Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 17 trang )

Đề tài “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ
yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thuế và Nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn luôn đi cùng nhau, chi phối
lẫn nhau, nên thuế đượcu hiểu vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của
Nhà nước và bộ máy nhà nước, mặt khác thuế lại được nhà nước sử dụng như là
loại công cụ để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu nhất định. Bất kỳ quốc gia nào nói
chung và ở nước ta nói riêng nguồn thu ngân sách chủ yếu là từ thuế, thuế có
tính bắt buộc trên cả nước đối với tổ chức, cá nhân dù trực tiếp hay gián tiếp
đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Vậy, để quản lý và duy
trì Nhà nước phải có những quy định cụ thể đó là pháp luật thuế. Pháp luật thuế
là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy
pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai
trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với
sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế
đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ lí do đó, em đã chọn đề tài “Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta
hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế, kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế:
1. Khái niệm thuế:
Thuế là một khoản đóng góp (hay thu nộp) mang tính bắt buộc mà Nhà nước
1


quy định thành luật để mọi tổ chức kinh tế và cá nhân phải nộp cho Nhà nước


khi có đủ những điều kiện nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu chi tiêu công
cộng.
2. Đặc điểm của thuế:
- Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc
của thuế được thể hiện ở chỗ: Đối với người nộp thuế, đó là nghĩa vụ chuyển
giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định mà không
phải là quan hệ thanh toán dù trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Đối với các
cơ quan thu thuế, khi thay mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng
không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thế, có sự
phân biệt đối xử đối với người nộp thuế.
- Thứ hai, thuế mang tính quyền lực và tính cưỡng chế. Thuế xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho
nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Thuế là biện pháp
chủ yếu để nhà nước điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế. Bằng quyền lực
chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của các đối tượng
nộp thuế. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Để gắn được yếu tố quyền lực nhà nước
cho thuế, các quốc gia đều có xu hướng ghi nhận thuế ở văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao nhất là các luật thuế. Trong chế độ dân chủ thì thuế do cơ
quan quyền lực tối cao quyết định đó là Quốc hội. Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Quốc hội có nhiệm vụ và quyền
hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các luật thuế” (Điều 84).
- Thứ ba, thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Nộp thuế
là một nghĩa vụ xã hội mà công dân không có quyền trốn tránh và cũng không
có quyền đòi hỏi trao đổi ngang giá (đối giá trực tiếp). Số tiền thuế mà các cá
nhân và tổ chức kinh tế phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các
dịch vụ công cộng do Nhà nước cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả
năng thu thuế.
2



- Thứ tư, thuế mang tính chi tiêu cho lợi ích công cộng. Đặc điểm này làm
giảm ý niệm cưỡng bức của thuế. Tổng thu nhập từ thuế Nhà nước chỉ chi một
phần cho quản lý hành chính, đại bộ phận số thu nhập còn lại được chuyển giao
cho dân chúng thông qua các hoạt động sự nghiệp và phúc lợi công cộng như:
văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, thông tin, thể thao, bảo vệ môi
trường, bảo trợ xã hội…
3. Pháp luật thuế và hệ thống pháp luật về thuế:
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu cho ngân sách nhà nước
để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Nội dung của pháp luật thuế thì có hai nội dung, thứ nhất, gồm những quy
phạm pháp luật định nên những nội dung cơ bản của sắc thuế, như quy định đối
tượng nộp thuế; đối tượng chịu thuế; cơ sở tính thuế; mức thuế (thuế suất). Thứ
hai, gồm nhóm quy định pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thu nộp thuế,
như quy định về thẩm quyền của cơ quan thu thuế; thủ tục kê khai nộp thuế;
thời hạn nộp thuế, miễn giảm thuế, khiếu nại, tố cáo; xử lý vi phạm…
Vì vậy, để điều chỉnh những quan hệ xã hội về thuế, Nhà nước ta đã ban
hành những văn bản luật và văn bản dưới luật như: Luật thuế giá trị gia tăng,
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Pháp lệnh thuế
tài nguyên,…
4. Kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Kinh tế thị trường theo em hiểu là nền kinh tế lấy khu vực kinh tế tư nhân
làm chủ đạo những quyết định kinh tế được thực hiện một cách phi tập trung
bởi các cá nhân người tiêu dùng và công ty. Việc đánh giá hàng hóa và phân bổ
các nguồn lực của nền kinh tế được cơ bản tiến hành theo quy luật cung – cầu.
Hội nhập quốc tế (mà cốt lõi là hội nhập kinh tế quốc tế) là một quá trình
hợp tác trên cơ sở có đi có lại, trong đó các quốc gia danh cho nhau sự đối xử

3


ưu đãi trên cơ sở tôn trọng, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế trọng tâm
của hội nhập là mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tạo điều kiện
kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với nước ngoài, mở rộng không gian
và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong
quan hệ kinh tế quốc tế.
II. Vai trò của pháp luật thuế:
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu,
đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước:
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các cá nhân và tổ chức trong xã hội. Việc các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng,
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước. Do đó, sự thay
đổi của các quy định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách.
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ
pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Theo kết quả
nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì thì nguồn thu từ
thuế chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước của các quốc gia. Ở Việt
Nam, cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở mỗi thời kỳ đều có những thay đổi, điều
chỉnh nhất định phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Trong giai
đoạn hiện nay, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu của ngân
sách nhà nước. Khoản thu từ thuế qua các năm đều cho thấy chiếm khoảng 90%
tổng thu ngân sách nhà nước bằng 15% - 16% GDP, phục vụ cho hàng loạt các
yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước và cho cộng đồng xã hội.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội
bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban

hành và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật về thuế một cách đầy đủ và triệt
để nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tập trung nguồn tài chính vào ngân
4


sách Nhà nước, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng.
Pháp luật thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Hiện nay nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển
thành có vay có trả. Qua đó có thể thấy pháp luật thuế là một công cụ quan
trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc
phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp
dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật thuế đã điều chỉnh được
hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập và mọi tiêu
dùng xã hội.
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô của
Nhà nước đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện đường lối kinh tế
- xã hội trong một thời kì nhất định:
Ngoài việc huy động nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước như đã
phân tích ở trên, pháp luật thuế còn có vai trò tích cực trong việc điều tiết vĩ mô
đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước thống
nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là
một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là
công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện
pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với
nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại
và vận động theo nhu cầu lợi ích của họ, điều này có thể tổn thương đến trật tự

xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn. Thông qua các
quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp
thuế, thuế suất, miễn giảm thuế... Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết
đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ, thông
5


qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu
ngành kinh tế mà không cần dùng tới các biện pháp can thiệp hành chính. Nhằm
thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế quy định những nội dung
khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế.
Điều này làm ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm thu nhập của các nhà đầu tư, từ
đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu
vực đầu tư khác. Ví dụ như, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức
suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập
đều có thể tác động đến các ngành nghề, qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối
giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều
chỉnh thu nhập trong trường hợp cần thiết. Ở nước ta, thông qua các quy định
của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung - cầu của nền kinh
tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu của nền kinh tế một cách
hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy
định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung - cầu của nền
kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh
tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động
đến các quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một
số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất
nhập khẩu...đối với việc sản xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó;
trong khi đó lại khuyến khích và tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp

cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy
định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa.
Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có
tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
6


Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, pháp luật
thuế còn khuyến khích đầu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao,
bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân…thông qua pháp
luật thuế Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu
kém về nhiều mặt nhằm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các
quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế
nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các
doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước
có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng,
sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh
cung - cầu và cơ cấu kinh tế.
Ngoài ra, ở Việt Nam bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã
hội, pháp luật thuế còn được nhà nước sử dụng như một công cụ chính sách thể
hiện chính sách xã hội. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu
nghèo, góp phần thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội. Bằng việc quy định

của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp của mỗi
cá thể đối với cộng đồng xã hội…
3.

Pháp luật thuế là công cụ để Nhà nước gián tiếp kiểm tra hoạt

động sản xuất kinh doanh:
Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công
cụ hữu hiệu trong việc quản lý các hoạt thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trò
tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế, về bản
7


chất là một quan hệ phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự thân nó là
mãnh đất màu mỡ là nảy sinh các hiện tượng xã hội tiêu cực làm phương hại
đến lợi ích chung của cộng đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật Nhà nước đưa ra các
“giới hạn hành lang”, thiết lập “các hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự
tự do trong khuôn khổ. Vượt ra ngoài khuôn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải
chịu các chế tài nghiêm khắc…do đó, thông qua pháp luật thuế để Nhà nước
gián tiếp kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì thế, để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế
cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải thực hiện và tuân thủ những quy định
gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh,
hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức,… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy
định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền
kinh tế, trên cơ sở đó hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù
hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp
hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Đồng thời, thông qua
hoạt động kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm

pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách
của đối tượng nộp thuế nói chung.
4. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội:
Hệ thống pháp luật thuế được áp dụng thống nhất chung cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng
và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp
nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những
điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của
8


pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải
sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt
xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế
làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở
chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước cviên trong xã hội. Sự
thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế
suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Mặt khác, kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó các quan hệ kinh
tế cần phải được tạo lập trong một môi trường cạnh tranh và bình đẳng. Ở nước
ta, với đường phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
kinh tế Nhà nước vẫn giữa vai trò chủ đạo, tuy nhiên nhà nước cũng đồng thời
thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các thành phần kinh tế tư bản, tư
nhân. Trong điều kiện của một nền kinh tế với đa hình thức sở hữu, đa thành
phần kinh tế, nhiệm vụ của nhà nước là phải tạo ra một môi trường pháp lý bình

đẳng trong cạnh tranh và kinh doanh của các loại chủ thể kinh tế.
Vì vậy, pháp luật thuế của nhà nước ta ra đời dã tạo ra những cơ sở pháp lý
quan trọng, thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phầnkinh tế tạo nên sự công
bằng trong xã hội góp phần vào sự phát triển của đất nước.
III. Thực trạng pháp luật thuế và các giải pháp chủ yếu để phát huy vai
trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế:
1. Thực trạng pháp luật thuế:
a. Những thành tựu đạt được:
- Đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế áp dụng đối với mọi thành
phần kinh tế thay thế các chế độ thu của cơ chế quan liêu bao cấp.
- Đã xây dựng được một hệ thống bộ máy tổ chức quản lý thuế thống
nhất trong cả nước ngày càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt.

9


- Xây dựng hàng loạt các quy trình và biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế
theo hướng chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế độ quản lý thuế
được tách thành ba bộ phận độc lập, và từng bước chuyển sang chế độ tự khai tự nộp thuế.
- Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường và đào tạo bồi dưỡng, nâng cao
kể cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức nghề
nghiệp (năm 1990 cán bộ có trình độ từ trung cáp trở lên chỉ chiếm 36% nhưng
đến năm 2008 đã lên tới 94,1%; cán bộ có trình độ đại học và trên đại học
chiếm tỷ lệ từ 10,5% năm 1990 lên đến 34,2% năm 2008).
- Công tác kiểm tra, thanh tra thuế đã được coi trọng, là một trong những
nhiệm vụ chủ yếu của công tác quản lý thuế.
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã được chú trọng
từng bước nhằm nâng cao tính tuân thủ tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của
tổ chức, cá nhân.

- Đã ứng dụng công nghệ thông tin vào nhiều khâu quản lý thuế, do đó đã
góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
b. Một số hạn chế, bất cập còn tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn quá trình thực hiện pháp
luật thuế trong những năm qua cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề cần phải được
xem xét, bổ sung, hoàn thiện nhằm phát huy vai trò của pháp luật thuế trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay của nước
ta. Điều này được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau:
• Về chính sách thuế:
- Chưa bao quát hết mọi nguồn thu trong nền kinh tế và tính thực thi, hiệu
quả của pháp luật thuế nhìn chung chưa cao, một số quy định gián tiếp làm phát
sinh các hiện tượng tiêu cực xã hội như các khe hở pháp lý dẫn đến hiện tượng
luồn lách, trốn thuế…
10


- Chưa khuyến khích và bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn sản xuất trong
nước.
- Trong từng sắc thuế hiện hành vẫn còn các quy định chưa thực sự đảm
bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và chưa bình đẳng giữa các đối thuế khác nhau.
- Chính sách thuế vẫn còn phức tạp, chồng chéo, thiếu hệ thống, chưa thể
hiện sự đơn giản, rõ ràng minh bạch, đồng thời thiếu ổn định cần thiết do
thường xuyên phải thay đổi để dáp ứng yêu cầu thực tế, một số sắc thuế còn
nhiều mức thuế suất, lồng ghép nhiều chính sách xã hội, nhiều mức miễn giảm
thuế làm hạn chế tính trung lập của thuế.
• Về quản lý thuế:
* Cơ chế quản lý thuế:
- Cơ chế quản lý thuế hiện hành chưa được xây dựng trên cơ sở đề cao
tính chủ động, nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải tự tính - tự
khai, tự nộp thuế vào Ngân sách nhà nước, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Biểu hiện:
+ Một thời gian dài chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tự giác tuân thủ
pháp luật của đối tượng nộp thuế.
+ Làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của người nộp thuế như:
tính toán xác định mức thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn, giảm
thuế….
Hậu quả là giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế; Nhiều vi
phạm về thuế là do thiếu hiểu biết gây ra, dẫn đến gánh nặng phải tăng cường
công tác quản lý thuế để khắc phục các sai phạm; lãnh phí nguồn nhân lực, tài
chính cho cơ quan thuế, cơ quan thuế kkhông đủ nhân lực và tài chính để thực
hiện các chức năng chủ yếu của mình như: tăng cường các hoạt động hỗ trợ,
tăng cường thanh tra, kiểm tra.
11


- Nghĩa vụ trách nhiệm pháp luật và quyền lợi của đối tượng nộp thuế, cơ
quan thuế và tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác thuế chưa được quy
định đầy đủ và thiếu nhất quán giữa các sắc thuế. Do đó chưa có đủ cơ sở pháp
lý để tổ chức quản lý thuế có hiệu quả.
- Một số quy định còn rườm rà phức tạp, chưa rõ ràng, minh bạch, gây
khó khăn tốn kém chi phí cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, dễ phát sinh
tiêu cực trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
- Chưa phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế tiên tiến trên khu vực và
thế giới.
* Môi trường pháp lý:
- Môi trường pháp lý kinh tế xã hội chưa được cải cách đồng bộ, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế như quản lý đăng ký kinh doanh, quản
lý đất đai, quản lý xuất nhập khẩu, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý thanh toán
bằng tiền mặt….

- Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ
bản chất và lợi ích của công tác thuê; chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành
vi gian lận về tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho cơ quan thuế để thu tiền thuế.
Tình trạng trốn thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm
thất thu cho ngân sách, vừa không đảm bảo công bằng xã hội.
c. Nguyên nhân chủ yếu.
- Chất lượng các văn bản pháp luật thuế còn nhiều bất cập, chưa linh hoạt
trong quá trình thực thi.
- Việc thực hiện các văn bản pháp luật thuế còn chưa nghiêm.
- Công tác quản lý thực hiện pháp luật thuế ở các ngành, các cấp, ở nhiều
cán bộ còn nhiều yếu kém.

12


- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá về pháp luật thuế chưa
được triển khai tốt. ở quan Nhà nước,các ngành,các cấp và địa phương.
2. Các giải pháp phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Việt Nam hiện nay đang trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, trong đó pháp luật thuế đóng vai trò rất lớn. Như vậy, để phát huy
vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện
nay cảu nước ta, cũng như đồng thời xuất phát từ những mặt hạn chế nêu trên,
em xin đưa ra một số giải pháp như sau:
- Thứ nhất, cải tiến và hoàn thiện chính sách thuế, hệ thống luật pháp nói
chung và luật thuế nói riêng. Một hệ thống pháp luật về thuế hoàn chỉnh sẽ tạo
cơ sở pháp lý vững chắc và ổn định cho nguồn thu vào ngân sách nhà nước,
đảm bảo chi tiêu cho các lợi ích công cộng và đảm bảo được công bằng xã hội,
tạo môi trường thuận lợi cho khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai, kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ, nghiệp vụ và nhận

thức của mỗi cán bộ thu thuế. Đồng thời, tăng cường thanh tra kiểm tra để phát
hiện và xử lý ngay các sai phạm.
Cơ quan thuế các cấp phải thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân
tích, dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn, làm rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy
giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế
giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách nhà nước của khối
doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn
đà suy giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.
Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các
ngành, các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị
trường, giá cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình

13


hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá
nhân đẩy manh hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế,
Công tác thanh tra, kiểm tra cần phải được đẩy mạnh và làm quyết liệt
hơn nữa trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát,
xử lý các khoản nợ đóng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý các
vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ
thuế, triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng. Tổng cục
thuế giao chỉ tiêu và biện pháp thu nợ cho từng Cục thuế để triển khai thực
hiện.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế để lựa chọn những đối
tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc
biệt tập trung vào các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn

trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có
dấu hiệu thất thu lớn. Tập trung tổng hợp rà soát các kết quả sau thanh tra để có
biện pháp xử lý, đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận
vào ngân sách nhà nước.
- Thứ ba, hệ thống hóa sổ sách chứng từ hoạt động kế toán kiểm toán theo
hướng đơn giản và nhất quán để tạo sự thuận lợi cho công tác quản lý, giúp cho
các tổ chức, cá nhân chịu thuế tránh được sự phiền hà khi làm các giấy tờ liên
quan đến nghĩa vụ nộp thuế của mình.
- Thư tư, Bộ tư pháp và bộ tài chính cần phối hợp tiến hành tổng ra soát lại
hệ thống các văn bản pháp quy hiện có để từ đó đánh giá sự đồng bộ và mức độ
tương tích của hệ thống pháp luật thuế nước ta trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế để từ đó có những quy định phù hợp trong
điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay đồng thời sữa đổi, bổ sung hoặc huy bỏ, thay
thay thế những quy định không còn phù hợp nữa để hệ thống pháp luật thuế
ngày càng hoàn thiện hơn góp phần vào sự phát triển của đất nước.
- Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích pháp luật và giáo
14


dục nhận thức của đối tượng chịu thuế kết hợp với quyền lợi và nghĩa vụ đóng
thuế. Vấn đề đặt ra là phải làm sao cho các đối tượng chịu thuế nhận thức được
rằng việc nộp thuế cho nhà nước không phải đơn thuần chỉ là nghĩa vụ mang
tính cưỡng chế, ép buộc mà đó còn là quyền của mỗi một công dân đóng góp
vào sự phát triển chung của đất nước, phục vụ cho các lợi ích của cả cộng đồng
xã hội.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Qua sự phân tích ở trên, ta có thể thấy bất kỳ Nhà nước có chủ quyền nào
cũng có quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực , Nhà
nước phải sử dụng pháp luật thuế như một công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của
mình để giải quyết các mục tiêu định trước, nên ta có thể khẳng định được rằng

pháp luật thuế có vai trò hết sức quan trọng và đặc biệt đối với sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, hệ thống chính sách và pháp luật thuế của bất
kỳ một Quốc gia nào nói chung và cũng như pháp luật thuế của Việt Nam nói
riêng thì dù có hoàn thiện, phù hợp đến đâu, sau một thời gian triển khai thực
hiện sẽ phát sinh những vấn đề không còn phù hợp do tình hình kinh tế - xã hội
phát triển, biến động sẽ dần không còn phù hợp với điều kiện phát triển của xã
hội và đất nước nữa, nên yêu cầu nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp
luật thuế cho phù hợp với tình hình mới là một đòi hỏi khách quan. Đây cũng là
một trong những giải pháp tất yếu và quan trọng để phát huy vai trò của pháp
luật thuế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở
nước ta hiện nay.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB. Tư
pháp, Hà Nội, 2010.
2. Giáo trình luật tài chính Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật –
chủ biên: Đinh Dũng Sỹ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
4. Luật thuế giá trị gia tăng.
5. Luật thuế xuất nhập khẩu.
6. Luật thuế thu nhập cá nhân.
7. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
8. Một số văn bản pháp luật về thuế khác.
9. Khóa luận tốt nghiệp – Nguyễn Văn Trung – chuyên ngành luật tài chính“Hoàn thiện pháp luật thuế ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế”, Hà Nội, 2004.
10.Trang web:
/> />

16


MỤC LỤC.

17



×