Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi NSNN và đưa ra ý kiến đánh giá pháp lý của nhóm thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.64 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chi ngân sách nhà nước là một trong những hoạt động quan trọng của quản lý ngân
sách nhà nước. Việc thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật về chi ngân sách nhà
nước ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của nhà nước trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình. Góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội đất
nước. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong phạm vi bài tập nhóm, nhóm em xin lựa
chọn đề tài: “Tìm hiểu về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi NSNN và
đưa ra ý kiến đánh giá pháp lý của nhóm thực hiện”.

NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật hiện hành về chi ngân sách nhà nước
1. Khái niệm:
- Ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước được hiểu là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước (Điều 1 Luật ngân sách nhà nước 2002).
- Chi ngân sách nhà nước:
Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra cách hiểu thống nhất về khái niệm chi ngân sách nhà
nước mà khái niệm này mới được thể hiện dưới dạng liệt kê tại Khoản 2 Điều 2 Luật
NSNN 2002. Theo đó, Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả
nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật”.
Tuy nhiên, từ quy định trên của pháp luật, có thể hiểu: chi ngân sách nhà nước là quá
trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách nhà nước đã
được chủ thể có quyền lực quyết định nhằm duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và
đảm bảo nhà nước thực hiện được các chức năng của mình1.
Như vậy có thể thấy: hoạt đông thu ngân sách nhà nước vừa là tiền đề vừa là cơ sở
cho việc thực hiện chi ngân sách nhà nước. Vì vậy, phạm vi và quy mô của hoạt động chi
ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần vào kết quả hoạt động thu ngân sách nhà nước.
2. Phương thức chi ngân sách nhà nước
Pháp luật hiện hành ghi nhận hai phương thức chi ngân sách nhà nước là chi theo hạn
mức (theo dự toán kinh phí) và chi theo lệnh chi tiền:


- Phương thức chi theo hạn mức (theo dự toán kinh phí): phương thức áp dụng đối với
khoản chi mà cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp. Đối tượng áp dụng phương thức
này là các đối tượng thường xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện
nhiệm vụ được giao, đối tượng có quan hệ thường xuyên với ngân sách nhà nước. Đây là
phương thức được áp dụng rộng rãi hiện nay.
- Phương thức chi theo lệnh chi tiền: là phương thức áp dụng đối với những khoản chi
do cơ quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Đối tượng áp dụng
phương pháp chi này là những đối tượng không có quan hệ thường xuyên với ngân sách
nhà nước trong hoạt động nhận kinh phí hoặc các khoản chi mang tính đặc thù phát sinh
1

Theo trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước, Hà Nôi 2010

1


từng lần. Do đó, phạm vi áp dụng của phương thức này cũng hẹp hơn phương thức chi theo
hạn mức.
3. Các nguyên tắc chi Ngân sách nhà nước.
- Nguyên tắc dựa trên khả năng các nguồn thu để hoạch định chi tiêu:
Theo nguyên tắc này thì mức độ chi và cơ cấu các khoản chi phải được hoạch định
dựa trên cơ sở các nguồn thu. Nếu vi phạm nguyên tắc này thì sẽ dẫn đến tình trạng bội chi
ngân sách và tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ lạm phát về kinh tế.
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả:
Đây là nguyên tắc đòi hỏi các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước nâng cao tinh thần
trách nhiệm và sử dụng ngân sách nhà nước một cách tiết kiệm, hiệu quả nhất.
- Nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm:
Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bố các khoản chi ngân sách phải căn cứ và ưu tiên
các chương trình trọng điểm của Nhà nước, qua đó giải quyết dứt điểm mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội, tránh tình trạng đầu tư tràn lan.

- Nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm trong việc bố trí các khoản chi của
ngân sách nhà nước, nhất là những khoản chi mang tính phúc lợi xã hội: Theo đó, khi
quyết định các khoản chi ngân sách cho một công việc cụ thể, cần phải cân nhắc khả năng
huy động các nguồn vốn, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước như huy động các
nguồn tài trợ, đóng góp trong dân, đặc biệt là với khoản chi mang tính phúc lợi xã hội.
Bên cạnh những nguyên tắc trên, hoạt động chi ngân sách nhà nước còn phải tuân thủ
một số nguyên tắc khác như: phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp
theo quy định của pháp luật để bố trí các khoản chi phù hợp; nguyên tắc kết hợp chặt chẽ
với khối lượng tiền tệ có mặt trong lưu thông và một số phạm trù giá trị khác;…
4. Các điều kiện về chi ngân sách nhà nước.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật ngân sách nhà nước 2002 và Điều 51 Nghị
định 60/2003/NĐ-CP, hoạt động chi ngân sách nhà nước phải đáp ứng đủ 3 điều kiện sau:
Thứ nhất, khoản chi dự định thực hiện phải được ghi nhận trong dự toán ngân sách
nhà nước phân bổ cho đơn vị nhận kinh phí.
Xuất phát từ sự đa dạng trong các lĩnh vực chi ngân sách nhà nước nên khoản chi dự
định phải được ghi nhận trong chỉ tiêu phân bổ tổng thể và phân bổ trong từng nhóm mục
tiêu trong mục lục ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, điều kiện này có một số trường hợp
ngoại lệ:
- Khi dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ dự toán ngân sách chưa được cơ quan có
thẩm quyền quyết định, cơ quan Tài chính và Kho bạc nhà nước có thể tạm cấp kinh phí
cho các nhiệm vụ chi: Chi lương và các khoản có tính chất tiền lương; Chi nghiệp vụ phí
và công vụ phí; Một số khoản chi cần thiết khác để đảm bảo hoạt động của bộ máy, trừ các
khoản mua sắm trang thiết bị, sửa chữa; Chi cho dự án chuyển tiếp thuộc các chương trình
quốc gia; Chi bổ sung cân đối cho ngân sách cấp dưới. Mức tạm cấp hàng tháng tối đa
không quá mức chi bình quân 01 tháng của năm trước (Đ45 Nghị định 60/2003/NĐ-CP).
- Khi chi từ nguồn tăng thu so với dự toán được giao và từ nguồn dự phòng ngân sách
theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
Thứ hai, khoản chi phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước quy định. Theo đó, cần lưu ý các định mức, chế độ, tiêu chuẩn được
2



ban hành cho các lĩnh vực khác nhau do Chính Phủ, Thủ tướng Chính Phủ, Bộ trưởng Bộ
tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Thứ ba, khoản chi đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy
quyền quyết định chi. Điều kiện này cho thấy chỉ những cá nhân có tư cách đại diện hoặc
cá nhân được ủy quyền cho đơn vị sử dụng ngân sách mới có quyền quyết định chi.
Bên cạnh những điều kiện trên trong trường hợp sử dụng vốn, kinh phí ngân sách nhà
nước để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các công
việc khác phải qua đấu thầu hoặc thẩm định giá thì phải tổ chức đấu thầu hoặc thẩm định
giá theo quy định của pháp luật. Với các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia
đều trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chi phát sinh vào một số thời
điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính chất
không thường xuyên khác phải thực hiện theo dự toán quý được đơn vị dự toán cấp I giao
cùng với giao dự toán năm.
Ngoài ra, đối với những khoản chi cho công việc cần phải đấu thầu thì còn phải tổ
chức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu (Khoản 2 Điều 5 Luật NSNN 2002).
Như vậy, pháp luật quy định cụ thể điều kiện chi Ngân sách nhà nước đã tạo điều kiện
cho các đơn vị sử dụng ngân sách, cơ quan tài chính, cơ quan kho bạc có đủ căn cứ pháp lý
để chấp hành chi. Theo đó, nếu đề nghị của các đơn vị sử dụng ngân sách không đáp ứng
các điều kiện nêu trên, cơ quan Kho bạc nhà nước được quyền từ chối chi trả.
5. Các quy định về kiểm soát chi ngân sách nhà nước
Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước là thẩm định và kiểm tra các khỏa chi Ngân sách
nhà nước theo đúng chế độ chi ngân sách và theo dự toán chi tiêu đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thông qua2. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì:
- Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, các
địa phương. Theo đó:
+ Các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương lập dự toán chi Ngân sách nhà
nước hằng năm gửi cơ quan tài chính phân phối hạn mức kinh phí quý cho các đơn vị trực
thuộc;

+ Cơ quan tài chính lập và tổng hợp dự toán chi Ngân sách nhà nước của các bộ,
ngành, địa phương; thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng Ngân
sách nhà nước; Kiểm tra mục đích, tính chất của từng khoản chi, kiểm tra điều kiện chi
trước khi ra lệnh xuất quỹ;
+ Kho bạc nhà nước kiểm tra hồ sơ chi của đơn vị sử dụng Ngân sách nhà nước.
- Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước được tiến hành trong suốt quá trình chi.
+ Kiểm soát trước khi chi (kiểm tra, xác nhận chi) là việc kiểm tra, kiểm soát của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về các điều kiện chi trước khi thực hiện việc thanh toán, chi
trả từ quỹ Ngân sách nhà nước cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí.
+ Kiểm soát trong khi chi là quá trình kiểm soát việc thanh toán các khoản chi của
Ngân sách nhà nước cho các đơn vị thụ hưởng. Đây là bước xác định phương thức cấp
phát, thanh toán, đơn vị thụ hưởng Ngân sách nhà nước được hưởng phương thức chi nào.
+ Kiểm soát sau khi chi là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra trình hình
sử dụng kinh phí Ngân sách nhà nước của các cơ quan, đơn vị sử dụng Ngân sách nhà
nước thông qua các báo cáo kế toán, quyết toán. Việc kiểm soát sau khi chi nhằm chấn
2

Theo trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước, Hà Nôi 2010

3


chỉnh việc sử dụng kinh phí của các đơn vị sử dụng ngân sách đảm bảo việc sử dụng đúng
mục đích đồng thời ngăn chặn tham ô, lãng phí làm thất thoát tài sản của nhà nước.
- Kiểm soát chi Ngân sách nhà nước được tiến hành trong quá trình hạch toán kế
toán và báo cáo chi Ngân sách nhà nước.
Căn cứ vào chế độ hạch toán nhà nước hiện hành Kho bạc nhà nước tổ chức thực hiện
hạch toán kế toán chi Ngân sách nhà nước.
Định kỳ tháng, quý, năm các đơn vị sử dụng Ngân sách nhà nước lập báo cáo tình
hình thực hiện dự toán chi ngân sách đã được giao có xác nhận của Kho bạc nhà nước nơi

giao dịch để gửi cơ quan chủ quản tổng hợp gửi cơ quan tài chính đồng cấp.
Kho bạc nhà nước cũng lập báo cáo chi Ngân sách nhà nước theo định kỳ quỹ, tháng,
năm gửi cơ quan tài chính đồng cấp và Kho bạc nhà nước cấp trên. Kho bạc nhà nước
trung ương sẽ tổng hợp báo cáo chi Ngân sách nhà nước gửi bộ tài chính.
Thông qua việc hạch toán kế toán chi Ngân sách nhà nước việc xác nhận và báo cáo
thực hiện dự toán chi của các đơn vị sử dụng ngân sách cũng như thong qua việc lập báo
cáo chi Ngân sách nhà nước, Kho bạc nhà nước có thể tiến hành kiểm soát một lần nữa
những khoản cấp phát, thanh toán từ quỹ Ngân sách nhà nước. Để đảm bảo tính đúng đắn
và hợp pháp báo cáo chi Ngân sách nhà nước còn được kiểm soát lần cuối bởi kiểm toán
nhà nước khi các cơ quan này tiến hành rà soát báo cáo quyết toán Ngân sách nhà nước các
cấp trước khi trình Quốc hội phê chuẩn.
II. Tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước
Từ những phân tích trên có thể thấy chi ngân sách nhà nước là một hoạt động đã được
quy định khá cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, việc tuân thủ những quy định này trên thực tế lại
là một vấn đề khá phức tạp. Để đánh giá tính hiệu quả của một hoạt động chi ngân sách,
theo ý kiến chủ quan của nhóm chúng tôi, ta cần xem xét những khía cạnh chủ yếu như:
Hoạt động chi ngân sách đã được kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn tình trạng thất thoát hay
chưa? Hoạt động cấp phát ngân sách của các chủ thể có thẩm quyền đã đảm bảo được tính
nhanh chóng, đáp ứng kịp thời những nhu cầu sử dụng ngân sách của các đơn vị sử dụng
ngân sách hay chưa? Và một lần nữa, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong quá
trình chi ngân sách.
Căn cứ theo khoản 2, Điều 2, Luật Ngân sách nhà nước thì chi ngân sách nhà nước
bao gồm các khoản chi sau: chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ và các
khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước thể hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị
và xã hội mà nhà nước phải gánh vác trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng thời là căn cứ để
đánh giá tính tích cực, tiến bộ của ngân sách từng quốc gia.
Để có một cái nhìn khái quát về hoạt động chấp hành ngân sách nói chung và hoạt
động chi ngân sách nói riêng, nhóm tôi xin đưa ra Bảng dự toán cân đối ngân sách Nhà

nước năm 2011.
CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 20113
(Kèm theo Quyết định số 3212 /QĐ-BTC ngày 08/12/2010
3

/>
4


của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán NSNN năm
2011)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
STT
A
1

Chỉ tiêu

Dự toán năm 2011

TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
Thu nội địa

595,000
382,000

2

Thu từ dầu thô


69,300

3

Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu

138,700

4
B
C
1

Thu viện trợ không hoàn lại
THU CHUYỂN NGUỒN NGÂN SÁCH
TRUNG ƯƠNG NĂM 2010 CHUYỂN SANG
NĂM 2011
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC
Chi đầu tư phát triển

5,000
10,000
725,600
152,000

2

Chi trả nợ và viện trợ


86,000

3

Chi thường xuyên

442,100

4

Chi cải cách tiền lương

27,000

5

Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính

100

6

Dự phòng

18,400

D

BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC


120,600

E

Tỷ lệ bội chi so GDP
NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC
Vay trong nước

1
2

Vay ngoài nước

5.3%
120,600
92,600
28,000

Theo đó, dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011 là 595.000 tỷ đồng, tăng 12,7%
so với ước thực hiện năm 20104. Trong đó thu nội địa từ hoạt động sản xuất – kinh doanh
(không kể tiền thu sử dụng dất): 352.000 tỷ đồng, tăng 19,3% so ước thực hiện năm 2010.
Thu dầu thô: dự kiến đạt 69.300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng đạt 14,02 triệu tấn,
4

Xem phụ lục 1. Nguồn:
/>
5



giá bình quân đạt 77 USD/thùng. Thu viện trợ không hoàn lại: 5.000 tỷ đồng, bằng dự toán
năm 2010.
Tổng hợp chung, dự toán thu cân đối ngân sách Nhà nước năm 2011 là 595.000 tỷ
đồng, tăng 12,7% so ước thực hiện năm 2010. Về cơ cấu thu tiếp tục chuyển biến tích cực:
năm 2011, dự toán thu nội đia chiếm 64,2% tổng thu ngân sách Nhà nước (ước thực hiện
năm 2010 là 62,5%), qua đó góp phần tăng tính ổn định và bền vững của ngân sách Nhà
nước.
Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2011 là 725.600 tỷ đồng. Trong đó chi đầu tư
phát triển là 152.000 tỷ đồng, tăng 21,1% (26.500 tỷ đồng) so dự toán năm 2010, chiếm
20,9% tổng chi ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội và
phát triển kinh tế.
Dự toán chi trả nợ, viện trợ: bố trí 86.00 tỷ đồng, tăng 22,4% so dự toán năm 2010,
chiếm 11,9% tổng chi ngân sách nhà nước để đảm bảo chi trả các khoản nợ trong và ngoài
nước đến hạn.
Dự toán chi thường xuyên là 442.100 tỷ đồng, tăng 18,1% so với dự toán năm 2010,
chiếm 60,9% tổng chi ngân sách nhà nước, kể cả chi điều chỉnh tiền lương trong năm 2011
thì chiếm 64,6% tổng chi ngân sách nhà nước.
Dự phòng ngân sách nhà nước: bố trí 18.400 tỷ đồng, bằng 2,6% tổng chi ngân sách
nhà nước.
Để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khả năng trả nợ trong năm tới,
Chính phủ đã trình Quốc hội quyết đinh mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 là
120.600 tỷ đồng,bằng 5,3%GDP.
Như vậy qua một số kết quả đạt được trong vấn đề chi ngân sách nhà nước đã cho
thấy chi ngân sách nhân sách nhà nước đã từng bước được cơ cấu lại theo xu hướng xóa bỏ
bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư phát triển xã hội và
cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và
nông thôn, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản lí, đảm bảo chi ngân sách nhà nước
ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu quả. Ủy ban tổ chức ngân sách nhất trí với chính phủ về
việc tái cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng: ưu tiên đầu tư cho con người và

thực hiện chính sách an sinh xã hội; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong tình
hình mới, năng cao hiệu quả và chất lượng của chi đầu tư phát triển; tiếp tục thực hiện
giảm chi tiêu công ở mức hợp lí để góp phần kiềm chế lạm phát; phấn đấu đưa lạm phát về
mực một con số như mục tiêu đã đề ra. Đa số các ý kiến trong ủy ban ngân sách tài chính
đều tán thành với chính phủ mức bội chi ngân sách nhà nước là 140.200 tỷ đồng, bằng 4,8
GDP điều này sẽ góp phần kiềm chế lạm phát.
Để hiểu rõ hơn về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về hoạt động chi
ngân sách nhà nước, nhóm chúng em xin đưa ra một ví dụ cụ thể. Đó là dự án đường
cao tốc Láng – Hòa Lạc5.
Đường cao tốc Láng – Hòa Lạc hay Đại lộ Thăng Long là tuyến đường cao tốc nối
trung tâm Hà Nội với quốc lộ 21A, điểm đầu của đường Hồ Chí Minh. Sau đây là một số
thông tin cơ bản về công trình này:
- Thời gian khởi công – hoàn thành: 2005 – 2010.
5

/>
6


- Quy mô dự án: chiều dài là 30.169 km, bề rộng mặt cắt ngang tuyến đường là 140
km.
- Tổng mức đầu tư: trên 7.527 tỷ đồng (vốn đầu tư xác định ban đầu là 3.733 tỷ đồng).
- Hình thức đầu tư: đầu tư mới.
- Chủ đầu tư: Bộ Giao thông vận tải
- Nhà đầu tư (Tổng thầu xây lắp): Tổng công ty VINACONEX
- Quản lý thực hiện dự án: Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng mở rộng đường Láng –
Hòa Lạc.
- Tư vấn thiết kế: Tổng công ty Tư vấn thiết kế Giao thông vận tải (TEDI).
Tính hiệu quả của việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước thể hiện
qua dự án đường cao tốc Láng – Hòa Lạc:

Thứ nhất, về tính hiệu quả trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật về chi ngân
sách nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền thực hiện hoạt động quản lý, cấp phát thanh
toán các khoản chi ngân sách nhà nước, có thể thấy, các chủ thể này đã thực hiện khá tốt
những nhiệm vụ đặt ra. Cụ thể, ngay từ những bước ban đầu, Chính phủ đã xác định được
chi dự án xây dựng đường Láng – Hòa Lạc là vô cùng cần thiết, phục vụ trực tiếp cho hoạt
động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Dự án hoàn thành sẽ góp phần phát triển đô thị và
kinh tế cho Hà Nội, tạo đà phát triển kinh tế cho cả vùng Tây bắc của Tổ quốc. Đây chính
là mục tiêu của Đảng và nhà nước ta, góp phần phát triển kinh tế một cách toàn diện. Thực
tế, sau khi con đường được đưa vào ứng dụng đã giải quyết được vấn đề hiện đại hóa giao
thông của nước ta, công trình cũng thể hiện được món quà của đất nước mừng Thủ đô tròn
1000 năm tuổi.
Theo tinh thần đó, quá trình lên kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng
đường cao tốc Láng – Hòa Lạc cũng cho thấy các chủ thể trách nhiệm đã cân nhắc khả
năng huy động các nguồn vốn khác, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Cụ thể,
dự án được sử dụng từ hai nguồn vốn chính là vốn từ khai thác quỹ đất và vốn từ ngân sách
nhà nước. Ngoài ra, công trình cũng đã huy động được một số vốn đáng kể từ nguồn đóng
góp của các doanh nghiệp, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên mục đích phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nâng cấp và cải thiện hệ thống
giao thông trên địa bàn Thủ đô, chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long nói riêng, chủ thể
có thẩm quyền trong việc cấp phát kinh phí ngân sách nhà nước đã thực hiện hoạt động cấp
phát kịp thời, đảm bảo công trình được khởi công đúng tiến độ, không gây khó khăn, ảnh
hưởng cho hoạt động thi công của đơn vị sử dụng ngân sách.
Thứ hai, về tính hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật về chi ngân sách nhà nước của
các đơn vị sử dụng ngân sách, hoạt động các đơn vị này cũng tỏ ra khá hiệu quả. X ác định
rõ đây là công trình trọng điểm có ý nghĩa về các mặt kinh tế - chính trị - xã hội, ngay từ
những ngày đầu của năm, trên công trường, đại diện các đơn vị tham gia dự án là chủ đầu
tư (Ban quản lý dự án Thăng Long), tư vấn thiết kế (Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao
thông vận tải - TEDI), tư vấn giám sát (Viện Khoa học công nghệ giao thông vận tải), tổng
thầu xây lắp (Tổng công ty CP Xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam - Vinaconex) đã ký

kết giao ước thi đua phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch, tạo đà cho công tác hoàn
thành toàn bộ dự án theo yêu cầu của Chính phủ. Theo đó, nhà thầu đã huy động tối đa vật
tư, thiết bị, nhân lực để thực hiện dự án. Đặc biệt, công tác vệ sinh môi trường và đảm bảo
7


an toàn giao thông được nghiêm túc thực hiện. Các chủ thể còn lại cũng tích cực tiến hành
các hoạt động cần thiết nhằm nâng cao chất lượng công trình cũng như đảm bảo dự án
hoàn thành đúng tiến độ được giao.
Thứ ba, vai trò kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án đường cao tốc Láng – Hòa Lạc
được thể hiện rất rõ trong hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, Chính phủ đã quan tâm,
theo dõi sát sao hoạt động của các đơn vị sử dụng ngân sách. Phó Thủ tướng Hoàng Trung
Hải đã trực tiếp đi kiểm tra tình hình thực hiện dự án và chỉ đạo các biện pháp nhằm đảm
bảo tiến độ một trong những công trình trọng điểm chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội6. Về thủ tục, Chính phủ yêu cầu Bộ Giao thông vận tải ban hành đơn giá
vật liệu xây dựng, tổng dự toán điều chỉnh của dự án đồng thời đẩy nhanh nghiệm thu
thanh toán khối lượng hoàn thành. Bên cạnh đó, UBND thành phố Hà Nội và UBND tỉnh
Hà Tây cũng đã thể hiện vai trò tích cực trong việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện ngân
sách đã được phân phối ngay từ những giai đoạn đầu của dự án, bảo đảm ngân sách được
sử dụng hợp lý, hiệu quả, hạn chế tối đa tình trạng chủ thầu phân phối ngân sách một cách
bừa bãi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và tiến độ của công trình.
Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu quả đã đạt được, việc thực hiện công trình xây
dựng đường cao tốc Láng – Hòa Lạc còn tồn tại một số hạn chế như:
- Về vốn đầu tư, đây là vấn đề khá nổi cộm khi nhắc đến dự án khồng lồ này. Như trên
chúng ta đã nói, vốn đầu tư của công trình này ban đầu được thông qua là 3.733 tỉ đồng,
tuy nhiên, khi đi vào thi công, với nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà
vốn đầu tư ngày càng tăng dần và lên tới con số là 7.5277 tỉ đồng.
- Về tiến độ, như chúng ta đã nói, đây là công trình khổng lồ nên nó không tránh khỏi
những sai sót, trong đó không thể không nhắc tới vấn đề tiến độ công trình. Khởi công

ngày 20/3/2005, dự án mở rộng và hoàn thiện đường Láng - Hòa Lạc kéo dài hơn 3 năm
mà khối lượng hoàn thành mới chỉ được 40% 8. Tổng thời gian thi công dự tính là 30 tháng
mà thực tế là kéo dài hơn 5 năm.
III . Đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về chi ngân sách nhà
nước và phương hướng hoàn thiện pháp luật
1. Những thành tựu đã đạt được
Việc các đơn vị sử dụng ngân sách có tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt
động chi ngân sách nhà nước hay không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chi ngân sách
nhà nước. Nhìn chung hoạt động chi ngân sách nhà nước tương đối bảo đảm các điều kiện
cơ bản của chi ngân sách nhà nước, trong thời gian gần đây nền kinh tế Việt Nam có nhiều
vấn đề nổi cộm: chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát ở mức cao; lãi suất, tỉ giá biến động mạnh;
thị trường vàng, ngoại tệ diễn biến phức tạp, làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô,
gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân,
tác động không tốt đến tâm lí xã hội. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của cơ quan có thẩm
quyền trong việc tuân thủ các quy định về chi ngân sách nhà nước , công tác điều hành chi
ngân sách nhà nước năm qua đã đảm bảo theo đúng chủ trương thắt chặt chi tiêu để kiềm
6

/>%2Ftaisancong.mof.gov.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fcqlcs
%2F3227578&p_itemid=4482994&p_siteid=33&p_persid=3326059&p_language=vi
7
/>8
/>
8


chế lạm phát, tập trung nguồn lực ngân sách để chủ động phong chống, khắc phục hậu quả
thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo, đối tượng trợ
cấp xã hội, khắc phục một phần khó khăn do ảnh hưởng của tăng giá... Chi ngân sách nhà
nước đã từng bước được cơ cấu lại theo xu hướng xóa bỏ bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ,

tự chịu trách nhiệm, tăng cho đầu tư phát triển xã hội và cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn
nhân lực, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường,
nâng cao năng lực quản lí, đảm bảo chi ngân sách nhà nước ngày càng tiết kiệm và đạt hiệu
quả, chi thường xuyên của ngân sách được cân đối từ tổng số thu thuế, phí và lệ phí. Bên
cạnh đó chúng ta cũng đang từng bước hoàn thiện chế độ chi ngân sách nhà nước, đổi mới
quản lý tài chính trong các đơn vị sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước…
Ủy ban tổ chức ngân sách nhất trí với chính phủ về việc tái cơ cấu lại chi ngân sách
nhà nước theo hướng: ưu tiên đầu tư cho con người và thực hiện chính sách an sinh xã hội;
tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, năng cao hiệu quả và chất
lượng của chi đầu tư phát triển; tiếp tục thực hiện giảm chi tiêu công ở mức hợp lí để góp
phần kiềm chế lạm phát; phấn đấu đưa lạm phát về mực một con số như mục tiêu đã đề ra.
Đa số các ý kiến trong ủy ban ngân sách tài chính đều tán thành với chính phủ mức bội chi
ngân sách nhà nước là 140.200 tỷ đồng, bằng 4,8 GDP điều này sẽ góp phần kiềm chế lạm
phát và ổn định kinh tế.
2. Những điểm bất cập và nguyên nhân:
Dù đã có rất nhiều nỗ lực của các cơ quan có thẩm quyền trong việc đôn đốc các đơn
vị sử dụng ngân sách chấp hành các quy định pháp luật trong quá trình chi ngân sách nhà
nước nhưng trên thực tế vẫn còn nững bất cập theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính
- Ngân sách Quốc hội về kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011 do Chủ nhiệm
Ủy ban Phùng Quốc Hiển trình bày trước Quốc hội cho thấy công tác ngân sách năm 2011
đã bộc lộ khá nhiều những bất cập:
Một là, về việc thực hiện dự toán chi ngân sách nhà nước, Ủy ban Tài chính - Ngân
sách nhìn nhận, mặc dù nghị quyết 11 của Chính phủ tập trung vào việc cắt giảm chi tiêu
công, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên, nhưng tổng số chi ngân sách vẫn vượt dự toán
9,7%. Đây là mức tăng khá lớn. Nhiều ý kiến trong Ủy ban Tài chính cho rằng, mức tăng
chi trên chưa thể hiện vai trò tích cực của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô. Chi đầu tư phát triển vẫn vượt dự toán và tăng 15,1% (23.000 tỷ
đồng) là mức tăng khá cao, nếu đặt trong bối cảnh đang thực hiện chính sách tài khóa thắt
chặt, giảm đầu tư công thì việc tăng chi nói trên là chưa hợp lý. Khái quát chung về chính
sách chi ngân sách nhà nước năm 2011, Ủy ban đúc kết: chưa thay đổi tích cực về cơ cấu,

chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tái cơ cấu nền kinh tế; tình trạng bình quân, dàn trải,
chia cắt và thiếu tập trung vẫn chưa được cải thiện; công tác xã hội hóa còn hạn chế, gánh
nặng ngân sách ngày một gia tăng.
Mặt khác, việc thực hiện chính sách chi chưa chặt chẽ, chi ngân sách tăng khá cao so
với dự toán chưa góp phần vào mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Việc
chấp hành kỉ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội
địa và thuế xuất nhập khẩu còn lớn. Số nợ thuế chờ xử lí (chiếm 20% tổng số nợ thuế) tăng
khá nhiều. Bội chi ngân sách vẫn còn cao và là một trong những nhân tố góp phần làm gia
tăng lạm phát. Điều này cũng cảnh báo độ an toàn của ngân sách trong các năm tiếp theo
9


nếu như không chủ động có các biện pháp cải cách để tạo nền tảng tăng nguồn thu cũng
như tăng cường kỷ luật cho ngân sách.
Hai là, Qua thẩm tra báo cáo của Chính phủ, Ủy ban cũng nhận thấy, việc rà soát, cắt
giảm, đình hoãn các dự án khởi công mới chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa khắc phục
được tình trạng phân bổ dàn trải. Các công trình trọng điểm, dự án chuyển tiếp chưa thực
sự được ưu tiên bố trí vốn để sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả, trong
khi nhiều dự án mới chưa thật sự cấp bách vẫn được khởi công, thể hiện chưa thực hiện
nghiêm Nghị quyết số 11 của Chính phủ. Các dự án cắt giảm chủ yếu là các dự án chuẩn bị
đầu tư hoặc mới khởi công; các dự án chưa thực sự cấp bách, hoặc hiệu quả kinh tế thấp
chưa được cắt giảm nhiều.
Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về chi
ngân sách còn chưa thực sự đạt hiệu quả. Tình trạng “khép kín” trong quá trình thực hiện
đầu tư dự án trong cùng một bộ, ngành như hiện nay đã cản trở công tác thanh tra, kiểm tra
của Nhà nước và các cơ quan chức năng dẫn đến khó phát hiện các biểu hiện lãng phí, thất
thoát, khi phát hiện thì khó xử lý. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm định chưa được tiến
hành thường xuyên nhằm phát hiện và ngăn chặn lãng phí, thất thoát từ khi còn là những
biểu hiện tiềm ẩn. Khi phát hiện có sai sót không xử lý nghiêm, dứt điểm.
Bốn là, năng lực của tổ chức, cá nhân trong hoạt động sử dụng ngân sách còn chưa

được đảm bảo. Đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, năng lực của các chủ thể tham gia như
Ban quản lý dự án, tư vấn, nhà thầu chưa tương xứng với nhiệm vụ công việc thực hiện, có
trường hợp thầy giáo, bác sĩ không có chuyên môn quản lý cũng làm trưởng ban quản lý dự
án. Tổ chức tư vấn không có năng 1ực vẫn tham gia các dự án có quy mô lớn. ý thức chấp
hành kỉ cương, kỉ luật, thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng ở các khâu bố trí kế
hoạch vốn, lập, thẩm định, phê duyệt dự án; thiết kế kĩ thuật - tổng dự toán; đấu thầu; thi
công xây dựng, nghiệm thu, thanh toán, quyết toán còn bị buông lỏng.
Theo đó, Chính phủ cần điều hành chủ động, phản ứng linh hoạt, kiểm soát chặt chẽ
chi tiêu công để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tránh tình trạng lạm phát hai con số như
năm 2010 làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
Những bất cập trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, tính tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng ngân sách là yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động chi ngân sách nhà nước. Các đơn vị sử dụng ngân sách khi
nhận được nguồn kinh phí thường không quan tâm đúng mức đến việc thực hiện nhiệm vụ
được giao và luôn tìm mọi cách để nâng cao dự toán chỉ để có thể sử dụng ngân sách một
cách thoải mái.
Thứ hai, nguyên tắc lập dự toán từ dưới lên không được bảo đảm. Điều kiện thứ nhất
của chi ngân sách ngân sách nhà nước là phải có trong dự toán ngân sách đã được giao do
quốc hội quyết định. Tuy nhiên, để có một bản dự toán trình lên quốc hội, quá trình lập dự
toán phải đi từ dưới lên, từ đơn vị lập dự toán nhỏ nhất. Nhưng nhiều khi trong bản dự toán
chi ngân sách trên địa bàn là do sở tài chính lập thay. Điều đó dẫn đến tình trạng lập dự
toán không chính xác, không sát vơi nhu cầu thực tiến trên địa bàn.
Thứ ba, việc phê chuẩn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường mang tính
hình thức và thiếu chi tiết, hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi còn lạc hậu và không
thống nhất, gây khó khăn cho việc tuân thủ các điều kiện chi ngân sách ngân sách nhà
nước đã được pháp luật quy định.
10


Thực trạng trên còn do hiệu lực quản lý, điều hành chưa nghiêm, kỷ luật tài chính còn

lỏng lẻo và thiếu đồng bộ. Quy mô của nền kinh tế cũng có tác động nhất định đến việc
đảm bảo chi ngân sách nhà nước, quy mô ngân sách cũng phải lớn lên và tiềm ẩn rủi ro
trong các khoản chi như tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng.
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chi ngân sách nhà nước
- Hoàn thiện pháp luật về quy trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà nước.
Đây là ba khâu quan trọng trong quá trinh ngân sách nhà nước. Luật ngân sách nhà nước
đã có những quy định rõ ràng về thời hạn, yêu cầu, nội dung và các trình tự thủ tục lập dự
toán ngân sách. Tuy nhiên trên thực tế còn nhiều bất cập về quy trình lập dụ toán ngân sách
nhà nước.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp lập dự toán ngân sách để tránh tình trạng
thẩm quyền nơi thì thiếu nơi thì chồng chéo.
- Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách nhà nước sao cho phù hợp, kịp thời với tình hình
kinh- xã hội. Trong những năm gần đây chi đầu tư có xu huống tăng, tuy nhiên chi đầu tư
phát triển kinh tế phải là số chi đầu tư huy động trong toàn xã hội, không thể lấy từ ngân
sách nhà nước. Chi ngân sách phải được thực hiện theo quan điểm phải gắn với việc xây
dựng đúng cơ cấu chi tối ưu, có tỉ trọng hợp lí giữa chi đầu tư phát triển thường xuyên, chi
trả nợ, chi dự phòng...
- Cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi chặt chẽ để các chủ thể sử dụng ngân sách chấp
hành nghiêm túc các điều kiện chi trong hoạt động chi ngân sách. Có chế tài tương xứng
với những đơn vị sử dụng ngân sách không chấp hành các tốt các quy định về chi ngân
sách.
Nâng cao mức độ tham gia, kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hoạt động chi ngân
sách để các đơn vị sử dụng ngân sách có ý thức hơn trong việc sử dụng nguồn vốn được
cấp đảm bảo các điều kiện chi theo đúng quy định của pháp luật.
- Cải thiện việc ghi chép, báo cáo số liệu và tăng cường minh bạch tài chính: Muốn
thu được kết quả tốt nhất từ chi tiêu công cần phải có các thông tin đầy đủ và đáng tin cậy
về các chi tiêu nay cũng như khả năng tiếp cận chúng. Các khoản chi từ NSNN cần phải
được ghi chép và báo cáo một cách chính xác bởi các đơn vị hưởng thụ Ngân sách. Các
thông tin đầy đủ về Ngân Sách cũng cần phải công bố để cho giới kinh doanh và các công
dân Việt Nam biết và hiểu các nguồn lực công cộng đã, đang và sẽ được sử dụng như thế

nào. Phải tiếp tục cải thiện việc báo cáo số liệu Ngân sách và tạo khả năng cho các cơ quan
chính phủ và công chúng tiếp cận được các số liệu này. Chính phủ nên để cho các tổ chức,
doanh nghiệp tự quản và chỉ hạch toán vào chi ngân sách các khoản mà ngân sách thực
phải chi theo như thông lệ quốc tế. Làm như vậy sẽ rõ ràng hơn, và quan trọng là các đơn
vị đó tự chủ hơn, nhà nước biết rõ nghĩa vụ chi của mình và rất minh bạch.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động thu – chi NSNN, kịp thời phát
hiện các sai phạm để sửa đổi, không gây thất thoát tiền của của Nhà nước.
- Sắp xếp thứ tự ưu tiên chi tiêu một cách có hiệu quả: Cần thiết lập một quy trình
Ngân sách chính thức để gắn tốt hơn chi thường xuyên với đầu tư và thúc đẩy việc lập thứ
tự ưu tiên nhằm tối đa hóa tác động lên tăng trưởng và giảm nghèo. Việc này bao gồm các
bộ ngành và các địa phương trình bản kế hoạch tổng hợp các khoản chi đầu tư và chi
thương xuyên cho Bộ tài chính lẫn Bộ kế hoạch và đầu tư , sau đó tất cả thảo luận để đưa
ra phương án hợp lý nhất. Củng cố quy trình đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư của Bộ
11


kế hoạch và đầu tư. Áp dụng các tiêu chí đánh giá chặc chẽ hơn nhằm phân loại tốt các dự
án cần được cấp Ngân sách gấp với các dự án có thể để lại, thực hiện sau.

KẾT LUẬN
Qua 6 năm tổ chức thực hiện, Luật Ngân sách nhà nước đã phát huy được những mặt
tích cực, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước, góp phần quan
trọng và những thành công trong quá trình điều hành ngân sách và tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên trong thực hiện Luật Ngân sách nhà nước cũng bộc lộ những vấn đề cần trao đổi,
thảo luận để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đủ mạnh, tăng cường hiệu
quả quản lý và sử dụng các nguồn lực của Ngân sách nhà nước và phù hợp với điều kiện
phát triển trong giai đoạn mới. Trên đây là bài phân tích của nhóm chúng tôi.

12



PHỤ LỤC:
1. Phụ lục số 01/CKTC-NSNN
CÂN ĐỐI DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2010
(Kèm theo Quyết định số 3234/QĐ-BTC ngày 21/12/2009
của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc công bố công khai số liệu dự toán NSNN năm 2010)
STT
A
1
2
3
4
B
C
1
2
3
4
5
6
D

Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
Thu nội địa
Thu từ dầu thô
Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu
Thu viện trợ không hoàn lại
Thu kết chuyển từ năm trước sang

Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước
Chi đầu tư phát triển
Chi trả nợ và viện trợ
Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, quản lý hành chính
Chi cải cách tiền lương
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
Dự phòng
Bội chi ngân sách nhà nước
Tỷ lệ bội chi so GDP
Nguồn bù đắp bội chi ngân sách nhà nước
Vay trong nước
Vay ngoài nước

Dự toán
Năm 2010
461,500
294,700
66,300
95,500
5,000
1,000
582,200
125,500
70,250
335,560
35,490
100
15,300
119,700

6.20%
119,700
98,700
21,000

E
1
2
Nguồn:
/>0/15237206?p_folder_id=15237279&p_recurrent_news_id=15240150

13


14



×