cột trụ và trên đó là những bài kinh Phật, hình Phật, bánh xe luân
hồi, núi Tu Di, toà sen. Bên cạnh đó là kiến trúc chùa tháp. Nghệ thuật Ấn rõ nét trong việc kiến
tạo các Tịnh xá (Vihara), Chánh điện (Chaiya), kiến trúc "hang động"cũng phát triển mạnh, chi
chít trên vòm hang và đáy hang là những bức vẽ màu trên nền đá tự nhiên, họa tiết và đường nét
biểu hiện những ý nghĩa rất đặc trưng của phật giáo.
Về nghệ thuật tạo hình, tượng Phật được tạo nên ngày một nhiều, các bảo tháp tạo hình
cách điệu hay thể hiện tượng Phật Tượng Tam Thế. Được chạm khắc nhiều nhất là những hình
ảnh huyền thoại về nhà phật , hoa sen, bánh xe pháp luân, những tín đồ sống khổ hạnh, ăn uống
đạm bạc; rồi những hình ảnh minh họa về cuộc đời nhà phật…
Về vật liệu, các công trình kiến trúc sử dụng chủ yếu là đá, gạch; chủ yếu là gạch nung kết
hợp đá để xâydựng. Họa tiết hoa văn tháp được đắp từ vật liệu truyền thống của Ấn Độ cổ với
thành phần: Đất đỏ, vỏ của cây bố, trái Đào tiên, mật đường, vôi. Những chất liệu này thì hơn hẳn


xi-măng, tuổi thọ của chất liệu này có thể tồn tại khoảng 300 năm. Vật liệu dành cho kiến trúc
hang động là đá với những thành tựu vĩ đại của đục chạm trên đá núi, là kèo gỗ hoặc đá nối với
các thanh chống trần nhà bằng đá tại các hang động cổ xưa.
Khái quát lại: kiến trúc phật giáo Ấn độ đều xây dựng nguyên liệu chủ yếu là đá, chịu ảnh

hưởng của tôn giáo. Mặt khác cũng có những nét riêng, với quy mô rộng lớn đặc biệt là những
ngôi chùa tạc vào vách núi , nghệ thuật tạo hình gắn liền với phật giáo : hoa sen, bánh xe luân hồi
v.vv...Sự đa dạng trong các loại hình kiến trúc phật giáo như Tháp- tiêu biểu là tháp Sanchi, trụ đá
có trụ đá xacna, chùa Ajanta, chùa Enlora, chùa tanjo và các tượng phật, mỗi loại hình kiến trúc
lại có những công dụng riêng : trụ đá là nơi khắc kinh phật, chùa là nơi thờ và là nơi tịnh xá cho
các nhà sư..
II.Giới thiệu một số thành tựu kiến trúc phật giáo.
A. Tháp Sanchi
1.vị trí địa lí
Khu vực Sanchi ở bang Madhya Pradesh, Ấn Độ là một trong những quần thể di tích Phật
giáo nổi tiếng với các ngôi tháp, các ngôi chùa và các tu viện lớn. Riêng ngôi đại tháp Sanchi
được xem là một trong những di tích nghệ thuật Phật giáo vĩ đại và lâu đời nhất ở Ấn Độ.
2.Quá trình phát triển
Tên gọi Sanchi chỉ mới được dùng phổ biến từ khoảng thế kỷ thứ 9 và 10 sau Công
nguyên. Trước đó vị trí này có tên Kakanaya (thế kỷ thứ II TCN). Từ thế kỷ thứ V có tên là
Kakanada –bota, đến thế kỷ thứ VII Kakanaya chuyển đổi thành "Bota-Sri Parvata", rồi sau đó
trở thành "Santi - Sri Parvata". Thuật ngữ Santi (nghĩa là an lạc) được dùng sau một quá trình
biến thành Sanchi.
Đại bảo tháp Sanchi bắt đầu xây dựng từ Vương triều của Đại đế Asoka thế kỷ thứ III
trước Công nguyên. Hạt nhân của nó là một cấu trúc vòm bằng gạch được xây dựng theo kiểu
mẫu vũ trụ quan Phật giáo. Xuyên qua tâm vòng tròn là một cột trụ vươn lên qua đỉnh vòm, tượng
trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo. Lịch sử rõ ràng của Sanchi bắt
đầu từ vua Asoka năm thứ 10 sau khi lên ngôi, kéo dài suốt 37 năm từ 274-237 BC. Trị vì một đế
quốc hùng mạnh, ông là vị vua hết lòng hộ trì Phật pháp nên cho xây dựng rất nhiều bảo tháp, trụ
đá và tu viện rộng khắp trên đất nước Ấn Độ.Tiếp tục kế ngôi vua cha, Agnimitra trông nom một
vương quốc phía Tây lấy Vidisha làm thủ phủ. Ông đã đóng góp một phần rất lớn trong việc duy
trì dài lâu của thánh địa Sanchi. Vua Agnimitra đã cho xây dựng một bảo tháp lớn bằng đá bao
quanh tháp chính bằng gạch được xây dựng bởi vua Asoka.
Sự nổi lên của vương triều Satavahanas đánh dấu một giai đoạn quan trọng nhất trong lịch
sử của thánh địa Sanchi. Bảo tháp được xây thêm bởi một hàng rào đá và có 4 cổng đá ở 4

phương chính, mỗi cổng có 3 xà ngang. Các hình cây bồ đề, hoa sen, bảo tháp, pháp luân, voi,
ngựa... được chạm khắc tỉ mỉ ở các xà ngang này. Các trụ vuông khắc những hình ảnh minh họa
được trích từ kinh Bổn sanh, những câu chuyện về tiền kiếp của đức Phật.


3. Đặc điểm nổi bật về kiến trúc
Qui mô: Sanchi là một trong những khu phức hợp kiến trúc Phật giáo không có giá đỡ ở
Nam Á được bảo tồn tốt nhất. Sự đa dạng của các tháp, đền, tu viện và cột chống đều quy tụ ở
đây, trên đỉnh một dãy sa thạch biệt lập ở miền trung Ấn Độ, từ thế kỷ III TCN. Nhưng nổi bật
hơn cả là Tháp lớn cao 16,5 m.
Phong cách kiến trúc: Đây là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn với
nghệ thuật điêu khắc. Với một nền kiến trúc vuông vức (áo cà sa gấp bốn của đức phật) là một
bán cầu khối đặc khổng lồ bằng gạch và đá, hình một cái bát úp sấp, chỏm hơi dẹt. Trên chỏm có
xây một vọng lâu hình vuông, được cho là nơi xá lị phật. Trên tận cùng nóc là một cột có gắn 3
phiến đá lớn hình đĩa tạo thành nột chiếc dù nhiều tầng mà người ta cho là biểu tượng của sự tôn
nghiêm cũng có thể che mưa che nắng. Chung quanh bán cầu có một hàng rào đá, gồm 120 thanh
cột chống, mở ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc.
Đặc điểm kiến trúc
Thể hiện ở những cột trụ cao chạy dài bao quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được
xây cất và chạm trổ một cách điêu luyện đầy thẩm mỹ độc đáo. Hai cột trụ đứng chạm kinh văn
nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con voi đỡ 3 xà ngang, có chỗ chạm trổ hình voi, sư tử,
kinh văn,... tượng trưng những sinh hoạt văn học triết lý của các thời kỳ chánh pháp, tượng pháp
Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4 cổng gồm 1 cổng lớn và 3 cổng nhỏ. Ba cổng nhỏ kia
cũng xây cất và chạm trổ giống như cổng lớn với các hình tượng voi, sư tử, nam nữ, ngựa,... miêu
tả theo những thần thoại về cuộc đời và giáo pháp của Thế Tôn. Hình tượng vua A Dục được
chạm khắc trên một cổng thành, miêu tả lại cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở Bồ
Đề Đạo Tràng. Đây là hình ảnh duy nhất được chạm trổ do các nghệ nhân và thần dân của vua
khắc lại để tưởng nhớ đến công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã hết lòng ủng hộ công
cuộc hoằng dương Chánh pháp. Quanh chân tháp là lối đi hành lễ có rào chắn bằng đá. Mái bát úp
của tháp nhô lên khỏi đế tường với dạng bán cầu cụt và đường chéo dài 36,6 m nổi lên bằng một

rào chắn hình vuông bằng đá bao quanh ba chiếc ô đá. Mái bát úp và đế tường được phủ bằng lớp
bê tông đá vôi trắng, rào chắn và các cổng ra vào đều quét một màu đỏ trong mờ. Bề mặt của tháp
được phủ vòng hoa và các ô trên đỉnh mạ vàng.
Về nghệ thuật tạo hình: Các tảng đá tổng hợp được đẽo gọt thô bằng búa nhọn và dụng cụ
móc, chạm trổ trang trí bằng đục thép và giũa trước khi dùng cát sông trà nhuyễn. Trong khi lớp
bao đặt trong các lớp xây khô nằm ngang, thì những chi tiết rào chắn dùng mối nối kiểu ghép
mộng, một kỹ thuật trong nghề mộc. Thậm chí rầm ngang cũng tạo dáng hình hột đậu mô phỏng
tre.
Về chất liệu. Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây cất bởi gạch đá thời vua Asoka. Cột chống
nặng 40 tấn của Asokan khai thác từ mỏ đá ở Chunar trên sông Hằng. Lớp bọc bằng sa thạch lấy
từ dãy núi có tháp Sanchi. Rào chắn làm bằng sa thạch mịn hơn lấy từ lớp đất đá mặt gần đó, các
cổng trang trọng lấy từ lớp đất đá mặt cách Udayagiri 6,4 km.


B. Chùa hang Ajanta
1. Vị trí địa lí: Chùa hang Ajanta - Di sản độc đáo trong lòng núi đá. Phức hợp chùa hang
Ajanta nằm trong một khe núi đá hiểm trở hình móng ngựa với rừng cây cối rậm rạp, cách làng
Ajantha khoảng 3,5 km. Nó tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng dòng
sông Waghora uốn khúc.
2. Quá trình phát triển: Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II
TCN đến thế kỷ thứ VIII do các tu sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ (hang số 8, 9, 10, 12, 13, 15A)
xây dựng. Các hang sau này có màu sắc của Đại Thừa (các hang số 1, 2, 16, 17, 19, 26), phản ảnh
sự chuyển hướng của Phật giáo Ấn Độ. Việc xây dựng trải qua hai giai đoạn, 900 năm cho 29
gian lần lượt ra đời.Phức hợp chùa hang Ajanta bao gồm các chùa thờ Phật (Viharas) và các lăng
mộ của các vị thiền sư (Chaitya-grihas) được đào khoét ngay trong lòng núi
3. Đặc điểm nổi bật của kiến trúc
Về quy mô: Các chùa hang thờ Phật có kích thước khác nhau, chùa lớn nhất có diện tích
khoảng 16m. Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách núi
đá thẳng đứng cao 76m, với 29 gian và hàng trăm bức bích họa, hàng trăm pho tượng phật cùng
với những kiến trúc khắc trên đá vô cùng đồ sộ.

Nghệ thuật tạo hình
+ Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trên đá: các chùa hang được đục khoét một cách
vuông vức. Có những chùa được xây dựng một cách đơn giản nhưng cũng có những chùa được
xây dựng khá công phu và tinh xảo. Các nơi thờ Phật thường được xây dựng dựa lưng vào vách
đá phía sau ở trung tâm của ngôi chùa và trên mỗi nơi thờ tự thường đặt một bức tượng Phật ngồi
bằng đá. Mặt ngoài, mỗi ngôi chùa thường có khoảng 20 cột đá đục đẽo liền từ núi đá nguyên
thủy, rồi chạm khắc, trang trí công phu. Chân cột vuông, đỉnh cột có vầng tròn áp trần trang trí
những tràng hoa lớn công phu, các hàng cột vĩ đại đỡ ngạch cửa khổng lồ với những hình chạm
trổ tuyệt đẹp. Người ta đục đá tạo tác bàn thờ lớn từ giữa hang đến đáy hang chùa. Ngôi chùa 9 và
10 là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa
hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ
VIII. Có những ngôi chùa rất lớn như chùa hang 16, gian hành lễ rộng đến 400m2.Trong chùa
hang 19, một điêu khắc đá tuyệt diệu, tạc hình Phật đứng, áo cà sa bó thân, trông thân thiện và ấm
áp lạ lùng. Bức phù điêu đá này được coi là mẫu mực cổ xưa nhất của dáng tượng Phật đứng.
Hang số 26 là một điện Phật được xây dựng vào thời kỳ sau với trình độ kỹ thuật cao, các bức
tượng chạm khắc đều rất lớn và hầu như tất cả đều còn nguyên vẹn. Những hình ảnh Phật giáo
sống động trong nhóm hang thứ 2 đã phản ảnh sự hưng thịnh của đạo Phật lúc bấy giờ. Trong các
hang động này, hình ảnh của phật Như Lai luôn là tâm điểm chi phối mọi vật xung quanh
+ Sự kết hợp kiến trúc và hội họa: Ajanta đặc biệt nổi danh với những bức bích họa trên
vách đá và trần hang. Tổng cộng có đến 500 bức. Màu sắc tranh được làm từ các chất có nguồn
gốc thực vật nên vừa hài hòa, vừa tương phản mà vẫn tươi nguyên qua mấy ngàn năm, mô tả sinh


động những điển tích Phật giáo. Đó là những tác phẩm mỹ thuật vừa lộng lẫy vừa thiêng liêng.
Toàn bộ các bức tranh đều tập trung thể hiện cuộc đời đức Phật và thể hiện các câu chuyện tiền
thân của Ngài, các bức tranh còn bao trùm hiện thực rộng lớn hơn: cả cuộc sống cung đình, cuộc
sống của bao người bình dị nơi thị thành thôn xóm, thế giới chim thú, cỏ hoa và cả thế giới của
các tiên nữ, các tạo vật thần linh trên thiên giới.
III. Đánh giá về nghệ thuật kiến trúc phật giáo Ấn Độ
Có thể thấy, hiều loại hình nghệ thuật cổ điển bắt nguồn từ nền tảng dân gian hay sắc tộc

và kết nối với tôn giáo, không chỉ về khía cạnh huyền bí mà thậm chí cả phương diện thế tục. Từ
nền tảng dân gian, nghệ thuật, kiến trúc và văn hóa Ấn Độ phát triển thành các loại hình cổ điển
và đạt tới đỉnh cao huy hoàng dưới thời Đế chế Gupta được gọi là thời đại vàng son.
Sự đa dạng và nét độc đáo của kiến trúc phật giáo ở Ấn Độ xuất phát từ những sự ảnh
hưởng của những yếu tố sau:
Màu sắc tôn giáo : trong các công trình kiến trúc phật giáo màu sắc tôn giáo là vô cùng rõ
nét, trở thành đề tài chính để phản ánh.
Về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên: Ấn Độ nằm gần hai con sông lớn: sông Ấn mang
nhiều chứng tích lịch sử và sông Hằng ẩn tàng phong thái tâm linh huyền bí, bởi thế kiến trúc
phật giáo Ấn Độ cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng huyền bí, biểu hiện rất cụ thể ở các chùa hang
và kiến trúc trong tháp.Ở đây có nhiều vùng khí hậu phân hóa rõ rệt. Yếu tố này có ảnh hưởng rất
lớn đến quan niệm cũng như hệ tâm thức của con người. Từ đó, nó sản sinh ra nhiều loại hình văn
hóa nghệ thuật phong phú mà nền nghệ thuật kiến trúc là đặc điểm được thể hiện rõ nét nhất.
Ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thống triết học duy lý và duy linh phong phú : Tháp và đền
đài hòa quyện một ngôn ngữ tượng trưng dựa trên những thể hiện bằng hình ảnh các khái niệm
triết học quan trọng, như Chakra – bánh xe luân hồi; Padma – hay hoa sen là hiện thân của sự
sáng tạo; Ananta tượng trưng cho nước, nguồn lực mang lại sự sống; Swastika (chữ thập ngoặc) –
thể hiện bốn phương diện xoay vần của sáng tạo và vận động; Kaplavriksha – cây thỏa mãn ước
nguyện tượng trưng cho trí tưởng tượng; Mriga – hay hươu nai tượng trưng cho dục cảm và vẻ
đẹp.
Kiến trúc phật giáo mang đậm sắc thái của cuộc sống thể hiện ở những tranh bích họa hay
những đường nét chi tiết nghệ thuật trên các bức phù điêu. Phù đồ cũng được trang trí bằng biểu
tượng, hình tượng phản ánh cuộc sống người dân và các loại cảnh tượng về cuộc đời, tư tưởng
Phật Giáo hòa quyện một cách tự nhiên giữa thế giới thánh thần và đời sống con người.
Sự ảnh hưởng của kiến trúc phật giáo tới đời sống : Điều này được phản ánh rõ nét qua kiến
trúc nhà ở của người Ấn Độ. Đá được sử dụng làm vật liệu trong xây dựng nhà ở, trong kiến trúc
nhà ở người dân Ấn Độ cũng có nhiều cột chống, có kèo nối với các thanh chống trần nhà. Phản
ánh kiến trúc Phật giáo vào trong đời sống, mái nhà thường là mái bằng, thường có bốn cửa lớn.
Các tượng phật không có hình thù kỳ lạ mà có rất gần gũi với cuộc sống con người. Hình tượng
sùng bái trong đạo phật cũng chính là vật thờ cúng trong gia đình người dân Ấn Độ.

Kiến trúc phật giáo hòa quyện với kiến trúc Hindu giáo và Jaina giáo : biểu hiện rõ nhất ở
Quần thể hang động Ellora bao gồm 34 cấu trúc tôn giáo chạm khắc trên đá độc đáo cổ xưa ,có 12
công trình hang động Phật giáo, 17 hang động Hindu giáo và 5 công trình hang động Jaina giáo


đã có từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10, đây được xem là những minh chứng sống động cho thời
kỳ hưng thịnh và hòa hợp của các tôn giáo lớn kể trên của Ấn Độ. Điều này có lẽ xuất phát từ
nguyên nhân vua Ashoka tôn trọng tất cả tôn giáo, những lời vua Ashoka khắc trên cột đá pillar,
nhấn mạnh: “Những ai khen quá nhiều tôn giáo mình, do một niềm tin quá độ, và chỉ trích các
tôn giáo khác với ý nghĩ là "Để tôi làm rạng danh tôn giáo tôi", thật ra chỉ là làm hại chính tôn
giáo mình. Vì thế, sự tiếp xúc giữa các tôn giáo là điều tốt. Mọi người nên lắng nghe và kính
trọng niềm tin và điều tốt từ các tôn giáo khác”. Chắc cũng bởi lí do đó mà có thời kỳ các tôn
giáo có sự hòa hợp với nhau.
Sự khác nhau của kiến trúc tôn giáo: Ngược lại với bức tượng Đức Phật thanh thản và
trang nghiêm trong các hang động được xây dựng từ nhiều đời trước, các bức tường trong các
ngôi đền Hindu giáo khoác lên mình các bức phù điêu tinh xảo, sinh động miêu tả các sự kiện có
trong kinh Hindu giáo, trong đó có các hang động dành riêng cho việc thờ thần Shiva tối cao và
đấng bảo hộ Vishnu. Còn đối với Jaina giáo mặc dù không bề thế về số lượng so với hai quần thể
hang động trên nhưng lại chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật độc đáo bao gồm các bức tranh
trên trần nhà, các bức phù điêu chạm khắc tinh xảo cùng các mảnh ghép có từ xa xưa.
Ảnh hưởng tới kiến trúc phật giáo Việt Nam: kiến trúc tháp, chùa, đền và các chùa hang ở
Việt Nam xuất hiện nhiều và chịu ảnh hưởng của kiến trúc phật giáo Ấn Độ. Dấu ấn nghệ thuật
Phật giáo qua hình lá đề, hoa sen trong các họa tiết ở đình chùa (Phật Tích, chùa Một cột, hệ
thống chùa Yên Tử…)bên trong các ngôi chùa sắp xếp các vị phật và La Hán theo trật tự tôn
nghiêm. Kiến trúc tượng phật (tượng Thích Ca Nhập Niết Bàn ở Chùa Keo – Thái Bình, tượng
phật sơn son thiếp vàng ở chùa Trăn Gian - Hà Tây) phổ biến. Kiến trúc tháp trên các trụ đá có
chạm khắc các minh văn, có những liên quan đến Phật Giáo, xây dựng trong quy mô lớn, thực
hiện giống như một đền thờ như tại Ấn Độ; được xây dựng bằng những loại chất liệu khác nhau,
có nhiều bộ phận được dùng gạchvà chất kết dính khá vững chắc, đều được dựng lên ở lưng
chừng núi đất lẫn núi đá,đột khởi giữa vùng đồng bằng, thường lấy thế núi, thế đồi cao làm nền

tảng, có đủ tiền án, hậu chẩm, sơn triều, thủy tụ, thanh long, bạch hổ. ( tháp Hoà Phong ở chùa
Dâu - Bắc Ninh, Bút Tháp ở Hà Bắc ,Tháp Cổ Lễ ở Nam Hà và tháp Thiên Mụ…)
KẾT BÀI
Nói chung, ta có thể cảm nhận sâu sắc từ những công trình kiến trúc của phật giáo có sự
kết hợp hài hòa giữa con người với thiên nhiên, sự kết hợp nhuần nhuyễn của những khát vọng
thánh thiện và những đam mê trần tục. Tuy nhiên, tất cả những nét chung đó vẫn không làm mất
đi sắc thái riêng của từng vùng, từng thời kì, từng phong cách nghệ thuật hiện lên trong sự phong
phú, đa dạng và độc đáo. Nét đặc sắc của kiến trúc phật giáo Ấn Độ không chỉ có sức hút và tầm
ảnh hưởng lớn tới Việt Nam mà còn được coi là cội nguồn của kiến trúc phật giáo của thế giới để
lại những công trình sống cùng thời gian với những giá trị bền vững cho nhân loại mai sau.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Vũ Dương Ninh, Lịch sử văn minh thế giới, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.

2.

Lương Ninh (chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.

3.

Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La, Lịch sử thế
giới trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.

4.

Lương Ninh, Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
2003.


5.

Amalnach - Những nền văn minh thế giới, Nxb. Văn hoá-thông tin, 1999.

6.

Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Đinh Trung Kiến,
Những nền văn minh rực rỡ cổ xưa, Nxb. QĐND, Hà Nội, 1993.


MỘT SỐ HÌNH ẢNH TIÊU BIỂU

Quần thể chùa hang Ajanta tạo thành hình cánh cung

Lối vào hang


Hang số 10 chùa hang Ajanta

Chính điện của một chùa hang


Đại bảo tháp Sanchi

Trang trí phía trên cổng Sanchi


Tháp Ấn Tôn - Ấn Độ



Quần thể kiến trúc Ellora

Tượng phật ở Ấn Độ


Chùa một cột

tháp chùa Thiên Mụ - Việt Nam



×