Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “phép biện chứng duy vật”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.78 KB, 70 trang )

Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
KHOA CƠ BẢN I

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
VẬN DỤNG CÁC KIẾN THỨC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
ĐỂ HỌC TỐT MỘT SỐ NỘI DUNG:
“PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT”

GV hướng dẫn:

ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

Nhóm 6

******HÀ NỘI 12/2010*****
1
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

LỜI NÓI ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong một thế giới bao la, rộng lớn với biết bao sự vật,
hiện tượng đang phát triển không ngừng. Biết bao kiến kiến thức mà chúng ta còn
chưa tìm tòi, chiếm lĩnh được. Từ xưa, nhiều nhà khoa học đã đào sâu nghiên cứu
để giành lấy đỉnh cao tri thức của nhân loại với các phương pháp, con đường khác
nhau. Nhưng có lẽ lý luận về phép biện chứng duy vật đã để lại cho các ngành khoa
học một giá trị to lớn, thúc đẩy quá trình nhận thức, soi sáng thêm cho các ngành


khoa học. “Phép biện chứng duy vật” giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc, toàn diện
hơn về những kiến thức đã học trong nhà trường cũng như trong cuộc sống.
Triết học là một trong những môn khó, có tính trừu tượng cao. Sinh viên
Học viện đều là sinh viên khối A, chuyên về những môn Toán, Lý, Hoá hay Sinh
học. Bởi vậy những kiến thức về các ngành khoa học tự nhiên là quen thuộc với
sinh viên trong Học viện nhưng những lý luận trong quá trình học tập môn triết học
thì thật là nỗi “ám ảnh”, nhiều bạn cảm thấy chán, sợ hãi khi nói đến Triết học.
Nguyên nhân một phần cũng vì các bạn chưa gắn lý luận triết học với thực tiễn, với
những kiến thức khoa học tự nhiên sở trường, đặc biệt là gắn khoa học tự nhiên với
“phép biện chứng duy vật”.
Bản thân chúng tôi là những sinh viên đam mê tìm hiểu, nghiên cứu môn
học, muốn gắn những kiến thức Toán, Lý, Hoá, Sinh đã học được với những nội
dung của “phép biện chứng duy vật”, và muốn sử dụng những kiến thức Khoa học
tự nhiên đó để chứng minh, làm rõ cho những lý luận của Triết học. Do vậy, chúng
tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Vận dụng những kiến thức khoa học tự nhiên để
học tập tốt một số nội dung của phép biện chứng duy vật”.

2
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

Trong khuôn khổ hạn hẹp của một đề tài sinh viên Nhóm làm đề tài không
thể trình bày tất cả các nội dung của biện chứng duy vật mà chỉ vận dụng kiến thức
của khoa học tự nhiên như Toán - Lý - Hoá - Sinh để chứng minh một số nội dung
của phép biện chứng duy vật nhằm đưa ra một phương pháp học tập mới tích cực
hơn cho môn Triết học nói riêng và những môn Mác- Lênin nói chung.
Để hoàn thành được đề tài này, Nhóm làm đề tài muốn gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới cô giáo: Ths. Nguyễn Thị Hồng Vân, người đã trực tiếp hướng dẫn,

động viên tinh thần cho Nhóm trong suốt quá trình làm đề tài và các thầy cô giáo
trong Hội đồng phản biện đã cho Nhóm làm đề tài những ý kiến nhận xét, đóng góp
và chỉnh sửa rất quý báu.
Tuy vậy trong quá trình làm đề tài, mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn
vẫn không thể tránh được những sai sót. Do vậy Nhóm rất mong nhận được những
ý kiến quý báu của quý thầy cô cũng như của các bạn sinh viên Học Viện để đề tài
có thể hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2010

3
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu………………………………………………………………………….2
Chương 1. Lý luận chung về phép biện chứng duy vật…………………………......6
1.1. Khái quát về phép biện chứng duy vật…………………………………………6
1.1.1. Lịch sử phép biện chứng duy vật…………………………………………….6
1.1.2. Phép biện chứng duy vật………………………………………......................8
1.2. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật………………………..13
1.2.1. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật………………..........................13
1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản……………………………………………………15
1.2.3. Các quy luật cơ bản……………………………………………....................16
1.3 Vai trò của phép biện chứng duy vật…………………………………………..17
Chương 2. Vận dụng các kiến thức Khoa học tự nhiên để học tốt
một số nội dung của phép biện chứng duy vật…………………………………30

2.1 Mối quan hệ giữa Triết học và Khoa học tự nhiên…………………………….30
2.2. Một số vận dụng cụ thể……………………………………………………….31
2.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
Nguyên lý về sự phát triển…………………………………………………31
2.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản……………………………………………………41

4
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

*Cặp phạm trù nguyên nhân & kết quả……………………….......................41
*Cặp phạm trù bản chất & hiện tượng……………………………………….45
*Cặp phạm trù tất nhiên & ngẫu nhiên………………………… …………...49
*Cặp phạm trù cái chung, cái riêng & cái đơn nhất……………….................52
2.2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật……………….................54
*Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại…………………………...54
*Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập…………………….58
*Quy luật phủ định của phủ định…………………………………................61
Một số kinh nghiệm và khuyến nghị……………………………….......................67
1. Một số kinh nghiệm được rút ra
nhằm học tốt môn triết học – Mác Lênin……………………………………….67
2. Một số khuyến nghị…………………………………………………………....67
Kết luận………………………………………………………………....................69
Tài liệu tham khảo……………………………………………………....................70

5
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông



Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Khái quát về phép biện chứng duy vật
1.1.1. Lịch sử phép biện chứng
Phép biện chứng
Phép biện chứng là thuật triết học ngữ Hy Lạp. Cách hiểu của triết học Hy Lạp cổ
đại về phép biện chứng là nghệ thuật phát hiện ra mâu thuẫn trong lập luận của đối
phương và nghệ thuật bảo vệ lập luận của mình. Họ cho rằng tri thức là chân lý thì
không có mâu thuẫn. Quá trình đi tới chân lý là quá trình giải quyết mâu thuẫn.
Người đầu tiên sử dụng thuật ngữ phép biện chứng theo nghĩa này là Xôcrat. Còn ở
Hêraclit thể hiện khá rõ tư tưởng vận động và phát triển của thế giới. Lênin coi
Hêraclit là nhà biện chứng đầu tiên trong lịch sử.
Cùng với sự vận động và phát triển của thực tiễn, thuật ngữ phép biện chứng
ngày càng được bổ sung nội dung mới. Đến Hêghen thuật ngữ phép biện chứng đã
được phát triển ở trình độ cao và khá sát hợp với nghĩa hiện đại. Tuy là phép biện
chứng duy tâm nhưng Hêghen đã khái quát được những quy luật cơ bản của phép
biện chứng, dù đó là những quy luật tinh thần nhưng thể hiện rõ tư tưởng về vận
động và phát triển.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển một cách sáng tạo những giá trị triết học đã có
trong lịch sử, C.Mác, Ph Ăngghen và V.I.Lênin đã hoàn thiện thuật ngữ phép biện
chứng, làm rõ nó trở thành phép biện chứng duy vật, trở thành khoa học phản ánh
những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển tự nhiên, xã hội và nhận thức .

Hình thức và nội dung của phép biện chứng

6

Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

Hình thức và nội dung của phép biện chứng đầu tiên thể hiện trong nhiều học
thuyết của Triết học Hy Lạp cổ đại. Đặc điểm chủ yếu của phép biện chứng này là
tự phát và ngây thơ. Tự phát vì các nhà triết học nghiên cứu tự nhiên nhằm đưa ra
bức tranh chung về thế giới, chỉ ra nguồn gốc của nó, chứ không có chủ định
nghiên cứu phép biện chứng. Vì vậy, họ mới nêu lên được một số yếu tố báo cáo lẻ
tẻ, rời rạc, chưa thành hệ thống lý luận, nên còn ít giá trị nâng cao tính tự giác của
con người, chưa đủ sức chỉ đạo thực tiễn. Ngây thơ vì các kết luận của họ thường
được rút ra từ sự cảm thụ trực tiếp thế giới xung quanh, vì họ quan niệm mọi sự
vật được sinh ra từ một hay vài nguyên tố đầu tiên, mọi sự vận động đều bắt nguồn
từ nguyên tố đó… Dù vậy, vào thời kỳ này, giá trị của phép biện chứng này là vô
thần, chống phép siêu hình và tôn giáo.
Hình thức và nội dung của phép biện chứng thứ hai thể hiện trong nhiều học
thuyết triết học cổ điển Đức. Đặc điểm của phép biện chứng này là duy tâm khách
quan. Người sáng lập phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức là Cantơ. Hạt nhân
hợp lý trong nội dung phép biện chứng chủ Cantơ là sự thống nhất biện chứng của
các mặt đối lập là động lực của sự vận động và phát triển, nhưng ông coi động lực
ấy là động lực “Thuần tuý” có trước vật chất. Hạt nhân hợp lý nhất trong phép biện
chứng của Phíchtơ coi nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn
và sự phát triển theo ông chỉ tồn tại trong ý thức. Hạt nhân hợp lý trong phép biện
chứng của Hêghen thể hiện ở ba mặt: nó vượt qua chủ nghĩa duy vật tầm thường;
nó thể hiện được những hình thức chung của vận động; nó khái quát được những
quy luật chung của phép biện chứng. Sai lầm có tính nguyên tắc trong phép biện
chứng của Hêghen coi biện chứng của ý niệm sinh ra biện chứng của sự vật. Vì
vậy, ông coi thế giới khách quan là sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối”.
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó, dựa trên cơ

sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử
loài cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng
7
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, về sau được
V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX, đem lại cho phép biện chứng một hình thức
mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế
của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng
duy tâm khách quan thời cận đại. Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản
chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới. Phép biện chứng duy vật trở
thành một khoa học. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ
thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh
đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế Ph.Ăngghen đã
định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và
của tư duy”1.
1.1.2. Phép biện chứng duy vật
Điều kiện, tiền đề ra đời phép biện chứng duy vật.
Tính tất yếu phải chuyển sang phép biện chứng duy vật xuất hiện giữa thế kỷ
XIX, bởi vào thời điểm đó, phép biện chứng hiện thực thể hiện tính xác thực của
mình ngày càng rõ trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và trong nhận thức C.Mác
và Ph Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật thể hiện rõ nét trong bộ “Tư
bản” trong “Chống Đuy rinh” và trong “Biện chứng của tự nhiên”.

Tiền đề trước hết là các điều kiện kinh tế – xã hội thời đó: là thời kỳ phát triển
của chủ nghĩa tư bản nhờ tác động của cuộc cách mạng công nghiệp; thời kỳ bộc lộ
những mâu thuẫn xã hội vốn có của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa
1

C.Mác-Ph.Ăngghen: toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, t.20, tr.201

8
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

giai cấp tư sản và vô sản; thời kỳ mà giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai
cấp cách mạng mà giai cấp vô sản đóng vai trò là lực lượng tiên phong trong cuộc
đấu tranh cho nền dân chủ. Thực tiễn xã hội đòi hỏi việc nhận thức bản chất các
quá trình xã hội, đòi hỏi phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời của
chủ nghĩa Mác nói chung, của phép biện chứng duy vật nói riêng là sự giải đáp đòi
hỏi khách quan của thực tiễn xã hội trong thời kỳ đó.
Thứ hai: những phát sinh mới của khoa học tự nhiên, đặc biệt là định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng, lý thuyết tế bào và quan điểm tiến hoá của Đácuyn
đã làm bộc lộ tính hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình
trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát
triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Thứ ba: Sự kế thừa những học thuyết triết học của các đại biểu tiêu biểu như
Hêghen và Phoiơbach; học thuyết kinh tế chính trị học với những đại diện xuất sắc
là A.Smith và Đ.Ricacđô; đó là học thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng với những
đại biểu là Xanhximông và S.Phuriê và R.Ôoen. Trên cơ sở những tiền đề ấy, phép
biện chứng duy vật ra đời trở thành môn khoa học về các quy luật chung nhất của
sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của nhận thức.


Đặc điểm của phép biện chứng duy vật
Sự khác nhau căn bản giữa phép biện chứng duy vật với các hình thức và nội
dung của phép biện chứng đã có trong lịch sử ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất; Điểm xuất phát của phép biện chứng duy vật là quan điểm xây
dựng một nhận thức khoa học về thực tiễn. Nhiệm vụ trung tâm của quan điểm này
là phải có một nhận thức duy vật về lịch sử. Những nguyên lý cơ bản của nhận thức
này được C.Mác và Ph.Ăngghen làm sáng tỏ mình trong tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức”. Trên lập trường của những nguyên lý duy vật lịch sử C.Mác và Ph.Ăngghen
9
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

đã phê phán tư tưởng duy tâm về lịch sử của Phoi-ơ- bắc, của những người xã hội
chủ nghĩa không tưởng. Đồng thời, xuất phát từ nguyên tắc thống nhất giữa chủ
nghĩa duy vật trước đó bằng cách vạch rõ tính trực quan, coi là khuyết điểm của
chủ nghĩa duy vật cũ.
Thứ hai, cơ sở xã hội của phép biện chứng duy vật khi nó xuất hiện là các
tầng lớp xã hội bị áp bức và bóc lột, đặc biệt là giai cấp vô sản. Một đòi hỏi khách
quan của lực lượng xã hội này là phải nhận thức bản chất của các quá trình xã hội,
phải có một lý luận khoa học soi sáng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba: phép biện chứng duy vật mang tính chất phê phán và cách mạng.
Tính chất phê phán và cách mạng là bản chất của phép biện chứng duy vật. Phép
biện chứng duy vật cho rằng thế giới không tồn tại tuyệt đối mà có tính chất quá độ
giữa các sự vật, hiện tượng quá trình và của ngay trong lòng sự vật, hiện tượng, quá
trình của thế giới; nó không tồn tại ngoài quá trình phát triển vô cùng tận từ thấp
đến cao. Đồng thời phép biện chứng duy vật trong khi đưa ra quan niệm về tính
hợp lý của hiện tồn và cũng bao hàm trong nó quan niệm về tính diệt vong tất yếu

của tính hiện tồn đó, nó chống lại mọi quan điểm siêu hình, máy móc, bảo thủ, trì
trệ. Trong lĩnh vực xã hội, phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích xã hội hiện
tại (xã hội tư bản), mà còn bao hàm trong nó tư tưởng làm thay đổi, cải tạo nó bằng
cách mạng.
Thứ tư, đặc trưng mới của phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa
phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật, sự thống nhất giữa phép biện chứng với lý
luận nhận thức và lôgic học biện chứng.
Khắc phục khiếm khuyết, hạn chế về sự tách rời giữa chủ nghĩa duy vật với phép
biện chứng trong lịch sử triết học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo phép biện
chứng duy tâm của Hêghen, giải thích nó trên lập trường duy vật. Đồng thời C.Mác
và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa duy vật cũ trên cơ sở các thành tựu khoa học tự
10
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

nhiên và thực tiễn xã hội. Đến giữa thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng tạo
ra phép biện chứng duy vật. Trong phép biện chứng duy vật, các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó với nhau, tạo nên lý luận thống nhất là lý
luận biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật còn là lý luận nhận thức. Nhận thức không phải là
hành động tức thời, giản đơn, máy móc và thụ động mà là quá trình biện chứng,
tích cực, sáng tạo. Đó là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Vì vậy, Lênin căn dặn “Trong nhận
thức cần phải suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng coi nhận thức là có
sẵn, là bất di bất dịch mà phải xem sự hiểu biết nảy sinh từ sự không đầy đủ đến
đầy đủ” . Nghĩa là triết học Mác xít áp dụng phép biện chứng vào lý luận nhận
thức.
Phép biện chứng còn là logic học biện chứng. Logic học biện chứng là khoa

học về các quy luật vận động của tư duy. Nhưng các quy luật của tư duy chẳng qua
là sự phản ánh các quy luật tồn tại. Ph.Ăngghen cho rằng “biện chứng gọi là khách
quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan tức
là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên” 2.
Vì vậy các quy luật của phép biện chứng duy vật cũng đồng thời là quy luật của
logíc biện chứng.
Thứ năm: phép biện chứng duy vật không chỉ là “Khoa học của các khoa
học” như phép biện chứng của Hêghen mà nó được xem là sự liên minh ngang
hàng với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể cung cấp cho phép biện chứng
duy vật nguồn tư liệu để khái quát ở trình độ phổ biến, cao nhất. Còn phép biện
chứng duy vật đem lại cho các khoa học cụ thể phương pháp phổ quát của tư duy.
Thứ sáu: Về bản chất, phép biện chứng duy vật mang tính sáng tạo. Nó
không phải là đỉnh điểm của sự phát triển, mà là hệ thống lý luận luôn biến đổi, đổi
11
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

mới theo mức độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức. Các nguyên lý
lý luận chung nhất của phép biện chứng duy vật là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển. Các hình thức chung nhất của tư duy, phản ánh những đặc
trưng phổ quát nhất của hiện thực khách quan là các cặp phạm trù. Phản ánh những
quá trình vận động và phát triển cơ bản nhất của thế giới hình thành nên các quy
luật cơ bản của phép biện chứng.

Các yếu tố, cấu trúc và chức năng của phép biện chứng duy vật
Các yếu tố của phép biện chứng duy vật mang tính chất bản thể luận ( nội dung)
và tính chất nhận thức luận (hình thức). Tính bản thể luận như: sự vật, hiện tượng
với tính cách là hiện thực tồn tại khách quan là sự thống nhất của các mặt đối lập,

… Các yếu tố nhận thức luận như: các quy luật, các phạm trù,…
Với tính cách là một hệ thống và ngày càng mở rộng, phép biện chứng có những
chức năng đặc trưng riêng cho mình, tương ứng với các yếu tố và cấu trúc của nó.
Hai chức năng cơ bản của phép biện chứn duy vật: chức năng về thế giới quan và
chức năng phương pháp luận.
• Chức năng thế giới quan còn được gọi là chúc năng phản ánh, thông tin. Trong
phạm vi chức năng thế giới quan, ta có thể phân chia thành chức năng bản thể
luận và chức năng nhận thức luận.
• Chức năng phương pháp luận cung cấp những nguyên tắc và sự định hướng
chung nhất cho khoa học cụ thể cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Giữa chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Ngoài hai chức năng cơ bản trên, phép biện cứng duy vật còn
thực hiện chức năng giá trị luận. Giá trị là hệ thống những chuẩn mực, những lý
tưởng mà con người khao khát vươn tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình.
12
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

1.2. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật.
* Phép biện chứng duy vật là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới,
là hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để
con người đánh giá và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình. Nó là khoa
học về các quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy về các quy luật hệ thống. Do vậy, việc nghiên cứu và áp dụng phép biện
chứng duy vật không thể không mang tính hệ thống.
* Phép biện chứng duy vật là một học thuyết khoa học, và cũng như bất kỳ một
học thuyết khoa học, nó chứa đựng trong mình tính hệ thống chặt chẽ. Với tính
cách là một hệ thống, phép biện chứng có nội dung rất phức tạp và đa dạng, có

nhiều yếu tố, nhiều cấp độ và nhiều chức năng. Điều đó không phải ngẫu nhiên, vì
nó phản ánh ngày càng sâu rộng thế giới hiên thực. Theo nghĩa ấy, Lê Nin viết:
“Phép biện chứng với tính cách là nhận thức sinh động, nhiều mặt ( số các mặt
không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vô số các khía cạnh trong cách tiếp cận,
đi gần với hiện thực”.

1.2.1. Hai nguyên lý của Phép Biện chứng duy vật
Hai nguyên lý đó là: “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và “Nguyên lý về sự
phát triển”.
* Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình
khác nhau. Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau
hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại,
thì nhân tố gì quy định sự liên hệ đó ?
Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật và hiện tượng tồn
tại tách rời nhau, không có mối liên hệ. Có chăng cũng chỉ là sự liên hệ hời hợt bên

13
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

ngoài, và nếu họ thừa nhận sự liên hệ thì lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn
nhau giữa các hình thức liên hê khác nhau
Ngược lại, những người theo quan điểm biện chứng xem thế giới như là một
chỉnh thế thống nhất. Các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó
vừa tách biệt nhau vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau, và
cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất
của thế giới do vậy các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau
như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng khác nhau của thế giới vật

chất, chúng có liên hệ đa dạng, phong phú
*Sự liên hệ và tác động qua lại làm cho các sự vật vận động và phát triển. “ Phát
triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ
thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”.
Theo quan điểm đó, phát triển là trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá
trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất, nhờ vậy, làm
tăng cường tính phức tạp của sự vật và của sự liên hệ, làm cho cả cơ cấu tổ chức,
phương thức tồn tại và vận động của sự vật cùng chức năng vốn có của nó ngày
càng hoàn thiện hơn.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về
lượng dẫn tới sự thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc và
nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự
vật quy định. Phát triển, trong quan điểm duy vật biện chứng, là quá trình tự thân
của mọi sự vật và hiện tượng. Do vậy, phát triển là một quá trình khách quan độc
lập với ý thức con người.
Sự phát triển không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến có
nghĩa là sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.

14
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ hai nguyên lý trên là phương
pháp biện chứng trong việc nhận thức và hoạt động thực tiễn Ăng ghen viết: “ Phép
biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng,
trong sự giàng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng ”2 Lênin
cũng viết: “ Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của

những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó”3.

1.2.2. Các cặp phạm trù cơ bản
Nội dung của phép biện chứng duy vật còn bao gồm các cặp phạm trù cơ bản:
+ cặp phạm trù cái riêng - cái chung
+ tất nhiên - ngẫu nhiên
+ nguyên nhân - kết quả
+ bản chất - hiện tượng
+ khả năng - hiện thực
+ nội dung - hình thức.
Các cặp phạm trù cho chúng ta phương pháp luận thực hiện quan điểm phát triển
gắn liền với quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn:
* Cặp phạm trù cái riêng và cái chung, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện
tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp như: Phân tích và
tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, khái quát hoá và trừu tượng hoá ==> rút ra được
mối liên hệ bản chất==> hiểu được toàn bộ các mối liên hệ theo một hệ thống nhất
định.

2

C.Mác-Ph.Ăngghen: toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004, t.20, tr.38

3

. V.I.Lênin: toàn tập, Nxb.Tiến bộ Mátxcova, 1981, t.42, tr.359

15
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông



Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

* Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực lại là cơ sở
phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát
triển là một quá trình tự nhiên.
* Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng
các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của
các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1.2.3. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật:
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ
đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm
phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện vạch ra nguồn gốc, động
lực, cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới.

* Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi
về chất và ngược lại: hay còn gọi là quy luật lượng - chất.
Quy luật này phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển, là cơ sở
phương pháp luận chung để nhận thức và thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật
với 3 yêu cầu cơ bản là:
+ Thường xuyên và tăng cường tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi
về chất. Chống chủ nghĩa duy ý chí muốn đốt cháy giai đoạn.
+ Khi lượng được tích luỹ đến giới hạn độ, phải mạnh dạn thực hiện bước nhảy
vọt cách mạng, chống thái độ bảo thủ, trì trệ.
+ Vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt để đẩy nhanh quá trình phát triển

* Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập:

16

Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

Còn được gọi là quy luật mâu thuẫn. Quy luật này là hạt nhân của phép biện
chứng, nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển, phản ánh quá trình đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu
thuẫn mà yêu cầu cơ bản của nó là phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật,
trước hết là mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và
quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu
thuẫn. Tuy nhiên, hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn
cụ thể và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

* Quy luật phủ định của phủ định.
Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức xoáy ốc
thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo mọi
phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi
phải tôn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê phán,
chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư vô với quá
khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa học để tiếp cận
lịch sử và tiên đoán, dự kiến những hình thái cơ bản của tương lai.
Tóm lại, mỗi nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng. Vì vậy, chúng phải được vận dụng tổng hợp
trong nhận thức khoa học thực tiễn cách mạng.
1.3. Vai trò của phép biện chứng duy vật.

Phép biện chứng duy vật là công cụ nhận thức chung nhất đối với khoa học
Phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật vận động và phát triển

chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, do đó nó có thể giúp nhà khoa học khi
bắt tay nghiên cứu đối tượng của mình không phải xuất phát từ mảnh đất trống
17
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

không mà biết vận dụng từ những thành quả của tư duy nhân loại để xác định được
con đường nghiên cứu, có phương hướng đặt vấn đề cũng như giải quyết vấn đề
tránh được những sự lầm lạc hay mò mẫm trong quá trình nghiên cứu khoa học của
bản thân.
Vai trò các nguyên tắc của phương pháp biện chứng được rút ra từ lý luận biện
chứng duy vật là những yêu cầu nhất định đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn
của nhà khoa học. Cụ thể:
* Nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện là nguyên tắc được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
Với tư cách là phương pháp luận trong nhận thức các sự vật, hiện tượng,
nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng:
• Trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính
khác nhau của chính sự vật hiện tượng đó.
• Trong mối quan hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác. Đề cập tới
nội dung của phương pháp nhận thức sự vật. V.I.Lênin cho rằng “Muốn thực
sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất
cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”4.


Để nhận thức sự vật, hiện tượng nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi xem xét
sự vật hiện tượng trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mỗi

người, mỗi thời đại trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định chỉ phản ánh được
một số lượng hữu hạn những mối liên hệ cho nên tri thức đạt được về sự vật
chỉ là tương đối không đầy đủ, ý thức được điều đó sẽ tránh được sự tuyệt

4

V.I.Lênin: toàn tập, Nxb.Tiến bộ Mátxcova, 1981, t.42, tr.364

18
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

đối hoá những tri thức đã có về sự vật tránh được xem đó là những chân lý
bất biến.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện ở chỗ trong nhận thức
luôn chú ý tới nhiều mặt nhiều mối liên hệ đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ đến chỗ khái quát để rút
ra bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng đó, quan điểm
toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải mà đòi hỏi phải làm nổi bật
cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện tượng
Quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận để nhận thức sự vật sẽ phải trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ
ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của
sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật và cuối cùng khái
quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức cơ bản nhất của sự vật
*Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc phát triển được rút ra từ nguyên lý về sự phát triển. Nguyên tắc
này đòi hỏi khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động trong

sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
Quá trình phát triển của sự vật thường đồng thời có những biến đổi tiến lên
và có cả biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn khi bằng tư duy khoa học
chủ thể nghiên cứu khái quát làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến
đổi khác nhau đó – tức là vừa thấy sự vật như là cái đang có, vừa phải nắm được
khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó.
Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là quá trình biện chứng đầy mâu
thuẫn. Vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình nhận thức đòi hỏi phải thấy sự
quanh co phức tạo của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Có quan
19
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

điểm khoa học như vậy sẽ tránh được sự giao động bi quan khi gặp khó khăn phức
tạp. Vận dụng quan điểm phát triển với tính cách là nguyên tắc phương pháp luận
nhằm thúc đẩy sự vật phát triển đúng quy luật đòi hỏi chúng ta tìm ra mâu thuẫn
của sự vật hiện tượng, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn chỉ
bằng cách đó chúng ta mới góp phần vào sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng của quá trình hiện thực và tư duy được thực hiện
bằng con đường thông qua sự tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất thông
qua phủ định của phủ định. Vận dụng quan điểm phát triển vào cải tạo sự vật đòi
hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực của mình trong việc hiện thực hoá hai quá trình
nêu trên.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
Mọi sự vật đều tồn tại trong không gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn
của không gian, thời gian đó. Do vậy, chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi
xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra như hoàn cảnh lịch sử, cả
khách quan và chủ quan để từ đó có những giải pháp, những phương tiện để giải

quyết những vấn đề đã nảy sinh. Ví dụ như khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình
hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc vào những năm 60 - 70 của thế kỷ XX: Ta phải
đặt trong hoàn cảnh miền Bắc phải đồng thời làm hai nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng Xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và giải phóng Miền Nam. Ta lại chưa có kinh
nghiệm trong xây dựng CNXH, khó khăn trong cuộc kháng chiến ở Miền Nam.
Chúng ta còn bị ảnh hưởng của mô hình CNXH dập khuôn, đã được xác lập ở một
loạt các nước XHCN đi trước. Do vậy nếu không áp dụng Nguyên tắc Lịch sử-cụ
thể để soi xét thì: một là, sẽ không thấy được một số giá trị tích cực của mô hình
HTX trong điều kiện lịch sử đó; hai là, sẽ không thấy hết những nguyên nhân bên
trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như vậy khi hoàn cảnh
đất nước đã thay đổi .
20
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

Ngoài ba nguyên tắc cơ bản trên phép biện chứng duy vật còn giúp cho
chúng ta những nguyên tắc phương pháp luận khác như:
*Nguyên tắc đi từ “cái riêng” đến “cái chung” và ngược lại, nguyên tắc
của sự thống nhất giữa quy nạp và diễn dịch
Nguyên tắc này được rút ra từ các phạm trù cái riêng và cái chung với tư
cách là phương pháp luận trong nhận thức, nguyên tắc này yêu cầu:
Nhận thức đi từ cái riêng đến cái chung bằng con đường suy luận quy nạp, từ
cái chung đến cái riêng bằng con đường suy luận diễn dịch là hai nhân tố của
phương pháp nhận thức biện chứng thống nhất hay nói đúng hơn là hai yêu cầu liên
hệ hữu cơ với nhau của nguyên tắc phương pháp nhận thức biện chứng.
Tri thức nhận thức qua suy luận quy nạp thường là gần đúng chưa chắc chắn
vì ở đây kết luận chúng được hình thành trên cơ sở của sự lặp đi lặp lại đơn giản.
Để khắc phục nhược điểm của quy nạp, cần phải sử dụng phương pháp suy luận

diễn dịch. Những kết luận thu được bằng con đường này (tức là kết quả suy luận
theo ba đoạn) chỉ đúng với điều kiện và những tiền đề của nó phải đúng. Quy nạp
và diễn dịch là hai hình thức tư duy độc lập nhưng lại liên hệ mật thiết với nhau là
tiền đề cho nhau. Nhờ khái quát từ các tư liệu đã tích luỹ quy nạp chuẩn bị căn cứ
để dự kiến về nguyên nhân tồn tại một mối liên hệ tất yếu của các sự vật, hiện
tượng, nghiên cứu để kiểm tra tính chân thực của các dữ kiện đó. Còn diễn dịch thì
luận chứng về mặt lý thuyết cho những kết luận thu được bằng con đường quy nạp,
giải trừ tính không đúng đắn của các kết luận và biến chứng thành tri thức đáng tin
cậy. Ph.Ăngnghen cho rằng quy nạp và diễn dich phải đi đôi với nhau một cách tất
nhiên, không được đề cao cái này coi nhẹ cái kia, phải tìm cách vận dụng mỗi cái
cho đúng chỗ và chỉ có thể làm như vậy nếu người ta không quên rằng chúng liên
hệ và bổ sung cho nhau.

21
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

*Nguyên tắc quyết định luận.
Nguyên tắc quyết định luận hình thành trên cơ sở học thuyết về mối liên hệ
và tính quy định nhân quả phổ biến của tất cả các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Với tính cách là phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn, nguyên tắc
quyết định luận cho rằng mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và
tiêu vong nên không có vấn đề có hay không có nguyên nhân của một hiện tượng
nào đó mà chỉ có vấn đề các nguyên nhân ấy đã được phát hiện hay chưa được phát
hiện mà thôi. nhiệm vụ của nhận thức là đi tìm những nguyên nhân chưa được phát
hiện để có thể hiểu đúng hiện tượng. Trong quá trình đi tìm nguyên nhân chưa được
phát hiện để có thể hiểu đúng hiện tượng. Trong quá trình đi tìm nguyên nhân cần

lưu ý:
+ Mối liên hệ nhân – quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức
con người nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở chính thế giới các hiện
tượng chứ không thể ở ngoài đó.
+ Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một
hiện tượng nào đó cần tìm trong những mặt sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
+ Dấu hiệu đặc trưng của nguyên nhân trong mối liên hệ với kết quả là
nguyên nhân sinh ra kết quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc
biệt chú ý đến dấu hiệu đặc trưng ấy.
+ Một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong qúa trình
xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đó, cần hết sức tỷ mỉ, thận trọng
vạch ra cho được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ của

22
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

chúng trong việc làm nảy sinh hiện tượng để trên cơ sở đó có thể xác định đúng về
nguyên nhân sinh ra hiện tượng.
+ Một hiện tượng trong mối liên hệ này là kết quả trong mối liên hệ khác là
nguyên nhân nên để hiểu tác dụng của hiện tượng ấy cần xem xét nó trong những
quan hệ mà nó là kết quả.
+ Mối liên hệ nhân quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vào đó để hành
động. Trong qúa trình hành động chúng ta cần chú ý: muốn loại bỏ một hiện tượng
nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó; muốn cho hiện tượng ấy xuất
hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh
ra nó phát sinh tác dụng. Vì hiện tượng này có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân

tác động nên trong hoạt động thực tiễn cần chọn phương pháp hành động thích hợp
chứ không nên dập khuôn; vì nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân bên trong giữ
vai trò quyết định trong sự xuất hiện vận động tiêu vong của hiện tượng, nên trong
hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào nguyên nhân chủ yếu nguyên nhân bên
trong; để đẩy nhanh hoặc loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội nào đó, cần
làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều hoặc ngược chiều với
chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
*Nguyên tắc chất và lượng liên hệ lẫn nhau
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại ta rút ra được nguyên tắc chất và lượng liên hệ với nhau. Nguyên
tắc này đặt ra yêu cầu trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn đó là cần
phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật
thì khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra
bước nhảy về chất của sự vật, vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu
khuynh. Tả khuynh là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, không tích
lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là
23
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù
lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa
về lượng.
Để có tri thức đầy đủ về sự vật ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất
của nó. Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của các sự vật chỉ trở
nên đúng đắn và được làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa
chất và lượng của các sự vật đó.
Vì sự thay đổi về lượng và thay đổi về chất có mối quan hệ biện chứng với

nhau cho nên trong hoạt động thực tiễn phải đựa trên sự hiểu biết đúng đắn về vị
trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay đổi nói trên. Trong sự phát triển xã hội phải
biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất từ những
thay đổi mang tính tiến hoá sang thay đổi mang tính cách mạng.
+ Xem xét tiến hoá và cách mạng trong mối quan hệ biện chứng của chúng
là một trong những nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược
và sách lược cách mạng. Hiểu đúng mối quan hệ đó là cơ sở để chống chủ nghĩa cải
lương, chủ nghĩa xét lại hữu khuynh cũng như chủ nghĩa tả khuynh.
Nắm vững nội dung của quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi
về lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò
to lớn trong công cuộc đổi mới. Theo tính chất ý nghĩa và phạm vi của công cuộc
đổi mới là quá trình mang tính chất cách mạng. Việc thực hiện thành công quá trình
đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo điều kiện để thực hiện thành
công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo nên
bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay là kết quả của quá trình thay đổi về
lượng thích hợp, ở đây mọi sự nôn nóng chủ quan, ảo tưởng đều có thể gây ra tổn
thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới của đất nước.

24
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


Vận dụng các kiến thức khoa học tự nhiên để học tốt một số nội dung “Phép biện chứng duy vật”

*Nguyên tắc mâu thuẫn
Muốn xem xét khách thể trong sự vận động và phát triển phát hiện ra các
quy luật quyết định sự chuyển hoá từ trạng thái này sang trạng thái khác thì phải
cần vạch ra nguồn gốc những sự biến đổi xảy ra trong khách thể. Nguồn gốc vận
động và phát triển của khách thể là những khuynh hướng vận động bên trong mà
khách thể vốn có và những mâu thuẫn giữa các khách thể là sự đấu tranh giữa các

mặt đối lập. V.I.Lênin nhấn mạnh “điều kiện của một sự nhận thức về tất cả các
quá trình của thế giới trong “sự tự vận động” của chúng trong sự phát triển tự phát
của chúng trong đời sống sinh động của chúng là sự nhận thức chúng với tính cách
là sự thống nhất của các mặt đối lập “ Yêu cầu trên của phương pháp nhận thức
biện chứng biểu hiện trong nguyên tắc mâu thuẫn. Với tính cách là nguyên tắc
phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn nguyên tắc mâu thuẫn
yêu cầu.// chả hiểu gì cả ! Ko chuyển đc thì del nhá Thịnh
Trong quá trình nhận thức sự vật, việc nhận thức mâu thuẫn của nó là rất
quan trọng bởi vì trong tiến trình nhận thức mâu thuẫn, trước hết chúng ta nhận
thức sự vật như một thực thể đồng nhất. Tiếp đó khi phân tích sâu hơn ta phát hiện
ra sự khác nhau trong những khác nhau đó lại thấy những đối lập. Nghiên cứu sự
tác động qua lại giữa các mặt đối lập ta biết được mâu thuẫn của nó và biết được
nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập theo dõi
quá trình phát sinh phát triển của các mặt đó, tìm hiểu những điều kiện làm cho
những mặt đó biến đổi; đánh giá đúng tính chất và vai trò của từng mặt và của cả
mâu thuẫn trong từng giai đoạn; xem xét những mặt đối lập có những yếu tố gì
chung; xem mâu thuẫn đó có gì giống với những mâu thuẫn khác và có những đặc
điểm gì riêng, khác với những mâu thuẫn khác.

25
Khoa Cơ bản I - Học Viện Công nghệ Bưu Chính Viễn Thông


×