Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo hiến pháp hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.12 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo chế độ
tập quyền xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, chế độ tập quyền được thực hiện khi
có Hiến pháp 1946 và đến Hiến pháp 1980, 1992, chế độ tập quyền được tăng
cường và phát triển hơn nữa trong việc quy định cơ cấu tổ chức nhà nước Việt
Nam, nhất là trong việc quy định vị trí, tính chất, chức năng và nhiệm vụ
quyền hạn của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Chính phủ.
Nếu Quốc hội là “Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” thì Chính phủ là “Cơ
quan chấp hành Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (theo điều 109, Hiến pháp 1992). Hai
cơ quan này đều đóng vại trò hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước. Giữa
chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhằm phát huy những chức
năng đặc biệt của mình trên mọi phương diện. Sau đây, nhóm A101 xin trình
bày về mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo hiến pháp hiện
hành, để có thể thấy rõ được thực trạng cũng như các giải pháp cần thực hiện
cho mối quan hệ trên.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về Quốc hội và Chính phủ
1. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
Điều 83 Hiến pháp 1992 đã nêu rõ vị trí, tính chất của Quốc hội: “Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Chức năng của
Quốc hội bao gồm những phương diện lớn sau đây: “Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; Quốc hội quyết định những chính
sách, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan


hệ xã hội và hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” nhằm đảm bảo cho những quy


định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ
máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả.
2. Vị trí, tính chất, chức năng của chính phủ
Điều 109 Hiến pháp 1992 đã khẳng định vị trí của Chính phủ: “Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Việc khẳng định này
nhằm chỉ rõ tính chất của Chính phủ, mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc
hội, đồng thời đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế
chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý Nhà nước. Hoạt động quản
lí nhà nước của Chính Phủ được thể hiện ở những điểm sau đây: “Chính phủ
thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; đảm bảo hiệu lực của
bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp
hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ổn định và nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa của người dân”.
II. Cơ sở của mối quan hệ giữa Quốc hội và chính phủ
1. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý được quy định trong Hiến pháp và luật của Quốc hội. Quốc hội có
mối quan hệ gì với Chính phủ? Chính phủ với Quốc hội có mối quan hệ như thế nào?
Các điều này được quy định trong Hiến pháp “đạo luật cơ bản của hầu hết các nhà nước
đương đại” và cụ thể hóa trong luật tổ chức Quốc hội năm 2001, luật tổ chức Chính phủ
năm 2001. Dựa trên cơ sở dó ta có thể thấy được sự ràng buộc nhất định giữa hai cơ
quan này, tạo nền tảng cho việc hình thành bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương nói chung và hệ thống các cơ quan quyền lực nói riêng.


2. Cơ sở lý luận
Quốc hội không thể tự mình thực hiện hết chức năng quản lý nhà nước và
xã hội nên công việc này được giao cho cơ quan nhà nước khác là Chính phủ,

cơ quan được Quốc hội thành lập nên nhưng lại có sự độc lập tương đối, để
Quốc hội thực hiện tốt hơn phần việc của mình là lập pháp, tránh tình trạng
lan man không chuyên sâu, không sát thực tế. Nhưng Quốc hội vẫn có quyền
giám sát tối cao với Chính phủ. Cho nên mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính
phủ về mặt nguyên tắc là một mối quan hệ hai chiều nhưng chiều chủ yếu vẫn
là chiều ảnh hưởng của Quốc hội đối với Chính phủ. Quốc hội là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất thành lập ra các cơ quan nhà nước khác ở trung
ương nên vai trò của Quốc hội là rất lớn (về mặt lý luận). Nhưng trên thực tế
thì người thực hiện quản lý nhà nước, quản lý xã hội và mang quyền lực thực
tế là Chính phủ. Nhưng cho dù quyền lực nhà nước có thế nào đi nữa thì mối
quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ cũng vì lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, vì sự phát triển của đất nước.
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành
1. Về tổ chức
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và luật tổ
chức Chính phủ năm 2001, Quốc hội lập ra Chính Phủ. Cơ cấu tổ chức của
Chính Phủ bao gồm: các Bộ và các cơ quan ngang Bộ (điều 2 luật Tổ chức
Chính phủ năm 2001). Quốc hội Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các
cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Thành viện của
Chính phủ gồm: Thủ tướng, các phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ
quan ngang bộ. Số lượng phó thủ tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan
ngang bộ do quốc hội quyết định (điều 3 luật tổ chức Chính phủ năm 2001).
Trên cơ sở quy định Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ năm 2001.
Quốc hội sẽ quyết định tổ chức của chính phủ theo từng nhiệm kỳ cho phù


hợp. Ví dụ, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ nhất quyết định thành lập 20 bộ và
6 cơ quan ngang bộ, đến Quốc hội khóa XII (2007 – 2012) cơ cấu Chính phủ
có sự sắp xếp lại chỉ còn 18 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Chính phủ
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước;

thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ tưởng cơ quan
ngang bộ. theo Hiến pháp 1992, thành viên Chính phủ không nhất thiết phải
là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng). Việc quy định như vậy là để đảm bảo
hiệu quả hoạt động cho các thành viên của Chính phủ và đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên, Chính phủ do Quốc hội lập ra nhưng với việc lựa chọn danh
sách các thành viên, Chính phủ đã khẳng định vị trí tương đối độc lập của
mình. Ở nước ta, Quốc hội vừa có quyền lập hiến,vừa có quyền lập pháp. Do
vậy Quốc hội không những có quyền thành lập ra Chính phủ, mà còn có
quyền định ra cơ cấu và những nguyên tắc hoạt động của cơ quan này.
2. Về hoạt động
Quốc hội hoạt động thông qua phương thức chính là các kì họp của Quốc
hội. Quốc hội họp thường kì mỗi năm hai lần. Trong hiến pháp 1992 cũng
như các Hiến pháp trước đều ghi nhận Chính phủ có quyền triệu tập kì họp
bất thường của Quốc hội. Điều 86 hiến pháp 1992 quy định: “Trong trường
hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số
đại biểu quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường vụ
quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường”.
Thứ nhất, về lập pháp, quy trình lập pháp được xem như công nghệ làm
luật. Công nghệ lạc hậu hay hiện đại, phù hợp hay không phù hợp với khả
năng vận hành là một trong những yếu tố quyết định năng lực lập pháp của Quốc hội.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn bởi sự


phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp, nhưng Chính phủ là cơ quan có sáng
kiến lập pháp, tức là quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản pháp
luật, pháp lệnh mà đa số các văn bản pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Về mặt nội

dung, Chính phủ tập trung vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua
các dự án tại phiên họp của chính phủ. Kết quả là chính phủ đã ban hành
một lượng lớn các văn bản pháp luật với chất lượng ngày càng cao. Bởi vậy,
có thể nói rằng Chính phủ là cơ quan chủ yếu đưa ra các sáng kiến lập pháp,
chủ động đưa ra chiến lược lập pháp trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước; định hướng đi cho từng lĩnh vực cụ thể, lựa chọn những vấn đề ưu tiên
giải pháp quản lý bằng luật; đề ra lộ trình, cách thức thực hiện… Đây là
điểm then chốt hình thành nội dung nghị quyết về chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh từng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội. Như vậy, quyền lập
pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật của
Chính phủ. Quy định này là hợp lý bởi Chính phủ thống nhất và quản lí mọi
mặt của đời sống xã hội nên Chính phủ có thể thấy được những bất cập
trong sự đều chỉnh của pháp luật và dự tính được những quan hệ xã hội sẽ
phát sinh cần sự điều chỉnh của pháp luật. Mặt khác, Chính phủ có đầy đủ
chuyên viên và hệ thống cơ quan chuyên môn nắm vững tình hình thực tế
của Quốc hội.
Thứ hai, về giám sát, việc kiểm tra giám sát đối với hoạt động của Chính
phủ là một hoạt động đặc thù của Quốc hội. Hiến pháp 1992 đã chính thức
ghi nhận quyền này do Quốc hội trực tiếp thực thi. Hình thức thực hiện chức
năng giám sát quan trọng nhất của Quốc hội là trong các kì họp. Quốc hội


xem xét thảo luận, báo cáo công tác của Chính phủ và của các cơ quan nhà
nước khác. Hàng năm Chính phủ phải báo cáo tình hình của mình trước
Quốc hội ít nhất một lần. Điều 77 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy
định: “Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp cuối năm. Tại
kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu
Quốc hội, khi cần thiết Quốc hội có thể xem xét, thảo luận. Quốc hội có thể

ra nghị quyết về công tác của các cơ quan đã báo cáo”. Qua báo cáo của
Chính phủ, Quốc hội thực hiện được quyền giám sát tối cao đối với hoạt
động của tình hình kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước.
Hình thức giám sát thứ hai của Quốc hội đối với các Bộ trưởng và thành
viên Chính phủ là thông qua vai trò của các Đại biểu Quốc hội. Hình thức
giám sát này của đại biểu Quốc hội có hiệu năng, tác dụng phát huy được
công luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công chúng.
Trong trường hợp chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng tại kì họp,
Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội
có thể giao cho các ủy ban, Hội đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm
thời điều tra lại vấn đề có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của
những người có liên quan đến chất vấn và báo cáo lại kết quả điều tra để
Quốc hội xem xét tại kì họp tiếp theo. Chất vấn là hình thức giám sát hữu
hiệu nhất, mục đích cuối cùng của chất vấn là nhằm quy kết trách nhiệm của
chủ thể bị chất vấn.
Hình thức giám sát thứ ba của Quốc hội đối với Chính phủ là giám sát
đối với các văn bản của Chính phủ. Khoản 9, điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi, bổ sung 2001) quy định: Quốc hội “Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch


nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội”.
Ngoài các hình thức giám sát trên, hoạt động giám sát của Quốc hội đối với
Chính phủ còn do các cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm, đó là Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội. Chẳng hạn, Khoản
5 Điều 91 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Uỷ ban thường vụ
Quốc hội có những nhiệm vụ: “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát
hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ
bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội”.
3. Trong việc quyết những vấn đề quan trọng của đất nước
Theo quy định tại điều 83, 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và
điều 1, 2 luật tổ chức Quốc hội 2001, ngoài chức năng lập hiến, lập pháp;
chức năng giám sát, “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối
nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước,
những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội
và hoạt động của công dân”.
Trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội, vấn đề chủ chốt nhất hiện nay
là hoạt động về kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực về tài chính – ngân
sách. Vấn đề ngân sách nhà nước là vấn đề quan trọng của quốc gia. Mặt


khác, việc thông qua ngân sách là một trong những chức năng quan trọng
nhất thể hiện rõ nét và trực tiếp quyền lực nhà nước của Quốc hội.
Theo quy định tại khoản 4, điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001):
Quốc hội “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán
ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân
sách nhà nước, quyết định, sửa đỏi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”
Còn Chính phủ sẽ thực hiện chính sách tài chính quốc gia. Khoản 4,
Điều 112 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) quy định: Chính phủ
“Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực
hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo đảm sử dụng có
hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hoá, giáo dục, y tế,
khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và

ngân sách Nhà nước”.Việc quy định cụ thể quyền và ngân sách nhà nước
giúp Quốc hội thực hiện hoạt động quản lí, giám sát việc chi tiêu của Chính
phủ cũng như chi tiêu của chính quyền địa phương, nhằm đẩy mạnh hoạt
động chống tham nhũng – một nguy cơ lớn mà đảng ta luôn nhấn mạnh.
Về hoạt động đối ngoại, khoản 12 điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung 2001) quy định: Quốc hội “Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình;
quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc
phòng và an ninh quốc gia”. Nhưng “Trong trường hợp Quốc hội không
thể họp được, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà
bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất
của Quốc hội " thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 8 điều 91 Hiến
pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001). Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều
ước quốc tế đã kí kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Trên cơ
sở đó Chính phủ “Thống nhất quản lý công tác đối ngoại; đàm phán, ký kết


điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ
trường hợp quy định tại điểm 10 Điều 103; đàm phán, ký, phê duyệt, gia nhập
điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài
(khoản 8, điều 112 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2011). Như vậy, theo quy
định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) chỉ có Chính phủ mới có quyền
kí kết các điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước. Các điều ước quốc tế này có
hiệu lực khi được Quốc hội phê chuẩn còn Chính phủ chỉ có quyền kí kết các điều
ước quốc tế nhân danh Chính phủ mà thôi.
IV. Thực trạng tồn tại và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ
1. Thực trạng tồn tại
Bên cạnh mối quan hệ khăng khít, gắn bó giữa Quốc hội với Chính phủ thì
trong tổ chức, hoạt động của hai cơ quan này cũng còn bộc lộ một số hạn chế nhất

định như chưa có quy chế ràng buộc lẫn nhau giữa các cơ quan của Chính phủ
với Quốc hội mặc dù đã có các đạo luật về tổ chức. Hoạt động giám sát của Quốc
hội chưa thực sự có hiệu quả bởi lẽ Quốc hội đã phân công cho quá nhiều cơ quan
mà không có cơ quan chuyên trách dẫn đến sự phân tán quyền giám sát hoặc
phạm vi giám sát của cơ quan này và cơ quan khác chồng chéo lên nhau, thể hiện
sự thiếu khoa học, khó kiểm soát. Trong quy định của pháp luật chỉ có Thủ tướng
Chính phủ mới buộc phải là Đại biểu Quốc hội nhưng trên thực tế thì hầu hết các
thành viên trong Chính phủ đều là Đại biểu Quốc hội. Điều này làm cho các Đại
biểu phải kiêm nhiệm quá nhiều nhiệm vụ, đồng thời ảnh hưởng tới việc giám sát
hoạt động Chính phủ của Quốc hội.
2. Giải pháp hoàn thiện


Vì những hạn chế trên trong mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ nên
cần
phải có những giải pháp tích cực để tăng cường mối quan hệ hiệu quả đó. Cụ thể
là trong mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ cần phải có sự tăng cường
tính chủ động của chính phủ trong quá trình xây dựng luật và pháp lệnh; tăng
cường hoạt động thông tin giữa các cơ quan của Quốc hội với các Bộ, các ban
ngành của Chính phủ, đây là cầu nối để chúng ta xây dựng có chất lượng các dư án
luật, pháp lệnh. Tăng cường mối quan hệ giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các
ban của Quốc hội, Bộ tư pháp với các ban của Chính phủ trong giai đoạn thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh. Phân định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong quy
trình xây dựng luật và pháp lệnh. Nâng cao trách nhiệm đội ngũ tham mưu cho
Quốc hội, Chính phủ trong quá trình lập pháp. Tăng cường kinh phí cho hoạt động
xây dựng pháp luật, pháp lệnh; các dự án luật, pháp lệnh phải được xem như là
những công trình khoa học lớn cần có sự đầu tư thích đáng về mặt tài chính để thu
hút trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia phục vụ công tác xây
dựng luật của Quốc hội và hoạt động quản lý hành chính của Chính phủ, góp phần
tăng cường tính thống nhất giữa Quốc hội và Chính phủ trong hoạt động riêng của

mình cũng như hoạt động chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
C. KẾT LUẬN

Qua những biểu hiện trên của mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
chúng ta đã có được cái nhìn đúng đắn, khách quan hơn về nhiệm vu, chức
năng, quyền hạn cũng như sự gắn kết khăng khít giữa hai cơ quan đầu não
của bộ máy Nhà nước Việt Nam. Từ đó nâng cao hiểu biết của mình về hoạt
động, tổ chức của hai cơ quan đặc biệt trên, đồng thời đóng góp ý kiến xây
dựng để Quốc hội và Chính phủ ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm đáp
ứng được yêu cầu đổi mới của xã hội, với công cuộc công nghiệp hóa hiện


đại hóa đất nước, đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra là xây
dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB.
CAND, Hà Nội, 2012.
2) Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, NXB, ĐHQG, Hà Nội, 2011.
3) Hiến pháp Việt Nam năm 1992, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
4) Luật tổ chức Quốc hội.
5) Luật tổ chức Chính phủ.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................
1
B. NỘI DUNG....................................................................................................
1
I. Khái quát chung về Quốc hội và Chính phủ......................................................

1
1. Vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội...........................................................
1
2. Vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ.........................................................
2
II. Cơ sở của mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ........................................
2
1. Cơ sở pháp lí..................................................................................................
2
2. Cơ sở lí luận....................................................................................................
3
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ.................................................
3
1. Về tổ chức......................................................................................................
3
2. Về hoạt động.................................................................................................
4


3. Trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước......................
7
IV. Thực trạng tồn tại và giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc
hội với Chính phủ.............................................................................................
9
1. Thực trạng tồn tại..........................................................................................
9
2. Giải pháp hoàn thiện......................................................................................
9
C. KẾT LUẬN..................................................................................................
10




×