Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Môi trường Việt Namnhững năm gần đây – thực trạng, nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.6 KB, 12 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
**************************************************
Có thể thấy, môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của
con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc
và nhân loại. Nó bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự
tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên. Môi trường sống bị hủy hoại đồng
nghĩa với việc loài người có nguy cơ bị hủy diệt. Tuy vậy, thực tế trong những năm
gần đây, thực trạng môi trường ô nhiễm trầm trọng, và sự vơi cạn của nguồn tài
nguyên thiên nhiên cùng với đó là công cuộc Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế thúc đẩy mục tiêu mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra: Cho đến
năm 2020 Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì vấn đề môi
trường càng được toàn xã hội quan tâm. Trung hòa giữa sự phát triển kinh tế - văn
hóa, xã hội với vấn đề môi trường sống là một việc làm đòi hỏi sự chung tay của
toàn xã hội và đặc biệt là phương hướng quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Hiểu rõ về thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của vấn đề môi trường của
nước ta những năm gần đây là cơ sở thực tiễn để hạn chế những tồn tại bất cập
trong hành lang pháp lý và cơ chế quản lý đồng thời hoàn thiện những giải pháp,
phương hướng để giải quyết vấn đề mối trường và biến đổi khí hậu – vấn đề của
không những của riêng Việt Nam mà còn là vấn đề cấp bách của toàn cầu. Nhận
thấy sự cần thiết của vấn đề này, tôi xin trình bày đề tài : Môi trường Việt Nam
những năm gần đây – thực trạng, nguyên nhân và giải pháp


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
******************************************************
I.

TÍNH NHẤT THIẾT VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Bảo vệ môi trường là sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và bảo vệ sự cân
bằng sinh thái. Việc khai thác phải thực hiện có kế hoạch, có giới hạn nhất định


nhằm đảm bảo tài nguyên không bị cạn kiệt, sự cân bằng sinh thái không bị phá
hủy, các tài nguyên giữ được khả năng hồi phục để con người có thể khai thác lâu
dài. Sử dụng hợp lý tài nguyên chính là việc sử dụng nó theo phương án tối ưu và
đạt hiệu quả cao nhất cả về kinh tế, xã hội và môi trường. Bảo vệ môi trường là
phục hồi các nguồn tài nguyên đã bị cạn kiệt. Đối với những khu vực mà ở đó các
nguồn tài nguyên đã bị khai thác cạn kiệt thì việc phục hồi chúng là hết sức cần
thiết. Bảo vệ môi trường là phòng chống ô nhiễm và suy thoái môi trường. Việc
phòng chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, nhưng
yếu tố mang tính quyết định là con người phải có những hiểu biết về môi trường,
có ý thức bảo vệ môi trường và có biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế hoặc xử lý
chất thải độc hại, các chất gây ô nhiễm trong quá trình sinh hoạt và sản xuất vật
chất. Bảo vệ môi trường còn là nghiên cứu việc phòng chống và dự báo những
biến cố về thiên nhiên, môi trường. Sự phát triển của khoa học – công nghệ ngày
càng cho phép con người có thể dự báo được những sự cố môi trường; vì vậy, con
người có thể thực hiện các biện pháp phòng chống để giảm nhẹ thiên tai do sự cố
môi trường gây ra. Như vậy, bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi
trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường; bảo đảm cân bằng sinh thái;
ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi
trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Bảo vệ
môi trường đã, đang và sẽ là vấn đề sống còn đối với mỗi con người, mỗi gia đình,


mỗi cộng đồng dân cư; là việc phải làm thường xuyên, liên tục và là trách nhiệm
của mọi công dân.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG NƯỚC TA NHỮNG NĂM

II.

GẦN ĐÂY
Xếp hạng thứ 5 khu vực châu Á - Thái Bình Dương về mức độ ô nhiễm khói

bụi ở thành phố đông dân, nồng độ khí thải tăng cao và nhanh, hiện tượng nhiều
dòng sông cục bộ chết, sự vơi cạn dần dần của các nguồn tài nguyên, việc xuất
hiện các làng ung thư... là những thực trạng đáng cảnh báo về thực trạng môi
trường ở nước ta trong những năm gần đây.
Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà
máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị
lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô
nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị
lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt
nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Dưới đây người viết xin trình bày một số vấn đề nổi
cộm về môi trường ở nước ta hiện nay.
1.

Tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp ở nước ta

Hiện nay nước ta có khoảng trên 200 khu công nghiệp được Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Ngoài ra, còn có hàng trăm cụm, điểm công nghiệp được
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập.
Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc
hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa
phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một
số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như
không vận hành vì để giảm chi phí. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công


nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác.
Theo số liệu khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp
nước Sài Gòn thực hiện năm 2008 cho thấy, lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ
lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi sinh) tăng cao tại hầu hết các
rạch, cống và các điểm xả. Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong nước vượt

gấp 30 lần tiêu chuẩn cho phép. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư
lân cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường.
Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công
nghiệp...
2.

Tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề truyền thống

Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ
công truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Hậu quả về môi
trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng.
Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các làng
nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 và Nox thải ra trong quá trình sản
xuất khá cao, tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng trầm trọng
và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái
tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức
khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân
sống ở vùng lân cận.
3.

Tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn
Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại
các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức rất nghiêm trọng. Đó là các ô nhiễm
về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần
đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng


nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt ở đô thị hầu hết đều
trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngoài việc
vận chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày

người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra
hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra
hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày,
thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo một
kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng thế giới (WB), trên 10
tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí,
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo
báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh đứng đầu châu á về mức độ ô nhiễm bụi.
4.

Tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường nước
Môi trường nước mặt ở đa số các đô thị và nhiều lưu vực sông của nước ta
đều bị ô nhiễm chất hữu cơ. Các ao, hồ, kênh, rạch trong nội thành, nội thị, trị số
hàm lượng các chất ô nhiễm của các thông số đặc trưng ô nhiễm hữu cơ đều vượt
trị số giới hạn tối đa cho phép đối với các nguồn nước loại B từ 2-6 lần. Hàm
lượng chất hữu cơ và Colifom ở hầu hết các dòng sông chảy qua đô thị và các khu
công nghiệp đều vượt giới hạn tối đa cho phép, nhiều nơi cao hơn tới 2-3 lần.
Riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội bị ô nhiễm chất hữu cơ trong môi
trường nước mặt và nhiễm bụi trong môi trường không khí đứng vào hàng nhất,
nhì trên thế giới. Ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm chất thải rắn cộng thêm nạn úng ngập
ngày càng gia tăng ở các đô thị, gây thiệt hại lớn về kinh tế, sức khỏe cộng đồng và
làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường trở nên trầm trọng.


Cũng tại Hội nghị triển khai Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông
Đồng Nai ngày 26/2/2008, các cơ quan chuyên môn đều có chung đánh giá: nguồn
nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng. Bình
quân mỗi ngày, lưu vực sông Đồng Nai phải tiếp nhận khoảng 48.000m3 nước thải

từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu
chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập
trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng
nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công
nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô
nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con
nông dân.
Bên cạnh đó, theo báo cáo của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam: Hàm
lượng dầu mỡ trong nước biển ven bờ ngày càng tăng và đã tới mức báo động. Đặc
biệt là ở các khu vực Cửa Lục gần cầu Bãi Cháy của tỉnh Quảng Ninh; các vùng
ven biển miền Trung. Tại khu vực ven bờ phía Nam, hàm lượng dầu mỡ trong
nước biển cũng gia tăng năm sau cao hơn năm trước.
5. Vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên và sự đa dạng sinh học
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất các hệ sinh thái không hợp lý và thiếu
khoa học, khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật, ô
nhiễm môi trường, tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu…đang làm suy giảm
nghiêm trọng đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Trên thực tế, rừng nguyên sinh nước ta có giá trị cao về đa dạng sinh học chỉ
còn khoảng 0,57 triệu ha, được phân bố rải rác chiếm khoảng 8% tổng diện tích
rừng. Còn các hệ sinh thái đất ngập nước, điển hình là rừng ngập mặn cũng bị tàn
phá và chuyển đổi mục đích sử dụng đất rất lớn. Tình trạng suy thoái các hệ sinh


thái biển, đặc biệt là đối với các rạn san hô và thảm cỏ biển. Bên cạnh đó sự đa
dạng sinh học cũng bị phá vỡ dần, các nguồn gen quý hiếm đang ở bến bờ của sự
tuyệt chủng.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát
triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế

với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo
vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành,
nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và ngày
càng nghiêm trọng.
Đi sâu vào tìm hiểu vấn đề này, nhận thấy tình trạng ô nhiễm môi trường nêu
trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách như:
* Về ý thức của con người: Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần
thiết cho sự sống và hoạt động sản xuất của con người. Càng ngày, con người càng
khai thác và sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào hoạt
động sống của mình. Môi trường không ngừng phân hủy, hấp thụ và trung hòa các
chất thải thông qua quá trình biến đổi lý hóa học, biến đổi sinh hóa và biến đổi sinh
học. Thêm vào đó, sự gia tăng dân số nhanh chóng và tốc độ công nghiệp hóa
mạnh mẽ đã dẫn đến tình trạng chất thải vào môi trường, nhất là chất thải độc hại
vượt quá mức độ cho phép làm cho môi trường bị ô nhiễm nặng nề.
* Nguyên nhân về kinh tế: Những nền kinh tế tăng trưởng cao trong thời gian
ngắn đều bộc lộ những bức xúc về mặt môi trường. Theo nghiên cứu của Ngân
hàng Thế giới, với ngưỡng GDP thấp, khi tăng trưởng gấp 2 lần, một số ô nhiễm
do các ngành công nghiệp thải ra tăng gấp 3 lần. Và Việt Nam là một ví dụ điển
hình. Có thể hình dung sự phát triển kinh tế, xã hội, dân sinh của nước ta chỉ giới
hạn trong phạm vi diện tích tự nhiên nhỏ hẹp. Môi trường cung cấp đầu vào của
nền kinh tế và cũng chính môi trường nhận chất thải ra. Nó không thể đủ sức để


chịu đựng được áp lực của các hoạt động sản xuất và đời sống khi mà trong 10
năm nền kinh tế nước ta tăng trưởng gấp 2 lần, và trong 50 năm dân số tăng lên
gấp 3 lần đi liền với đó là không quan tâm đến tình trạng môi trường. Hậu quả là
kinh tế cứ phát triển, dân số càng tăng nhanh và môi trường càng ô nhiễm. Môi
trường cũng như một quả bóng bay, nếu bơm quá căng…cho tới khi áp lực không
chịu đựng được, nó sẽ nổ tung đồng nghĩa với đó là khả năng cứu vãn là không thể.
Việt Nam chỉ nhìn ô nhiễm môi trường ở mức hữu cơ: ô nhiễm đất, nước,

không khí... Chúng ta cần xem môi trường là một hệ thống sinh thái tương tác giữa
môi trường, kinh tế và con người. Ta mới chỉ đưa ra một số liệu pháp chữa cháy
mỗi khi có điểm nóng bùng lên. Trong khi đó, bản thân vấn đề môi trường không
thể giải quyết bằng cách chữa cháy. Việc này đòi những giải pháp mang tính lâu
dài, có độ chính xác kỹ thuật, sự cân nhắc kỹ lưỡng chính sách kinh tế tài chính và
điều vô cùng quan trọng là một bộ luật nghiêm khắc, kỹ lưỡng, thấu đáo làm sao
tất cả mọi người, mọi ngành có thể thực hiện được.
*Về cơ chế quản lý và chính sách, pháp luật : Nhận thấy, về hành lang pháp
lý bảo vệ môi trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng về vấn
đề này còn nhiều tồn tại. Hệ thống các văn bản pháp luật dự liệu về vấn đề môi
trường vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không
cao, tình trạng văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá
phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức,
các hoạt động kinh tế...trong việc bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường chưa thực
sự đủ mạnh. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm
môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ sức răn đe.
Sự buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi
trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối
với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức. Công tác thẩm định và


đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn qua loa đại khái cho đủ
thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
*Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phương tiện kỹ thuật: Trình độ chuyên
môn của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường còn hạn chế;
phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn. Nên vướng vào rất nhiều khó khăn khi thực tiễn thực hiện.
*Về công tác tuyên truyền, giáo dục: Công tác tuyên truyền về bảo vệ môi
trường còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của

các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.
*Nguyên nhân về khách quan: Lũ lụt kéo theo đó là sự dồn đọng rác thải, ô
nhiễm nguồn nước. Tình trạng sống chung với lũ không xa lạ gì với những người
dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, rồi dịch bệnh, rồi nghèo đói.... Tuy nhiên
sự bất ổn của thời tiết, sự biến đổi khí hậu, thiên tai và sự khắc nghiệt của thời
tiết…nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ hoạt động kinh tế, xã hội của con người.
Vấn đề môi trường là một vòng tròn của quan hệ nhân quả mà tâm điểm của vòng
tròn đó thuộc vào chủ quan trong chính nhận thức và hành vi của con người.
III. GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC TA ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
1.

HIỆN NAY, NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ
Những kết quả đạt được về bảo vệ môi trườngtrong thời gian qua
Xuất phát từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của môi trường với cuộc sống của
con người, Đảng và nhà nước ta hiện nay đang có đổi mới về mặt chính sách, pháp
luật như Luật Tài nguyên nước mới ban hành, Luật Bảo vệ môi trương đang được
xem sửa đổi bổ sung... Qua đó, Báo cáo môi trường Quốc gia năm 2012 sẽ tập
chung đánh giá lại toàn bộ chính sách và vấn đề môi trường tất cả các lưu vực
sông, bảo vệ môi trường hồ và môi trường nước mặt xuyên biên giới trong thời
gian 5 năm vừa qua. Nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ Chính trị (15/11/2004) về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ năm 2005 đến năm 2009, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng Báo cáo


môi trường quốc gia hàng năm theo các chuyên đề: Đa dạng sinh học (năm 2005);
Môi trường nước 3 lưu vực sông Cầu, Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Đồng Nai (năm
2006); Môi trường không khí đô thị (năm 2007); Môi trường làng nghề (năm
2008); Môi trường khu công nghiệp (năm 2009)...
Để bảo vệ môi trường, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng và
thực hiện các chương trình hành động nhằm cải thiện tình trạng môi trường đồng

thời quan tâm chú trọng nhiều đến việc tổ chức, quản lý, đưa công tác bảo vệ môi
trường vào cuộc sống. Tuy hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt Nam đạt được một
số kết quả nhất định; nhưng công tác bảo vệ môi trường nói chung vẫn còn những
hạn chế nhất định.
2. Kiến nghị giải pháp
Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên xét thấy cần tiếp tục thực hiện đồng bộ một số giải
pháp chủ yếu sau đây:
Về hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường: những chế tài xử phạt
(cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các
đối tượng vi phạm. Cần có hành lang pháp lý vững chắc trong vấn đề khai thác
nguồn tài nguyên môi trường một cách hợp lý và có hiệu quả.
Về công tác quản lý: Cần nắm chắc tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về
môi trường, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực
lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát
hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường,
khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên… của các tổ chức, cá nhân. Nâng cao
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi
trường; trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt
động của các lực lượng này.
Về công tác quy hoạch: Cần có giải pháp quy hoạch các khu, cụm, điểm công
nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán
kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp; tránh tình


trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo. Đối với các khu công nghiệp,
cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu
gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, thường xuyên
có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Về hoạt động thẩm định: Hoạt động thẩm định, đánh giá tác động môi trường

đối với các dự án đầu tư cần được chú trọng, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn
tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay
không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc
kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi
trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư
và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về
tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Về công tác tuyên truyền, giáo dục : Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về môi
trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức
chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của người dân, doanh
nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm cho
mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa
tự nhiên - con người - xã hội.
Đặc biệt là việc khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo đúng thời vụ, địa
bàn, phương pháp, bằng công cụ, phương tiện đã được qui định, bảo đảm cân bằng
sinh thái. Việc khai thác rừng phải đúng qui hoạch và các qui định của Luật bảo vệ
và phát triển rừng, phải có kế hoạch trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc.
Việc khai thác đất nông, lâm nghiệp, đất sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản
phải tuân theo qui hoạch sử dụng đất, bảo đảm cân bằng sinh thái. Trong sản
xuất kinh doanh, các công trình xây dựng phải áp dụng các biện pháp hạn chế,
phòng ngừa, phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, phải có thiết bị kỹ
thuật để xử lý chất thải, bảo đảm tiêu chuẩn môi trường,…


*Về kết hợp bảo vệ môi trường với vấn đề xã hội: phối hợp lồng ghép nhiệm
vụ bảo vệ môi trường với các phong trào, các cuộc vận động như cuộc vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư nhằm gắn công tác bảo
vệ môi trường với phát triển bền vững; góp phần động viên, tôn vinh, nhân rộng
các mô hình, các gương điển hình bảo vệ môi trường để nâng cao chất lượng,
cảnh quan môi trường khu dân cư và giáo dục để người dân có ý thức, kiến thức

sống thân thiện với môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đấu tranh
khắc phục các tập tục, thói quen xâm hại đến môi trường, tài nguyên; đồng thời,
phê phán mạnh mẽ các hành vi, thói quen, tập quán sinh hoạt lạc hậu gây tác hại
đến môi trường.

LỜI KẾT
Như vậy từ những phân tích trên đây có thể thấy, vấn đề môi trường ở Việt
Nam những năm gần đây trở thành một khía cạnh đáng quan tâm của toàn xã hội
nó ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế nói riêng và mọi mặt của đời sống nói chung.
Bài toán về mối liên hệ giữa kinh tế - xã hội – môi trường là bài toán đang cần
được toàn xã hội và cơ quan các cấp , các ngành đi tìm lời giải đáp phù hợp nhất
trong tiến trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tạo nên tiền đề thúc đẩy
kinh tế nước ta tiến xa hơn trên trường quốc tế, chất lượng cuộc sống được nâng
cao và vấn đề môi trường được giải quyết một cách có hiệu quả, triệt để.



×