Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quyền nhân thân được quy địnhtrong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.9 KB, 17 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
---------------------------

MÔN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Đề bài số 06: Sưu tầm 02 vụ việc liên quan đến hành vi xâm
phạm các quyền nhân thân của tác giả. Vận dụng các kiến thức
đã học để phân tích và đưa ra quan điểm của nhóm về hướng
giải quyết.
LỚP : NO2- NHÓM 06

Hà Nội, 2012


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Quyền tác giả là một vấn đề mới và đang rất được quan tâm hiện nay. Quyền tác giả
là quyền lợi mà pháp luật quy định bảo vệ cho sản phẩm trí tuệ của mỗi cá nhân. Tìm
hiểu về quyền tác giả cụ thể là quyền nhân thân của tác giả, bài viết là 2 vụ việc liên
quan đến hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả , đưa ra quan điểm, hướng
giải quyết cho vụ việc qua đó kiến nghị biện pháp hoàn thiện quy định pháp luật về
quyền nhân thân của tác giả.

NỘI DUNG
I.

Khái quát các quy định pháp luật về quyền nhân thân của tác giả.
1. Quyền nhân thân của tác giả

Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định


trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Quyền nhân thân của tác giả được quy định tại Điều 19 LSHTT gồm các quyền: Đặt
tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố, phổ biến hoặc cho người khác
công bố, phổ biến tác phẩm của mình; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho
2

2


phép người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức
nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
2. Phân loại quyền nhân thân của tác giả.
a. Quyền nhân thân tuyệt đối.
Quyền nhân thân tuyệt đối là quyền chỉ thuộc về tác giả, gắn liền và không thể
chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân tuyệt đối được bảo hộ vĩnh viễn, vô
thời hạn.
- Quyền đứng tên tác giả trên bản gốc và bản sao tác phẩm. Tác giả có quyền
lựa chọn việc đứng tên thật, bút danh hoặc có thể chủ động không đứng tên, để tác
phẩm của mình ở “tình trạng khuyết danh”. Quyền này của tác giả là quyền yêu cầu
được ghi tên tác giả trên bản gốc, bản sao tác phẩm, quyền được nêu tên khi biểu
diễn, phát sóng tác phẩm.
- Quyền đặt tên tác phẩm là quyền quan trọng của tác giả để “khai sinh” cho tác
phẩm của mình. Cùng với các yếu tố khác, quyền đặt tên là một yếu tố để cá biệt
hóa tác phẩm. Ngoại lệ : Không áp dụng với tác phẩm dịch.
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm (khoản 4 Điều 19, Điều 22 Khoản 3 Nghị
định 100/ 2006 NĐ-CP,) là quyền ngăn cấm hoặc cho phép người khác khai thác,
sửa chữa tác phẩm của mình. Quyền này còn ngăn chặn người khác xuyên tạc, xâm
phạm tới uy tín, danh dự của mình. Người biên tập có thể thực hiện việc sửa chữa

tác phẩm, do sự thay đổi các chuẩn mực xã hội, ngôn từ và chính tả, nhưng phải được
sự đồng ý của tác giả. Ngoại lệ : Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy, trích để đưa tin tức;
Làm tác phẩm phái sinh.
b. Quyền nhân thân tương đối.
Quyền nhân thân tương đối là quyền có thể chuyển giao được, có thời hạn bảo hộ.
Quyền nhân thân tương đối gắn liền với quyền tài sản, việc chuyển giao quyền nhân
thân tương đối sẽ dẫn đến nghĩa vụ thực hiện quyền tài sản. Quyền nhân thân tương
đối là quyền:
3

3


- Quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm của mình.
Việc công bố hay chưa công bố tác phẩm tùy thuộc vào quyết định của tác giả.
II.

Vụ việc về hành vi xâm phạm các quyền nhân thân của tác giả.
1. Vụ việc số 01
a. Nội dung vụ việc
Đây là vụ việc liên quan đến hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả

Nguyễn Đức Quyền được đăng trên mục Làng văn của báo điện tử VnExpress ngày
19/09/2005.1
Nội dung vụ việc như sau:
Trên tạp chí Tản Viên Sơn số 05/2005 của Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT)
Hà Tây có bài “Đọc lại bài thơ Ngắm trăng…” của tác giả Thi Ái. Đây là một bài
bình bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh. Khi tạp chí phát hành thì các hội viên Hội
VHNT Hà Tây cho rằng tác giả Thi Ái đã “đạo” nguyên xi bài bình thơ của tác giả
Nguyễn Đức Quyền – nhà giáo từng nhiều năm giảng dạy tại trường Cao đẳng sư

phạm 10+3 (Thường Tín, Hà Tây) và đã mất năm 1999.
Bài bình thơ của tác giả Nguyễn Đức Quyền có tiêu đề “Ngắm trăng” (không
có ghi chú ngày viết) đã được đăng trong mục Sổ tay người yêu thơ trên báo Văn
nghệ số 422 ngày 12/11/1971. Sau đó năm 1987, tác giả đã đưa nguyên văn bài viết
vào tập tiểu luận Những vẻ đẹp thơ do Hội Văn nghệ Bình Nghĩa xuất bản. Tác giả
vẫn giữ nguyên tiêu đề là “Ngắm trăng”, chỉ thêm vào cuối bài thơ con số 1970 – là
năm tác giả khởi thảo bài bình thơ này.
Bài bình thơ của tác giả Thi Ái vẫn giữ nguyên nội dung bài bình thơ của tác
giả Nguyễn Đức Quyền chỉ bỏ đi con số 1970 ở cuối tác phẩm và đổi tên tác phẩm
thành “Đọc lại bài thơ Ngắm trăng…”.
Sau khi phát hiện vụ việc, nhà thơ, nhà giáo Đặng Hiển – hội viên Hội nhà văn
Việt Nam, hội viên Hội VHNT Hà Tây, cộng tác biên tập của tạp chí Tản Viên Sơn
đã làm đơn kiến nghị lên Ban kiểm tra của Hội VHNT Hà Tây, yêu cầu làm rõ vấn
1 />4

4


đề. Ông Đào Ngọc Chung - Ủy viên ban chấp hành Hội VHNT Hà Tây, cộng tác biên
tập của tạp chí, người trực tiếp xử lý bài viết “Đọc lại bài thơ Ngắm trăng…” đã trả
lời vấn đề này như sau: Hoàn toàn không có hành vi đạo nhái tác phẩm ở đây bởi tác
giả Thi Ái và Nguyễn Đức Quyền thật ra là cùng một người. Thi Ái là một trong
những bút danh của tác giả Nguyễn Đức Quyền đã được tác giả sử dụng trong bài
bình tác phẩm thơ Nhớ (của Hồng Nguyên) được đăng trên một tờ nội san cũ của Sở
Giáo dục tỉnh Hà Tây. Ở đây, người biên tập chỉ “làm mới” tác phẩm bằng cách thay
đổi tiêu đề tác phẩm và sử dụng bút danh khác của tác giả để ghi vào tác phẩm. Do đó
trong biên bản Hội nghị Ban kiểm tra Hội VHNT Hà Tây ngày 31/8/2005 chỉ kết luận
hành vi vi phạm của người biên tập là đã “đổi tên bài bình thơ “Ngắm trăng” thành
tên “Đọc lại bài thơ Ngắm trăng…” và dùng tên tác giả Thi Ái (ít phổ biến hơn so
với tên Nguyễn Đức Quyền) đã gây ra sự hiểu khác đi đối với bạn đọc tạp chí” và

hình thức xử lý chỉ là xem xét, rút kinh nghiệm đối với người biên tập bài viết.
b. Phân tích vụ việc
Trước hết ta thấy rằng vụ việc trên xảy ra vào năm 2005, trước thời điểm
BLDS 2005 và Luật SHTT 2005 có hiệu lực. Tuy nhiên căn cứ vào khoản 1 Điều 220
Luật SHTT thì “Quyền tác giả, quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của các
văn bản pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật này có hiệu lực, nếu còn thời hạn bảo
hộ vào ngày luật này có hiệu lực thì được tiếp tục bảo hộ theo quy định của Luật
này” và quy định tại mục 1 phần V thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP về áp dụng pháp luật về SHTT để giải
quyết các tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan thì “Đối với quyền tác giả,
quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực trước ngày Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực (01-7-2006), nếu còn thời hạn
bảo hộ vào ngày 01-7-2006, thì tiếp tục được bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ. Do đó, khi giải quyết loại tranh chấp này, thì Toà án áp dụng quy định của
Luật Sở hữu trí tuệ.” Đối với các quyền nhân thân tuyệt đối của tác giả quy định tại
khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật SHTT được bảo hộ vô thời hạn do đó khi xem xét tình
huống này nhóm sẽ phân tích dựa trên các quy định của Luật SHTT.
5

5


Trong vụ việc trên, có thể thấy Ban biên tập Tạp chí Tản Viên Sơn đã có hai
hành vi vi phạm chính đó là:
Thứ nhất, hành vi tự ý đổi tên tác phẩm của tác giả Nguyễn Đức Quyền từ
“Ngắm trăng” thành “Đọc lại bài thơ Ngắm trăng…”. Theo quy định tại khoản 1
Điều 19 Luật SHTT thì quyền đặt tên cho tác phẩm là một trong những quyền nhân
thân tuyệt đối của tác giả. Tức là quyền này chỉ thuộc về tác giả, ngoài tác giả của tác
phẩm không ai có quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc thay đổi tên của tác phẩm và tác
giả cũng không được chuyển giao quyền này cho người khác. Như vậy trong trường
hợp này chỉ duy nhất tác giả Nguyễn Đức Quyền được phép thay đổi tên tác phẩm

bình thơ “Ngắm trăng”, người biên tập của tạp chí Tản Viên Sơn không có quyền tự
ý thay đổi tên tác phẩm của ông. Như vậy hành vi tự ý thay đổi tên tác phẩm của
người biên tập là hành vi sử dụng tác phẩm mà nêu không đúng tên tác phẩm, xâm
phạm quyền đặt tên tác phẩm của tác giả.
Thứ hai, hành vi tự ý sử dụng bút danh Thi Ái thay cho tên Nguyễn Đức
Quyền khi ghi tên tác giả tác phẩm. Cũng giống như quyền đặt tên cho tác phẩm thì
quyền đứng tên thật hoặc ghi danh trên tác phẩm cũng là quyền nhân thân tuyệt đối
của tác giả theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật SHTT. Chỉ có tác giả mới có
quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng. Ở đây mặc dù Thi Ái là một trong những bút danh
của tác giả Nguyễn Đức Quyền tuy nhiên trong tác phẩm “Ngắm trăng” tác giả
không sử dụng bút danh này mà sử dụng tên thật của mình để ký tên trên tác phẩm.
Chưa kể Thi Ái là bút danh mà tác giả chỉ sử dụng một lần duy nhất, ký trong một tác
phẩm khác, in trên tờ nội san cấp ngành của một tỉnh. Rõ ràng đây là bút danh ít phổ
biến hơn rất nhiều so với tên tác giả Nguyễn Đức Quyền và không thể sử dụng bút
danh đó để ghi tên tác giả trong các tác phẩm khác của ông. Việc người biên tập của
Tạp chí Tản Viên Sơn tự ý đề bút danh Thi Ái cho tác phẩm là hành vi sử dụng tác
phẩm mà nêu không đúng tên tác giả, đây là hành vi xâm phạm quyền đứng tên tác
phẩm của tác giả.
Từ đó có thể khẳng định rằng Ban biên tập Tạp chí Tản Viên Sơn đã có hành vi
xâm phạm quyền nhân thân của tác giả Nguyễn Đức Quyền
6

6


c. Quan điểm của nhóm về hướng giải quyết vụ việc.
Dù thực hiện với mục đích gì thì hành vi tự ý thay đổi tên tác phẩm và tên tác
giả của người biên tập đã vi phạm đến những quyền nhân thân cơ bản của tác giả. Vì
vậy mà kết luận của Ban kiểm tra Hội VHNT Hà Tây với hình thức xử lý chỉ là “xem

xét, rút kinh nghiệm” đối với người biên tập là chưa thỏa đáng.
Trong trường hợp này tác giả đã mất từ năm 1999, vì vậy việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp liên quan đến quyền tác giả sẽ do người thừa kế hợp pháp của tác giả
thực hiện. Họ có thể áp dụng các biện pháp quy định tại Điều 198 Luật SHTT. Theo
đó:
-

Trước hết là yêu cầu tạp chí Tản Viên Sơn phải chấm dứt hành vi xâm phạm,
xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại.

-

Trong trường hợp Ban biên tập tạp chí không thực hiện theo yêu cầu của người
thừa kế quyền tác giả thì bước tiếp theo có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc trực tiếp khởi kiện ra tòa án.
Nếu yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý thì có thể gửi đơn yêu cầu
UBND cấp xã nơi đóng trụ sở của tạp chí Tản Viên Sơn xử lý hành vi vi phạm.
UBND cấp xã sẽ áp dụng biện pháp hành chính để xử lý hành vi xâm phạm này.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định 47/2009/NĐ-CP về xử phạt thì hành vi
sử dụng tác phẩm mà không nêu tên thật hoặc bút danh tác giả, tên tác phẩm hoặc nêu
không đúng tên thật hoặc bút danh của tác giả, tên tác phẩm theo quy định của pháp
luật sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Tuy nhiên thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính về quyền tác giả chỉ là 2 năm kể từ ngày hành vi vi phạm được
thực hiện (khoản 1 Điều 5 Nghị định 47/2009/NĐ-CP). Do đó nếu quá thời hạn 2
năm thì tạp chí Tản Viên Sơn sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn bị
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đó là buộc khôi phục lại quyền đứng tên, đặt
tên cho tác phẩm.
Nếu khởi kiện ra tòa án thì những người thừa kế phải chứng minh mình là chủ thể của
quyền tác giả bằng một trong các chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật
SHTT và phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm quyền tác giả của mình.

Khi đó Tòa án sẽ áp dung các biện pháp dân sự quy định tại Điều 202 Luật SHTT để
7
7


xử lý như: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên cần chú ý rằng việc khởi kiện ra tòa án chỉ có thể tiến
hành nếu vẫn còn thời hiệu khởi kiện. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 thì thời hiệu
khởi kiện trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày biết được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm (khoản 3 Điều 159 Bộ luật Tố tụng dân sự)
2. Vụ việc số 02
a. Nội dung vụ việc
Trong năm 2010, bộ phim “Cánh đồng bất tận” được phát hành ra công chúng
đã gây được ấn tượng mạnh với công chúng, trước tiên phải nói đến các bức ảnh
quảng cáo rất đẹp của phim đã gây hiệu ứng tích cực đến người xem. Tuy nhiên,
những bức ảnh quảng cáo của phim lại bị xem là đã đạo tác phẩm của một tác giả
khác.
Trên các bức ảnh quảng cáo cho phim cánh đồng bất tận có đề tên “nhiếp ảnh:
Trần Huy Hoan”. Khi đó, nhiếp ảnh gia Đặng Minh Tùng đã có phản ánh về việc các
bức ảnh trên bức hình quảng cáo cho phim là do mình chụp không phải do Trần Huy
Hoan chụp nhưng lại không được đề tên trên đó mà lại đề tên Trần Huy Hoan;
- Hãng phim Việt là đơn vị sản xuất bộ phim Cánh đồng bất tận còn công ty
BHD là đơn vị phát hành phim. Hãng phim Việt có kí hai hợp đồng với hai người là
Đặng Minh Tùng và Trần Huy Hoan. Đối với Hợp đồng kí với Đặng Minh Tùng,
Hãng phim Việt thuê Đặng Minh Tùng làm công việc ghi lại nhật kí đoàn làm phim
bằng hình ảnh để cung cấp thông tin cho báo chí. Hợp đồng thời vụ giữa Hãng phim
Việt với Đặng Minh Tùng ký ngày 23/11/2009, sau đó hãng phim này đã thanh toán
thù lao đúng thỏa thuận. Còn Trần Huy Hoan có hợp đồng với Hãng phim Việt, theo
đó, Trần Huy Hoan được thuê để chụp ảnh và làm các bức hình quảng cáo cho phim
cánh đồng bất tận.

- Các bức ảnh quảng cáo của phim cánh đồng bất tận do nhiếp ảnh gia Đặng
Minh Tùng chụp và giao cho Hãng phim Việt theo hợp đồng. Trong quá trình Trần
Huy Hoan làm các bức ảnh quảng cáo cho phim cánh đồng bất tận có đưa cho Trần
Huy Hoan sử dụng các bức hình do Đặng Minh Tùng chụp để làm ảnh quảng cáo.
8

8


Nhiếp ảnh gia Trần Huy Hoan là người thiết kế lại các bức ảnh đó để tạo thành các
bức ảnh quảng cáo cho bộ phim.
Đặng Minh Tùng cho rằng quyền được đứng tên tác phẩm của mình bị xâm
phạm khi tên Đặng Minh Tùng không được ghi trên các bức ảnh quảng cáo mà lại ghi
tên Trần Huy Hoan.
Trần Huy Hoan thì cho rằng các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp chỉ là chép
lại tác phẩm của người khác. Cụ thể, theo Trần Huy Hoan, Đặng Minh Tùng chỉ là
người chụp ảnh hiện trường không tham gia vào công tác makeup diễn viên, lo phục
trang, chỉ đạo diễn xuất… Như vậy, cậu ta chỉ chép lại sáng tạo của người khác,
không được gọi là có bản quyền. Trần Huy Hoan khẳng định, việc thiết kế poster
quan trọng nhất là ý tưởng, còn bức ảnh có thể lấy từ trên mạng hoặc của bất cứ ai mà
không cần đề nguồn.
b. Phân tích vụ việc
- Các bức ảnh trong poster của phim cánh đồng bất tận đều do Đặng Minh
Tùng chụp, các bức ảnh đó được tạo nên qua sức sáng tạo của Đặng Minh Tùng từ
góc chụp, độ sáng, tối, khoảng cách chụp…để tạo nên các bức ảnh đẹp. Theo quy
định tại điểm h khoản 1 điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ thì tác phẩm nhiếp ảnh thuộc
loại tác phẩm nghệ thuật là loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Tác phẩm
nhiếp ảnh theo nghị định số 100/2006/N Đ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số
điều của luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan tại điều 16 có quy
định tác phẩm nhiếp ảnh được hiểu là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thể giới khách

quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể
được tạo ra bằng bất cứ phương pháp kĩ thuật nào.
Như vậy, các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp đã được thể hiện dưới một
dạng vật chất nhất định đó là những tấm phim và sau đó được tráng rửa tạo nên
những bức ảnh mà ta thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng khi nhà sản xuất
thực hiện quảng bá cho phim. Rõ ràng rằng, Đặng Minh Tùng là tác giả của các bức
ảnh đó, theo LSHTT thì tác giả của tác phẩm được bảo hộ được hưởng quyền nhân
thân và quyền tài sản.
9

9


Hãng phim Việt là chủ sở hữu quyền tác giả, theo quy định của LSHTT thì
Hãng phim Việt có quyền tài sản đối với các tác phẩm nhiếp ảnh do Đặng Minh Tùng
thực hiện theo hợp đồng kí kết.
Trần Huy Hoan đã cắt sửa, ghép các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp để thiết
kế thành các bức ảnh quảng cáo cho phim cánh đồng bất tận. Thực chất của vấn đề là
Hãng phim Việt đã sử dụng các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp để giao cho Trần
Huy Hoan thiết kế làm ảnh quảng cáo cho phim. Nói cách khác, Hãng phim Việt có
quyền làm tác phẩm phái sinh và đang thực hiện quyền cho người khác làm tác phẩm
phái sinh của mình. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 45 LSHTT thì: “Tác
giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ quyền
công bố tác phẩm…”.Như vậy, khi làm tác phẩm phái sinh Trần Duy Hoan phải hỏi ý
kiến của tác giả là Đặng Minh Tùng và không được phép làm tác phẩm phái sinh khi
chưa có sự cho phép của tác giả. Các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả
Đặng Minh Tùng trong vụ việc:
Thứ nhất, đó là quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự, uy
tín của tác giả.

Đây là quyền nhân thân không thể chuyển giao theo quy định của LSHTT, theo
đó, quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm là quyền chỉ dành cho tác giả sáng
tạo ra tác phẩm, việc cắt xén, sửa chữa tác phẩm phải được sự chấp thuận của tác giả.
Theo LSHTT thì hành vi sửa chữa, cắt xén tác phẩm phải gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả nhưng theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 22 Nghị định số
100/2006/NĐ-CP thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén tác phẩm là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm,
trừ trường hợp có thỏa thuận của tác giả. Điều này có nghĩa là chỉ cần có hành vi sửa
chữa, cắt xén mà không có sự đồng ý của tác giả mà không cần xác định yếu tố có
gây phương hại cho danh dự, uy tín của tác giả hay không là hành vi xâm phạm
quyền nhân thân của tác giả.
Theo đó, Hãng phim Việt muốn sử dụng hình ảnh của Đặng Minh Tùng chụp
thì được nhưng nếu sửa chữa, cắt xén tác phẩm thì phải được sự đồng ý của Đặng
10
10


Minh Tùng vì đây là quyền nhân thân gắn chặt với Đặng Minh Tùng. Hành vi sửa
chữa, cắt xén các bức ảnh mà không được sự đồng ý của Đặng Minh Tùng làm thay
đổi tác phẩm không, phản ánh đúng ý tưởng, tính chất cũng như toàn vẹn sự sáng tạo
nghệ thuật của Đặng Minh Tùng. Có các bức ảnh quảng cáo sử dụng ba bức ảnh do
Đặng Minh Tùng chụp nhưng mỗi bức ảnh được cắt sửa và chỉ sử dụng một phần tác
phẩm để ghép với các phần của bức ảnh khác để tạo thành các bức ảnh quảng cáo. Do
vậy, Hãng phim Việt sử dụng các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp để làm ảnh
quảng cáo cho phim theo hợp đồng đã kí thì không trái pháp luật nhưng sửa chữa, cắt
xén các tác phẩm đó mà không được sự đồng ý của Đặng Minh Tùng là trái pháp luật,
xâm phạm quyền được bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm của Đặng Minh Tùng.
Thứ hai, Trên các bức ảnh quảng cáo cho phim không có tên Đặng Minh Tùng
mà chỉ có tên Trần Huy Hoan với tư cách nhiếp ảnh gia. Ta cần xác định rõ, Trần
Huy Hoan là tác giả của tác phẩm phái sinh- là các bức ảnh quảng cáo cho phim; còn

Đặng Minh Tùng là tác giả của tác phẩm gốc- là các bức ảnh trong bức ảnh quảng
cáo. Do vậy, việc để tên: “nhiếp ảnh: Trần Huy Hoan” sẽ làm công chúng hiểu rằng
Trần Huy Hoan là người chụp các bức ảnh trong poster quảng cáo, là tác giả của các
bức ảnh đó chứ không phải là tác giả của bức ảnh quảng cáo. Như vậy, việc Hãng
phim Việt để Trần Huy Hoan đứng tên là tác giả của các bức ảnh trong poster quảng
cáo là xâm phạm quyền được đứng tên tác phẩm của Đặng Minh Tùng theo khoản 2
Điều 19 LSHTT.
c. Quan điểm và hướng giải quyết vụ việc
Thứ nhất, về khái niệm “Ảnh hiện trường của phim”
Theo lập luận của Hãng phim Việt, “Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác
phẩm điện ảnh hay tương tự như điện ảnh không được coi là tác phẩm nhiếp ảnh mà
là một phần của tác phẩm điện ảnh đó”. Do đó, các bức ảnh hiện trường mà Đặng
Minh Tùng chụp là hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một bộ phim cánh đồng bất tận nên
không được coi là tác phẩm nhiếp ảnh nên không được bảo hộ quyền tác giả.
Lí giải này của Hãng phim Việt là không đúng với quy định của pháp luật.
Theo điều 14 Nghị định 100/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn một số điều của Luật sở hữu trí tuệ thì tác phẩm điện ảnh và tác phẩm tạo ra theo
11
11


phương pháp tương tự quy định của LSHTT là tác phẩm được hợp thành bằng hàng
loạt các hình ảnh liên tiếp tạo nên hiệu ứng chuyển động kèm theo hoặc không kèm
theo âm thanh, được thể hiện trên một chất liệu nhất định và có thể phân phối, truyền
đạt tới công chúng bằng các thiết bị kĩ thuật, công nghệ, bao gồm loại hình phim
truyện, phim tài liệu, phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác.
Các bức ảnh mà Đặng Minh Tùng thực hiện tại hiện trường làm phim trong quá trình
quay phim cánh đồng bất tận, trực tiếp chụp hình và phản ánh hiện thực khách quan
vào ống kính của mình để tạo nên các bức ảnh, bởi vậy các bức ảnh này không phải
được lấy từ tác phẩm cánh đồng bất tận theo lí giải của Hãng phim Việt.

Thứ hai, về việc ai là người được đứng tên trong các bức ảnh. Hãng phim Việt
cho rằng các bức ảnh do Đặng Minh Tùng chụp là sáng tạo của tập thể, nói cách khác
các bộ ảnh này do đồng tác giả thực hiện. Tuy nhiên, đồng tác giả hiểu theo LSHTT
thì phải có sự bàn bạc, thỏa thuận, thống nhất về ý chí khi thực hiện tác phẩm nhưng
khi Đặng Minh Tùng chụp hình không hề bàn bạc, thống nhất ý chí với diễn viên,
nhân viên đoàn phim là phải chụp như thế nào. Các bức ảnh hoàn toàn do Đặng Minh
Tùng quan sát, lựa chọn để sáng tạo ra các bức ảnh này.
Vì Hàng phim Việt chưa được sự chấp thuận của Đặng Minh Tùng về việc sửa
chữa, cắt xén các bức ảnh nên đã xâm phạm quyền nhân thân của Đặng Minh Tùng.
Hãng phim Việt có quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng phải được sự đồng ý của
Đặng Minh Tùng về việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm để làm tác phẩm phái sinh.
Hãng phim Việt có thể thỏa thuận với Đặng Minh Tùng về vấn đề này nếu Đặng
Minh Tùng chấp nhận để giải quyết những tranh chấp thông qua hòa giải thương
lượng; nhưng nếu Đặng Minh Tùng không chấp nhận thì có thể khởi kiện ra để bảo
vệ quyền lợi của mình.
Nếu Đặng Minh Tùng chấp nhận để Hãng phim Việt được sửa chữa, cắt xén
các bức ảnh để làm tác phẩm phái sinh thì khi đó tác phẩm phái sinh mới được bảo
hộ. Theo khoản 2 Điều 14 LSHTT thì tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không
gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái
sinh. Khi tác phẩm phái sinh là các bức ảnh quảng cáo cho phim cánh đồng bất tận
12

12


được bảo hộ thì việc đứng tên trên tác phẩm phái sinh này được giải quyết bằng một
trong các cách như sau:
- Để Đặng Minh Tùng đứng tên trên bức ảnh quảng cáo với tư cách tác giả của tác
phẩm gốc còn Trần Huy Hoan là tác giả của tác phẩm phái sinh. Theo đó, Poster
phim sẽ được đề: nhiếp ảnh Đặng Minh Tùng và thiết kế poster Trần Huy Hoan.

Chỉ để tên Trần Huy Hoan trên các bức ảnh quảng cáo. Vì ảnh quảng cáo của phim là
tác phẩm phái sinh và tác giả của tác phẩm phái sinh này là Trần Huy Hoan nên Trần
Huy Hoan có quyền được đứng tên trên đó. Tuy nhiên, Trần Huy Hoan không thể
đứng tên với tư cách là nhiếp ảnh mà là người thiết kế ảnh quảng cáo. Việc Đặng
Minh Tùng có được đứng tên trên ảnh quảng cáo phim hay không là do sư thỏa thuận
giữa Đặng Minh Tùng với Hãng phim Việt.
III.

Những bất cập pháp luật và hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân
thân của tác giả.
1. Những bất cập của pháp luật về quyền nhân thân của tác giả.

Thứ nhất: Theo quy định của pháp luật thì quyền nhân thân có thể được chia thành
quyền nhân thân không thể chuyển giao (quy định tại các Khoản 1, 2, 4 Điều 19 của
Luật) và quyền có thể chuyển giao (quy định tại Khoản 3 Điều 19 của Luật), quyền
nhân thân không thể chuyển giao được bảo hộ vô thời hạn và tồn tại vĩnh viễn cùng
với tác phẩm. Trong các quyền nhân thân không thể chuyển giao thì quyền “bảo vệ
sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả” được coi là quan trọng nhất và trong thực tiễn nó cũng hay bị xâm phạm nhất.
Cụm từ gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả có thể làm cho Khoản 4
Điều 19 được hiểu là nếu một người thực hiện hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên
tạc tác phẩm của người khác nhưng lại chứng minh được là hành vi đó không gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả hoặc chứng minh là hành vi đó đã làm
cho tác phẩm “hay” lên thì không vi phạm Khoản 4 Điều 19.

13

13



Để tránh việc hiểu như vừa phân tích, Khoản 3 Điều 22 Nghị định 100/2006/NĐ-CP
quy định chi tiết: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác
sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là
việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm trừ trường hợp có thoả thuận
của tác giả”. Ngoài việc những người soạn thảo Nghị định 100/2006/NĐ-CP đã tùy
tiện cắt xén cụm từ “xuyên tạc” trong Khoản 4 Điều 19, thì quy định này lại không
thể giải quyết được trường hợp nếu tác giả đã qua đời thì người sử dụng tác phẩm sẽ
“thỏa thuận” với ai? Tất nhiên không thể thỏa thuận với người thừa kế quyền tài sản
đối với tác phẩm vì cần nhớ rằng quyền nhân thân quy định tại các Khoản 1, 2, 4
Điều 19 của Luật là không thể chuyển giao.
Thứ hai: Khoản 2 Điều 30 Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết: “Các cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan khi phát hiện các
hành vi xâm phạm quyền nhân thân quy định tại khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật Sở
hữu trí tuệ đối với các tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ thì có quyền yêu cầu
người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công
khai, bồi thường thiệt hại”. Một phần của quy định này không có khả năng thực thi,
bởi lẽ:
+ Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ quyền tài sản, do đó cụm từ “bồi thường thiệt
hại” chắc chắn không phải là bồi thường về vật chất;
+ Nếu bồi thường về uy tín và danh dự của tác giả thì tổ chức, cá nhân nào là chủ thể
nhận bồi thường? Hơn nữa, hành vi này chỉ xâm phạm các quyền nhân thân không
thể chuyển giao được quy định tại các khoản 1, 2 và 4 điều 19 của Luật (mà các
quyền này lại vĩnh viễn thuộc về tác giả – là người đã chết).
2. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Thứ nhất: Nên sửa đổi quyền nhân thân không thể chuyển giao tại Khoản 4 Điều 19
như d Khoản 2 Điều 738 Bộ Luật Dân sự 2005 đã quy định.

14


14


Điểm d Khoản 2 Điều 738 Bộ Luật Dân sự 2005 chỉ quy định quyền nhân thân:“Bảo
vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm.”
Để cho pháp luật có sự thống nhất thì pháp luật nên quy định như vậy để khi áp dụng
thì chủ thể áp dụng có thể dễ dàng thực hiện. tránh tình trạng chồng chéo các quy
định cảu pháp luật cùng điều chỉnh một vấn đề.
Thứ hai: Cần có những quy định giải thích rõ cụm từ “bồi thường thiệt hại” trong
quy định tại Khoản 2 Điều 30 Nghị định 100/2006/NĐ-CP. Hoặc cũng có thể bỏ cụm
từ này đi để tránh những hiểu lầm không đáng có.
Thứ ba: Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đồng thồi thay thế các quy định pháp luật không phù hợp với thực tiễn nhằm
mục đích pháp luật có thể được thực hiện trong thực tiễn. Qua đó nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước.

LỜI KẾT
Hiện nay, quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam, để hạn
chế các hành vi xâm phạm quyền tác giả thì ngoài việc xây dựng pháp luật với chế
tài cũng cần nâng cao nhận thức, hiểu biết và ý thức của cộng đồng .Với những nỗ
lực hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ và nâng cao ý thức cộng đồng hi vọng sẽ
tạo hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích và bảo hộ có hiệu quả các hoạt động
sáng tạo cũng như thu hút sự đầu tư.

15

15



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật SHTT Việt Nam, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị và Vũ Thị Hải Yến (chủ biên), Giáo trình luật SHTT, Nxb. Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội, 2009.
3. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005
4. Luật SHTT năm 2005.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009
6.
Nghị định của Chính phủ số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 quy định về
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
7.

16

16



×