Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thực trạng và giải pháp về hoạt động chất vấn của Đại biểu quốc hội nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.82 KB, 11 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ
quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là
tổ chức chính quyền đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản. Quốc hội có quyền quyết định vấn đề quan trọng nhất của đất nước
như thông qua hiến pháp, các đạo luật, giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà
nước..v.v. Các đại biểu Quốc hội là công dân ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước
được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Hằng năm, thông
thường nước ta tổ chức hai kì họp Quốc hội để thảo luận, bàn bạc những vấn đề quan
trọng của đất nước cũng như để giải đáp khúc mắc, tâm tư nguyện vọng của quần
chúng nhân dân về mọi vấn đề kinh tế, chính trị-xã hội, văn hóa – giáo dục, an ninh
quốc phòng thông qua công tác báo cáo và chất vấn của các đại biểu Quốc hội, các nhà
lãnh đạo. Trong các kì họp này, có rất nhiều vấn đề được dư luận và đông đâỏ tầng lớp
nhân dân quan tâm cho nên hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội là một vấn đề
quan trọng đươc nhân dân cả nước mong chờ. Thông qua bài viết của em dưới đây sẽ
làm rõ hơn phần nào về Thực trạng và giải pháp về hoạt động chất vấn của Đại
biểu quốc hội nước ta hiện nay.
B. NỘI DUNG
1. NHỮNG CƠ SỞ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIÊU
QUỐC HỘI
1.1. Các khái niệm cơ bản về đại biểu Quốc hội, chất vấn và trả lời chất vấn.
Thứ nhất: Đại biểu quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân
không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả
nước. Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với


Quốc hội, đồng thời vận động quần chúng nhân dân thi hành đúng các quy định của
nhà nước
Thứ hai: Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Chất
vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà chức trách


phải trả lời, báo cáo với cơ quan quyền lực nhà nước về vấn đề có liên quan đến hoạt
động của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Chất vấn là một dạng câu hỏi nhưng hoàn
toàn khác câu hỏi bình thường, nó là dạng câu hỏi làm rõ trách nhiệm cá nhân,về
nguyên nhân và cách khắc phục.
Thứ ba: Trả lời chất vấn là hoạt động của các cá nhân có thẩm quyền nhằm giải đáp
khúc mắc,nguyện vọng của nhân dân thông qua đại biểu Quốc hội – người trực tiếp
lắng nghe ý kiến từ nhân dân. Vì vấn đề chất vấn chỉ được đặt ra khi đã được các đại
biểu Quốc hội điều tra, nghiên cứu kĩ lưỡng và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ
quan hoặc người bị chất vấn nên khi chất vấn đã được nêu lên thì buộc các cơ quan
hoặc người bị chất vấn phải trả lời và trả lời nghiêm túc.
1.2. Những cơ sở pháp lý quy định về vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội ở nước ta
hiện nay :
Theo điều 98 Hiến Pháp năm 1992,luật tổ chức Quốc hội,quy chế hoạt động của đại
biểu quốc hội, đã khẳng định “đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Thr tướng chính phủ và các thành viên khác của Chinh phủ, Chánh
án tòa án nhân dân tối cao, Viên trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.”Từ quy đinh
trên có thể thấy chất vấn là một quyền của đại biểu Quốc hội,đối tượng bị chất vấn là
những cá nhân giữ chức vụ do Quốc hội bầu và được xác định một cách rõ ràng.Nhằm
cụ thể hóa điều 98 Hiến Pháp,luật tổ chức,Luật tổ chức Quốc hội,Luật hoạt động giám
sát của Quốc hội đã quy định quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội, trình tự,thủ tục


thực hiện hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội tại kỳ họp Quốc
hội và giữa hai kỳ họp Quốc hội.
Về trình tự, thủ tục, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội được
thực hiện như sau: Đại biểu Quốc hội ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào
phiếu ghi chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc hội để chuyển đến người bị chất vấn.
Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội tổng hợp các chất vấn của đại biểu Quốc
hội để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến các
nội dung và danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp, báo cáo

Quốc hội quyết định.Tại phiên họp toàn thể của Quốc hội, người bị chất vấn trả lời
trực tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định rõ
trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Đại biểu Quốc hội có thể nêu câu hỏi liên quan đến
nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời. Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại
biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc hội tiếp tục
thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của Quốc hội hoặc kiến
nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn. Quốc hội ra nghị quyết
về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết
(Điều 11 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Điều 25 Quy chế hoạt động của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội).
Về thời gian hỏi và trả lời chất vấn, người bị chất vấn trả lời trực tiếp từng vấn đề
thuộc nội dung chất vấn, mỗi vấn đề không quá mười lăm phút. Thời gian nêu câu hỏi
chất vấn không quá ba phút. Các phiên họp chất vấn trong kỳ họp Quốc hội được
truyền hình, phát thanh trực tiếp. Từ những nội dung trên có thể thấy các văn bản pháp
luật hiện hành đã quy định một cách bao quát nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động
chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội từ việc giải thích từ ngữ; quy định về
quyền chất vấn; đối tượng và phạm vi chất vấn; trình tự, thủ tục, thời gian thực hiện
hoạt động chất vấn; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức


hoạt động chất vấn; những vấn đề phải thực hiện sau hoạt động chất vấn.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC
TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
2.1. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc trong những kỳ họp Quốc hội của nước ta.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, số lượng các câu hỏi chất vấn tại mỗi kỳ họp
tăng lên rất nhiều so với các nhiệm kỳ trước đây. Nếu so sánh với nhiệm kỳ Quốc hội
khoá XI, tại mỗi kỳ họp Quốc hội trung bình có khoảng 150 chất vấn được gửi đến
Đoàn thư ký kỳ họp (Thông qua Vụ Công tác đại biểu) thì trong nhiệm kỳ Quốc hội
khoá XII, trung bình mỗi kỳ họp có khoảng 280 chất vấn, có những kỳ họp có trên 300
chất vấn của đại biểu Quốc hội. Tại các phiên họp chất vấn, số lượng các chất vấn trực

tiếp của đại biểu Quốc hội tăng lên đáng kể. Trong 2,5 ngày đến 3 ngày tổ chức chất
vấn, trung bình có khoảng hơn 110 chất vấn trực tiếp Chỉ xấp xỉ 60% đại biểu đăng ký
có điều kiện thực hiện quyền chất vấn trực tiếp. Nội dung chất vấn của đại biểu Quốc
hội nhìn chung có trọng tâm, trọng điểm phản ánh được những vấn đề nổi cộm, bức
xúc, còn nhiều vấn đề vướng mắc, hạn chế trong quản lý, điều hành kinh tế - xã hội
được nhân dân, cử tri cả nước hết sức quan tâm. Các chất vấn tập trung chủ yếu vào
một số lĩnh vực như: đầu tư; tài chính; ngân hàng; nông nghiệp và phát triển nông
thôn; xây dựng; giao thông vận tải; y tế; giáo dục; đất đai; môi trường... Qua đó cho
thấy sự liên hệ chặt chẽ giữa yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội với hoạt động
nghị trường, giữa ý kiến, kiến nghị cử tri với chất vấn của đại biểu Quốc hội, thể hiện
vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước yêu cầu phát triển của đất nước.
Cách thức, kỹ năng thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội được nâng lên rõ
rệt, câu hỏi chất vấn nhìn chung rất ngắn gọn, súc tích, nội dung rõ ràng, đề cập đến
những vấn đề mang tính vĩ mô, xác định đúng đối tượng chất vấn. Đa số các chất vấn
có những minh chứng rõ ràng, lập luận lô gíc, lý lẽ thuyết phục. Một số đại biểu Quốc
hội đã kiên trì theo đuổi các nội dung chất vấn của mình qua từng kỳ họp. Tại các


phiên họp chất vấn trực tiếp, các đại biểu đã rất phân tích, trao đổi, tranh luận với
người bị chất vấn để phát triển nội dung chất vấn, đi đến tận cùng của vấn đề, làm rõ
trách nhiệm cá nhân, đòi hỏi phải có những giải pháp, chủ trương, chính sách, pháp
luật để giải quyết thoả đáng những vướng mắc, bất cập, hạn chế trong thực tiễn trên
tinh thần thực sự chân thành, xây dựng.
Tuy vậy, phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động chất vấn cho thấy một số bất cập,
đó là: Thứ nhất là: số lượng chất vấn tập trung quá nhiều trong kỳ họp, trong khi thời
gian vật chất dành cho hoạt động này còn hạn chế, do vậy dẫn đến tình trạng quá tải về
chất vấn thứ hai: chưa có cơ chế để đại biểu thực hiện một cách đầy đủ nhất quyền chất
vấn, nhất là quyền được yêu cầu Quốc hội tiếp tục thảo luận hoặc đưa ra thảo luận tại
kỳ họp sau;thứ ba là các đại biểu chất vấn chủ yếu là các đại biểu hoạt động chuyên
trách, các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm rất ít chất vấn hoặc không chất vấn thứ tư là:

một số câu hỏi chất vấn còn có sự nhầm lẫn về cả chủ thể và đối tượng bị chất vấn như
chất vấn dưới danh nghĩa Đoàn đại biểu Quốc hội, chất vấn Chính phủ, chất vấn chưa
đúng lĩnh vực quản lý của đối tượng bị chất vấn, hoặc nặng về phân tích, tìm hiểu
thông tin…
2.2.Công tác tổ chức, điều hành hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hôi ở nuocs ta
hiện nay.
Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện theo nhóm vấn đề. Trước đây,
việc trả lời chất vấn được thực hiện theo cách đối thoại trực tiếp, đại biểu nêu câu hỏi,
Bộ trưởng, trưởng ngành trả lời. Cách thức này đã bộc lộ những hạn chế là các nội
dung hỏi và trả lời thiếu tính liền mạch, tản mạn, các đại biểu không có điều kiện chất
vấn thêm, đi đến tận cùng của vấn đề… Để khắc phục hạn chế này, trong những kỳ
họp gần đây, việc chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện theo nhóm vấn đề. Việc
lựa chọn nội dung các nhóm vấn đề cũng như danh sách những người trả lời chất vấn
dựa trên một số tiêu chí như: số lượng chất vấn đối với từng bộ trưởng, trưởng ngành;


nội dung chất vấn; tình hình tham gia trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội, phiên
họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nội dung các vấn đề đã được trả lời; ý kiến, kiến
nghị của cử tri; tình hình kinh tế - xã hội của đất nước tại mỗi thời điểm…
Số lượng các Bộ trưởng, trưởng ngành được quyết định trả lời chất vấn trực tiếp
cũng giảm từ 7-8 người xuống còn 4-5 người ở mỗi kỳ họp, cố gắng bố trí trọn vẹn
một buổi cho mỗi người trả lời chất vấn, tạo điều kiện cho cả đại biểu và người trả lời
chất vấn về mặt thời gian để giải quyết một cách tương đối cụ thể những vấn đề nêu ra.
Bên cạnh đó, một số vị Bộ trưởng, trưởng ngành khác cũng được quyết định tham gia
trả lời, giải trình làm rõ thêm những vấn đề có liên quan góp phần phân định rõ trách
nhiệm của những người đứng đầu các ngành, lĩnh vực đối với những vấn đề thuộc
trách nhiệm quản lý của nhiều ngành. Qua đó, cũng giúp cho Quốc hội đánh giá được
thực trạng về mối quan hệ phối hợp của các ngành hữu quan trước những hạn chế, bất
cập trên thực tế, từ đó đưa ra được một các giải pháp tương đối tổng thể để giải quyết.
Trong quá trình điều hành hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trực tiếp đã tạo

được không khí dân chủ, huy động được trí tuệ tập thể, phát huy trách nhiệm cá nhân
trên tinh thần thực sự cầu thị và ý thức xây dựng. Chủ toạ phiên họp đã kịp thời có ý
kiến về cách thức đặt vấn đề chất vấn cũng như trả lời nhằm đảm bảo rõ ràng, ngắn
gọn, trực tiếp vào nội dung đang thảo luận, tránh tình trạng phân tích, giải thích. Qua
đó tiết kiệm được thời gian, bảo đảm hoàn thành chương trình đề ra. Kết thúc phần trả
lời chất vấn của mỗi vị Bộ trưởng, Trưởng ngành, Chủ toạ phiên họp đã phát biểu kết
thúc, có nhận định, đánh giá bước đầu về cách thức trả lời chất vấn và lưu ý một số nội
dung quan trọng để những người trả lời chất vấn quan tâm triển khai thực hiện trên
thực tế.
3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG,NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẤT VẤN CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC TA HIỆN NAM.
3.1. Nâng cao chất lượng chất vấn của đại biểu Quốc hội.


Với cơ cấu đa số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm như hiện nay, thì việc bồi
dưỡng kỹ năng hoạt động đại biểu nói chung và kỹ năng chất vấn nói riêng có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất vấn của đại biểu Quốc hội. Nội dung bồi
dưỡng cần tập trung vào một số kỹ năng như: xác định vấn đề chất vấn; cách đặt câu
hỏi ngắn gọn, súc tích, có số liệu chứng minh thuyết phục, lý lẽ rõ ràng, lập luận lôgic;
cách chọn thời điểm chất vấn thích hợp; khả nặng tạo được sự thu hút và đồng thuận
của nhiều đại biểu khi nêu câu hỏi chất vấn; kỹ năng phát triển vấn đề và kiểm soát
tình huống khi chất vấn …
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động chất vấn
Như đã phân tích ở trên, các quy định pháp luật hiện hành đã tương đối bao quát, đề
cập đến nhiều nội dung liên quan đến hoạt động chất vấn. Tuy nhiên, còn một số quy
định thiếu tính cụ thể, một số quy định không còn phù hợp hoặc chưa dự liệu, bao hàm
hết thực tiễn sinh động của hoạt động chất vấn, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung.
Về phương hướng, cần sửa đổi các quy định pháp luật quy định về hoạt động chất vấn,
trả lời chất vấn trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật tổ chức Quốc hội,
Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để bảo

đảm tính thống nhất.
Về mặt nội dung, cần quy định rõ những trường hợp cần thiết mà Quốc hội ban hành
nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn. Quy định cụ
thể những nội dung cơ bản, có tính bắt buộc trong nghị quyết để đảm bảo nghị quyết
được ban hành có sự nhất quán về kết cấu, bố cục và nội dung. Xác định vị trí pháp lý
và trách nhiệm của những người tham gia giải trình trong các phiên họp chất vấn để
làm rõ thêm những vấn đề có liên quan. Quy định về quy trình để đại biểu Quốc hội
thực hiện quyền yêu cầu Quốc hội tiếp tục thảo luận hoặc đưa ra chất vấn tại các kỳ
họp khác khi đại biểu không đồng ý với nội dung trả lời của người bị chất vấn, cũng
như thủ tục để xem xét kiến nghị của đại biểu Quốc hội. Quy định rạch ròi trách nhiệm


của Ban Công tác đại biểu và Văn phòng Quốc hội trong việc tổng hợp, tập hợp, tham
mưu, phục vụ hoạt động chất vấn trong kỳ họp Quốc hội để phân định trách nhiệm cụ
thể, nâng cao hiệu quả phối hợp công tác, tránh tình trạng chồng chéo về nhiệm vụ,
quyền hạn. Quy định cụ thể thời hạn trả lời chất vấn bằng văn bản. Sửa đổi, bổ sung
các quy định về thời gian đặt câu hỏi, thời gian trả lời chất vấn phù hợp với thực tiễn tổ
chức hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn theo nhóm vấn đề…
3.3. Nghiên cứu áp dụng hoạt động "điều trần", tăng cường hoạt động chất vấn giữa
hai kỳ họp.
Thực tiễn cho thấy các đại biểu Quốc hội chủ yếu được thực hiện quyền chất vấn
trong thời gian diễn ra kỳ họp Quốc hội, số lượng chất vấn giữa hai kỳ họp không đáng
kể. Do đó, khối lượng công việc tham mưu, phục vụ hoạt động chất vấn tại các kỳ họp
Quốc hội là rất lớn, chỉ một phần các câu hỏi chất vấn được lựa chọn trả lời trực tiếp
tại Hội trường, một số bộ ngành cũng gặp khó khăn khi giải quyết quá nhiều chất vấn
của đại biểu trong cùng một thời điểm. Điều này ít nhiều ảnh tới chất lượng, hiệu quả
hoạt động chất vấn cũng như quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi phải từng bước thí điểm, mở rộng hoạt động "điều
trần" tại Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn
để xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thường xuyên hoạt động giám sát theo

hình thức này. Bên cạnh đó, cần có giải pháp để tăng cường hoạt động chất vấn giữa
hai kỳ họp Quốc hội, tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn tại các phiên họp của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội bảo đảm cho hoạt động chất vấn là hình thức giám sát thường
xuyên, liên tục, tránh tình trạng tập trung quá nhiều vào mỗi kỳ họp.
3.4 Tăng cường công tác bồi dưỡng kỹ năng chất vấn cho đại biểu Quốc hội.
Với cơ cấu đa số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm như hiện nay, thì việc bồi
dưỡng kỹ năng hoạt động đại biểu nói chung và kỹ năng chất vấn nói riêng có ý nghĩa


quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất vấn của đại biểu Quốc hội. Nội dung bồi
dưỡng cần tập trung vào một số kỹ năng như: xác định vấn đề chất vấn; cách đặt câu
hỏi ngắn gọn, súc tích, có số liệu chứng minh thuyết phục, lý lẽ rõ ràng, lập luận lôgic;
cách chọn thời điểm chất vấn thích hợp; khả nặng tạo được sự thu hút và đồng thuận
của nhiều đại biểu khi nêu câu hỏi chất vấn; kỹ năng phát triển vấn đề và kiểm soát
tình huống khi chất vấn …
C. KẾT LUẬN:
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cùng với công
cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp, việc đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc
hội là một yêu cầu khách quan. Một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội là phải đổi mới hơn nữa hiệu quả
giám sát của Quốc hội, trong đó có việc thực hiện chất vấn của đại biểu Quốc hội.Có
như vậy công tác chất vấn và trả lòi chất vấn mới thực sự có hiệu quả.Thực sự giải
quyết được những vấn quạn trọng của đất nước.để thực hiên được mục tiêu dân giàu,
nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ và văn minh.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. 1
B.NỘ DUNG……………………………………………………………………….1

NHỮNG CƠ SỞ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIÊU
QUỐC HỘI…………………………………………………………………………1
1.1. Các khái niệm cơ bản về đại biểu Quốc hội, chất vấn và trả lời chất
vấn…………………………………………………………………………………

2

1.2. Những cơ sở pháp lý quy định về vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội ở nước ta
hiện nay…………………………………………………………………… 3
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC
TA

TRONG

GIAI

ĐOẠN

HIỆN

NAY………………………………

3

2.1. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc trong những kỳ họp Quốc hội của nước
ta………………………………………………………………………………….

4

2.2.Công tác tổ chức, điều hành hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội nước ta hiện

nay……………………………………………………………………………. 5
3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG,NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẤT VẤN CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI NƯỚC TA HIỆN NAM............................................................. 5
3.1. Nâng cao chất lượng chất vấn của đại biểu Quốc hội………………….6
3.2.Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động chất vấn…………………..7
3.3. Nghiên cứu áp dụng hoạt động "điều trần", tăng cường hoạt động chất vấn giữa
hai

kỳ

họp………………………………………………………….7

3.4 Tăng cường công tác bồi dưỡng kỹ năng chất vấn cho đại biểu Quốc


hộị………………………………………………………………………………...

7

C. KẾT LUẬN………………………………………………................................ 8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam .Trường đại học Luật Hà Nội.năm 2010.2011.
2.luật tổ chúc Quốc hội năm 2001.
3.Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.
4. Hiến pháp năm 1946- sự ké thừa vad pháp triienr qua các hiến pháp Việt Nam ,văn
phòng Quốc hội,nxb,CCQG.Hà Nội năm 1993.
5.Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội ,Nxb,
6.www…chinhphu.vn




×