Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.18 KB, 18 trang )

Đề bài: Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách và thực tế áp dụng.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã
hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho
người dân,… Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò trên thì ngân sách nhà nước phải
được cân đối. Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức.
Từ quá khứ đến hiện tại cũng đã có nhiều quan điểm, học thuyết khác nhau bàn về
cân đối ngân sách nhà nước nhưng trong thực tiễn để làm được vấn đề này là rất
khó khăn, vì tình hình kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia luôn biến đổi không
ngừng, có thể là tăng trưởng, phát triển nhưng cũng có thể rơi vào khủng hoảng,
suy thoái. Điều này dẫn đến ngân sách nhà nước có thể rơi vào tình trạng bội chi
hay bội thu.
Bài luận xin phép được tìm hiểu về nguyên tắc cân đối, cũng như thực tế áp dụng
nó trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những vấn đề lý luận chung:
1. Định nghĩa ngân sách nhà nước:
Ngân sách Nhà nước là một thuật ngữ xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào thế kỷ 17.
Khi đó, ngân sách nhà nước được hiểu là một nguồn quỹ hoặc là túi tiền của người
quản lý ngân khố, nó là toàn bộ những khoản thu chi thuộc về Nhà nước và do Nhà
nước thực hiện. Cho đến ngày nay, ngân sách nhà nước được hiểu là bảng kế hoạch
tài chính lớn nhất của một quốc gia bao gồm tất cả các khoản thu chi phục vụ cho
chức năng và nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, thông qua đó đảm bảo những lợi ích
công cộng của xã hội.
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến lĩnh
vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có nhiều
ý kiến khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất và đầy



đủ nhất về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai phương diện
kinh tế và pháp lý.
* Xét về phương diện kinh tế:
Trước hết, ngân sách nhà nước là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế học hay
hẹp hơn là tài chính học.Theo đó, ngân sách nhà nước được hiểu là bản dự toán về
các khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định thực hiện trong một khoản thời hạn nhất định, thường là
một năm. Từ định nghĩa đó ta thấy có 2 yếu tố cơ bản trong ngân sách nhà nước:
- Ngân sách nhà nước là một bản dự toán thu và chi tiền tệ của quốc gia. Do
đó phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong
quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế. Ngoài ra,
Quốc hội còn là người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có
quyền phê chuẩn bản quyết toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi
năm ngân sách kết thúc.
- Ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tính từ ngày 01/01 đến
ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoản thời gian mà pháp luật quy định nhằm giới
hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách nhà nước, và được gọi là “năm ngân sách”
hay “tài khóa”.
* Xét về phương diện pháp lý:
Theo phương diện này, ngân sách nhà nước được hiểu là một đạo luật đặc biệt của
mỗi quốc gia do Quốc hội ban hành và chính phủ thực hiện trong một thời hạn xác
định. Nhưng khác với những đạo luật thông thường, ngân sách nhà nước được cơ
quan lập pháp tạo ra theo trình tự, thủ tục riêng và hiệu lực thi hành của đạo luật
này được xác định rõ ràng là một năm.
Điều 1 Luật ngân sách nhà nước 2002 có đề cập đến khái niệm ngân sách nhà nước
như sau:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước quyết định và được thực hiện trong
một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.

2. Khái quát về cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước:


a - Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là một bản kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự
trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế quá trình thu
chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh
hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến
không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa
những khoản chi. Do vậy các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được
tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước
trong trạng thái cân bằng, ổn định.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số lượng biểu
hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía
cạnh khác nhau.
- Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà
Nhà nước huy động vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân phối, sử
dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó.
- Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan
giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và
tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu
các khoản chi của ngân sách nhà nước
- Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước là
cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung
ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và
nhiệm vụ được giao.

Tóm lại, cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài
khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà
nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng

lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
b - Đặc điểm của cân đối ngân sách nhà nước:


Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một số đặc
điểm cơ bản sau đây:
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân
sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó vừa
là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng bởi các
chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để thu chi cân
đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước, đồng thời
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân
sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các khoản
thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp
trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân sách
nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong quá
trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu, chi
ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng khoản
thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động
chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách.
Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một
cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
c - Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp vào
hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân
sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện

cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng
năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế
cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục
tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong


nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể
dự toán được, …
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có
hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa
chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt
chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.
Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định
nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương
với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự
bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội rất khó khăn
làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những
vùng điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống
của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự
công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà
nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có
kinh tế phát triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những
vùng kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần
phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó
dựa trên tiềm năng có sẳn của địa phương.
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NGUYÊN TẮC NGÂN SÁCH
THĂNG BẰNG)

1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách Nhà nước
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau:
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào


chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu
tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách;
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài
nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử
dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí
ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu
tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm,
thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán,
thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng
năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không
vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp
tỉnh”.
Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
bao gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất: Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp
còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu,
chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh giới giữa
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách

tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng để
trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp
được sử dụng để chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng
hơn vì nó có thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng
phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi
lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước.
Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của
một quốc gia, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền
kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các
vấn đề xã hội của đất nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ


của mình. Vì vậy, chi đầu tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây
dựng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN.
Hai là: Bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước ngoài. Vay
bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ
được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả
hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội
chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi
NSNN là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong các
cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động NSNN trong dài hạn, đảm bảo cho nền
kinh tế- xã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho
mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn
là rất cần thiết để đảm bảo NSNN được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một
cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi
vốn và không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành
cho mục đích phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với
tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung
ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân
sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội

đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách
cấp tỉnh năm dự toán thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Ba là: Nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được
nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp
tỉnh vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn
trong việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và
đảm bảo các vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại
được tính vào thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng
thể thì ngân sách địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy
định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách địa phương
có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân sách nhà
nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách nhà nước ở
Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa phương là 30%
( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lý vì mỗi địa phương có điều kiện


kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ
là khác nhau.
Bốn là: nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN được thể hiện ở chỗ: phải
dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công. Điều này
thể hiện trên những nội dung sau:
Về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của hoạt động NSNN phải đánh giá đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ
nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi
cân đối trong hoạt động NSNN thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên cần phải được gắn kết với nhau, trong chi tiêu NSNN cần tập trung
chi vào những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt
các chiến lược mà Chính phủ đề ra.

Về tính linh hoạt và tính tiên liệu: trong cân đối của hoạt động NSNN, tính
linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và
điều phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước
thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao
quyền cho người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính đã
thu được từ các nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội dung
này đòi hỏi nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN phải chú ý đến sự cân đối
trong ngắn hạn và dài hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc
điều chỉnh mất cân đối ngân sách nhà nước.
Về tính trung thực: khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN nên dựa
vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước mà
không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán
quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không
thực hiện được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước đã đề ra do ngân sách
nhà nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động khi chưa đưa ra những
kế hoạch cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm: đây là vấn đề rất cần thiết trong cân đối
trong hoạt động NSNN. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và giúp


người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời
về chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối trong
hoạt động NSNN đạt hiệu quả nhất định.
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách Nhà nước
Ngoài những đặc điểm của nguyên tắc cân đối NSNN đã phân tích ở trên,
nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN theo Luật Ngân sách nhà nước năm
2002 còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN là sự bình ổn nguồn ngân

sách, làm cho số bội chi NSNN được cân bằng so với các nguồn thu để hoàn thiện
các nhiệm vụ chi đó. Điều này có nghĩa là, đặc điểm nổi bật của nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN (nguyên tắc ngân sách thăng bằng) chính là sự định hướng
được cho NSNN nếu có bội chi thì sẽ có cách giải quyết, bình ổn tối ưu, được thể
hiện rõ trong khoản 2 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước: “Bội chi ngân sách nhà
nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ
được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả
hết nợ khi đến hạn”.
Thứ hai, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn đòi hỏi nguồn
vay ngân sách từ trong và ngoài nước sẽ không được sử dụng cho các nhiệm vụ chi
nào khác ngoài nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển vì đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu đỏi hỏi phải có nguồn ngân sách thật sự ổn định để thực hiện nhiệm vụ và
khi nhiệm vụ hoàn thành sẽ nhanh chóng có nguồn tài chính để trả nợ. Do vậy, bắt
buộc phải tuân theo đặc điểm này để tránh sự xáo trộn trong hoạt động NSNN.
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối đối với hoạt động NSNN
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có vai trò thúc đẩy hoặc có
khi lại kiềm chế sự linh hoạt, hiệu quả của hoạt động ngân sách nhà nước của Việt
Nam. Điều này thể hiện, nếu nguyên tắc cân đối này được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo thì nó có tác dụng làm cho hoạt
động ngân sách nhà nước của Việt Nam luôn vận động phát triển theo chiều hướng
tích cực, có nghĩa là hoạt động thu ngân sách và nhiệm vụ chi ngân sách cho những


mục tiêu phát triển của đất nước do có tác động tích cực từ nguyên tắc này sẽ luôn
ổn định và phát triển, không bị xáo trộn bởi sự tác động của các yếu tố nào. Ngược
lại, nếu cơ quan có thẩm quyền mà áp dụng sai quy luật, bản chất của nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước thì nó thúc đẩy sự xáo trộn, mất cân
đối, ổn định của các nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể của Việt Nam.
Thứ hai, ở trên là sự tác động của nguyên tắc cân đối tới hoạt động ngân sách nhà

nước, do có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên không chỉ có sự tác động một
chiều từ nguyên tắc cân đối mà còn là sự tác động trở lại của hoạt động ngân sách
nhà nước tới nguyên tắc cân đối. Điều này thể hiện, nếu hoạt động ngân sách nhà
nước của Việt Nam được vận động hợp quy luật, tuân theo quy định của pháp luật
và đạt được những thành tựu nhất định thì tức là hoạt động đó đã chứng minh sự
đúng đắn của nguyên tắc cân đối và nhờ những thành tựu đó nên quá trình này tiếp
tục dung nạp, sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước làm
cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam.
Ngược lại, nếu như hoạt động ngân sách nhà nước có sử dụng nguyên tắc này trong
thực hiện các nhiệm vụ tài chính của đất nước mà không thu được những thành tựu
nào mà còn làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước thì nguyên tắc
này đã bộc lộ sự hạn chế, không còn phù hợp với những biến động không ngừng
của hoạt động ngân sách thì sẽ nhanh chóng bị thay đổi bản chất, quy luật bởi
chính hoạt động thu và chi ngân sách này, thay vào đó là một nguyên tắc cân đối
với bản chất và quy luật phù hợp hơn với hoạt động ngân sách nhà nước. Điều này
đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành sửa đổi bổ sung nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách của nhà nước đảm bảo cho nguyên tắc này được
giữ vững, không bị xáo trộn để tiếp tục làm cơ sở định hướng cho việc thực hiện
nhiệm vụ thu, chi ngân sách của Việt Nam.
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Sự tác động của nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN tới hoạt động ngân
sách (thu, chi ngân sách nhà nước) được biểu hiện cụ thể qua những nội dung sau:
Trước hết, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có tác động làm cho hoạt
động thu, chi ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước được ổn định. Sự tác
động này thể hiện: để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách thì các cơ quan có
thẩm quyền buộc phải áp dụng sự cân đối được pháp luật quy định nhằm đảm bảo


cho kế hoạch của cơ quan nhà nước cấp trên được thực hiện triệt để, do có những
ưu điểm nhất định và được thực tiễn kiểm định thông qua quá trình sử dụng lâu dài

nguyên tắc cân đối khi các cơ quan khác nhau trong những giai đoạn khác nhau đã
sử dụng nó cho hoạt động cụ thể của mình và dành những thắng lợi nhất định. Do
vậy, nguyên tắc này vẫn có tác dụng làm ổn định hoạt động thu, chi ngân sách đến
giai đoạn hiện nay nên vẫn được sử dụng.
Hai là, nguyên tắc cân đối cũng có tác động làm cho hoạt động thu, chi NSNN
không những ổn định mà còn phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là, khi các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu và chi NSNN mà áp dụng
đúng nguyên tắc này cho hoạt động của mình thì khả năng thu và nhiêm vụ chi
ngân sách được tiến hành suôn sẻ không những đã đáp ứng yêu cầu đặt ra mà còn
có khả năng vượt yêu cầu đặt ra, có nghĩa là khả năng thu và nhiệm vụ chi được
tiến hành suôn sẻ không những chỉ trong một năm ngân sách nhất định mà còn có
khả năng được tiến hành suôn sẻ ở những năm ngân sách tiếp theo đó nhờ áp dụng
đúng nguyên tắc cân đối này.
Ba là, nguyên tắc cân đối không chỉ có tác động tích cực tới hoạt động NSNN mà
nó còn có tác động tiêu cực đến hoạt động này, đó là nó có khả năng kiềm chế, làm
chậm đi quá trình thu, chi NSNN của Việt Nam khi các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành hoạt động thu, chi ngân sách mà không có sự áp dụng hoặc áp dụng sai bản
chất của nguyên tắc này thì khi đó hoạt động NSNN sẽ không những bị chậm đi
mà còn có khả năng mất ổn định, ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội đã có định hướng cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phân bổ ngân sách nhà nước từ các nguồn thu đó. Hậu quả cuối cùng tất yếu xảy ra
khi áp dụng sai nguyên tắc cân đối sẽ là sự mất định hướng cho việc phân bổ
NSNN, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không định ra được kế hoạch sẽ sử dụng
nguồn thu này cho những nhiệm vụ chi cụ thể nào. Đây là sự tác động bất lợi cho
sự giàu mạnh của một quốc gia khi nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
không được quan tâm chú trọng.
III. THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH:
1. Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
ở Việt Nam



Kể từ khi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 có hiệu lực thi hành thì hoạt
động ngân sách nhà nước (hoạt động thu, chi ngân sách) đã có những chuyển biến
theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, đặc biệt là việc áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN theo quy định của luật vào hoạt động thu, chi ngân sách
bên cạnh việc đạt được những thành tựu cụ thể cũng không ít những vấn đề tiêu
cực nảy sinh. Cụ thể:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân
sách nhà nước trong hoạt động của mình đã triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối
theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho
NSNN nhằm phục vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
Thứ hai, để cho việc thu, chi ngân sách được cân đối cũng như bắt buộc các
cơ quan có thẩm quyền trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách để tập trung
nguồn thu về NSNN tuân thủ triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN thì
từ khâu dự toán- khâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào hoạt động thu, chi cụ
thể thì các cơ quan có thẩm quyền trong việc dự toán NSNN cũng đã tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc này để đảm bảo cho nguồn ngân sách thực sự cân đối, ổn
định tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể về các lĩnh vực khác
nhau của đất nước phải sử dụng đến ngân sách nhà nước.
Thứ ba, mặc dù việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN đã
được tuân thủ triệt để trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong lĩnh vực thu, chi và phân bổ ngân sách nhưng việc áp dụng nguyên tắc này
thật sự không đơn giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp dụng
nguyên tắc đó vào thực tiễn hoạt động. Theo GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ
nhiệm Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội: “việc thực hiện nguyên tắc cân
đối trong Luật Ngân sách Nhà nước đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại, trong
đó vấn đề về phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa
rõ ràng, chưa đúng với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế. Số thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định rõ ràng, khoản

nào trong cân đối, khoản nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào hạch toán trong
NSNN”. Nếu như vậy thì vấn đề cân đối trong ngân sách hoàn toàn chưa đạt được,
do vậy nguyên tắc cân đối trong trường hợp nêu trên hoàn toàn chưa được tuân thủ,
áp dụng triệt để, điều này một phần do trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam, phần nữa do đặc thù của hoạt động thu, chi ngân sách ở Việt Nam


(thu từ nhiều nguồn và chi cho quá nhiều nhu cầu khác nhau) tạo nên, chúng ta khó
có thể cân đối trong mọi năm ngân sách.
Thứ tư, một điểm vướng mắc nữa về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân đối
các nguồn thu với nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán triệt
nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên;
nếu bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho
thấy một số khoản thu nêu trên không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn
vị chi tiêu, khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm
toán cho thấy khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng)
và đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí
trong dự toán hàng năm. Nếu thực tế đó không nhanh chóng được khắc phục thì sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình lên kế hoạch cho việc phân bổ nguồn
NSNN của những năm tiếp theo và như vậy việc cân đối trong ngân sách trong các
năm sau đó là không thể đạt được mà tình trạng đó nếu tiếp tục diễn ra sẽ làm cho
nguồn thu và nhiệm vụ chi của nước ta bị xáo trộn.
Trên đây là thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN, từ thực tiễn đã chũng ta đã thu được một số thành tựu đáng kể nhưng bên
cạnh đó, cũng phát sinh những mặt hạn chế không tránh khỏi.
2. Những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam
2.1. Những thành tựu đạt được:
Trước hết, việc nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo

Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho nguồn ngân sách nước ta đạt được ổn
định và không ngừng tăng lượng dự trữ qua các năm bởi do có sự cân đối trong
ngân sách nhà nước cho nên những nhiệm vụ chi cụ thể đã được thực hiện đến
cùng bởi sự bảo đảm từ nguồn vật chất đầu tư trong ngân sách. Từ đó, những
nguồn thu khác do nhiệm vụ chi chưa phát sinh hoặc chưa cần thiết nên đã được
đưa vào dự trữ trong ngân sách nhà nước để đáp ứng cho những nhiệm vụ chi mới
phát sinh.


Hai là, áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở
Việt Nam đã làm cho GDP của Việt Nam đạt tăng trưởng từ năm 2002 là 7%; năm
2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007 là
8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc
độ tăng trưởng rất cao (theo Những con số này
luôn tăng theo các năm là do chúng ta biết cân đối giữa nguồn thu và những nhiệm
vụ chi cụ thể, nói cách khác chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân sách nhà nước
để tập trung đầu tư chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân sách (có
khả năng thu hồi nguồn ngân sách cao và nhanh nhất). Điều này hoàn toàn phù hợp
với bản chất của nguyên tắc cân đối và quy định của pháp luật là chi đầu tư phát
triển chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhiệm vụ chi ngân sách.
Ba là, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
thời gian qua vào các khâu dự toán ngân sách, thu ngân sách, chi ngân sách nhà
nước và quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt
Nam đã góp phần làm tăng thu nhập bình quân đầu người ở mức 122,5
USD/người, tăng lên 400 USD/người năm 2000 và 637,3 USD/người năm 2005.
Con số này đã đạt được 820 USD/người năm 2007. Bên cạnh đó, số hộ giàu tăng
lên và số hộ nghèo giảm xuống. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ 58% năm 1993
giảm còn 37% năm 1998 tiếp tục giảm còn 28% năm 2004 và còn lại mức thấp
18,1% năm 2006. Đời sống của người dân được cải thiện, các vấn đề an sinh xã hội
được đảm bảo hơn (theo số liệu thống kê tại website tapchicongsan.org.vn). Điều

này do chúng ta đảm bảo được nguồn thu cân đối, các nhiệm vụ chi khác nhau ở
các lĩnh vực khác nhau được giải quyết tốt cho nên nguồn tài chính được sử dụng
để chi cho các lĩnh vực xã hội có bước lũy tiến, có nghĩa là trong hoạt động thu, chi
ngân sách nhà nước, chúng ta đã có sự cân bằng giữa nhiệm vụ chi cho các công
việc ở các lĩnh vực khác với nhiệm vụ chi cho các lĩnh vực xã hội (chi thường
xuyên) và nguồn chi cho các lĩnh vực xã hội này không ngừng được tăng lên do
chúng ta bảo đảm được nguồn thu cân đối nên việc chi cho các nhiệm vụ khác đã
được dự toán cụ thể cho nên nguồn tài chính còn lại sau khi đã dự toán cho các
nhiệm vụ chi khác nhau được dư ra với một lượng tương đối lớn mà chưa dự toán
cho nhiệm vụ chi thường xuyên trong đó có việc giải quyết các vấn đề xã hội, với
nguồn tài chính còn lại này đủ lớn để chúng ta có thể tập trung cung cấp cho nhiệm
vụ chi thường xuyên này được dồi dào hơn.


Bốn là, trong những năm qua, nước ta đã kiểm được mức bội chi NSNN ở
giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư
phát triển, đây là một thành công đáng ghi nhận trong vấn đề kiểm soát bội chi
NSNN ở nước ta. Theo thống kê của Cục thống kê (Bộ Tài chính), trong giai đoạn
từ năm 2001- 2007, bội chi NSNN được duy trì ở mức 5% GDP và thực hiện ở
mức 4,9%-5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi
ngoài dự toán. Mặc dù chịu sự tác động nghiêm trọng từ những cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính từ nền kinh tế thế giới nhưng do có sự triệt để áp dụng nguyên tắc
cân đối trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước cho nên tình hình thu, chi
NSNN của Việt Nam vẫn chuyển biến theo chiều hướng tích cực, thu không những
đủ chi cho thường xuyên mà còn dành được một phần cho đầu tư phát triển. Vì
vậy, mức thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp, đây chính là kết quả của
những nỗ lực to lớn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu,
chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
2.2. Một số hạn chế khi áp dụng nguyên tắc này:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong

hoạt động NNSN không tránh khỏi những hạn chế sau:
Thứ nhất, tính minh bạch trong cân đối NSNN chưa được vân dụng triệt để
khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời
gian qua cũng tồn đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc
để có những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong những năm sắp tới
như: số tiền vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được quản
lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên nên tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa
phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi nhưng mức bội chi này lại không
được tính vào bội chi NSNN. Do tính minh bạch trong cân đối ngân sách không
được vận dụng triệt để nên mặc dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong
quá trình thu, chi NSNN nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân
bằng cho ngân sách để thực hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy,
không thể định hướng, lên kế hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà nước cho
những năm ngân sách sau đó.


Thứ hai, thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là nước xuất
khẩu dầu thô nên thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN.
Thu từ tài sản, từ thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí còn tương đối hạn chế.
Theo bài viết Thánh thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân:
“Năm 2008, tỷ trọng thu dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu vẫn chiếm tới
48% tổng thu NSNN, điều này cho thấy thu NSNN phụ thuộc đáng kể vào thị
trường thế giới. Bên cạnh đó, thu từ các cơ sở kinh tế trong năm 2008 chiếm 39%
tổng thu NSNN, trong khi đó thu thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 3%, các khoản
phí, lệ phí và thu từ nhà đất chiếm khoảng 10%, do vậy nguồn thu trong nước cũng
rất nhạy cảm với các biến động kinh tế. Về chi NSNN, cũng do nền kinh tế nước ta
đang trong giai đoạn đầu phát triển nên cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất
cập, thể chế tài chính chưa hoàn thiện và do tốc độ tăng giá tương đối cao... nên áp

lực tăng chi NSNN là rất lớn. Ðặc biệt năm 2009, chi NSNN đã được điều chỉnh
tăng do Chính phủ thực hiện các chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm ngăn
chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Trong khi đó, nguồn thu NSNN bị
giảm, nhất là thu từ dầu thô và thu xuất nhập khẩu giảm do tác động của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu”. Chính vì thế, áp lực cân đối NSNN
là rất lớn. Thêm vào đó, với quy trình ngân sách nhà nước truyền thống, theo năm
và giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP nên mức bội chi thực tế luôn tiệm cận ở giới
hạn cho phép. Như vậy, khả năng điều chỉnh ngân sách theo các biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước rất hạn chế. Từ những tồn tại nêu trên cho thấy sự cân
đối trong hoạt động NSNN vẫn chưa được đảm bảo triệt để, xuất phát từ những
biến động của nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho nên nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN mặc dù được áp dụng nhưng nguyên tắc này vẫn không có khả
năng đảm bảo tuyệt đối cho sự cân đối ngân sách vì những biến động luôn xảy ra
mà không thể kiểm soát được mà nguyên tắc này lại có sự ổn định tương đối nên
không thể chi phối trong mọi trường hợp cụ thể mặc dù hoạt động thu, chi NSNN
đã có áp dụng nguyên tắc này.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC
CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM


Một là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nguyen tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước. Để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN
ở Việt Nam thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành
hướng dẫn cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản pháp luật
thuộc thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu, chi NSNN
ở trung ương và địa phương hiểu đúng bản chất từ đó áp dụng đúng và hợp lý
nguyên tắc này trong hoạt động của mình thì mới thu được sự cân đối trong
NSNN. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục nghiên cứu về
nguyên tắc này để có những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc này trong luật phù hợp
với những biến động của hoạt động ngân sách ở Việt Nam nhằm giúp nguyên tắc

này không lạc hậu so với những biến động của hoạt động NSNN mà luôn kiểm
soát tốt hoạt động thu, chi NSNN thông qua việc áp dụng nguyên tắc cân đối của
các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà nước...
Hai là: Nâng cao năng lực của cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện
thu – chi ngân sách nhà nước. Để nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước được thực hiện có hiệu quả thì việc nâng cao trình độ cũng như phẩm
chất của cán bộ, công chức đóng vai trò then chốt. Bởi vì, chính họ là những người
thực hiện nguyên tắc này và đảm bảo hoạt động thu – chi ngân sách nhà nước được
cân bằng. Do vậy, để nguyên tắc này thật sự phát huy được vai trò của nó thì cần
phải tiếp tục nâng cao năng lực của cán bộ, công chức thông qua những lớp tổ chức
nghiên cứu về nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức thật sự hiểu bản chất
của nó và tiến hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này thật sự phù hợp với bản
chất của nguyên tắc nhằm thu được kết quả cân đối tốt nhất
Ba là: Tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật
cần thiết và kém hiệu quả. Việc này nhằm giúp Nhà nước phát hiện và xử lý kịp
thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã đề ra, cũng như
nhanh chóng có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm mất
cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không
cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn
để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép
hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho
người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của
các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông chính xác, đầy
đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thông. Có sự phối


hợp giám sát chặt chẽ này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của
người sử dụng và quản lý NSNN.

KẾT LUẬN




×