Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Pháp luật bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.67 KB, 22 trang )

MỞ BÀI:
Kinh doanh tiền tệ, tín dụng là loại hình kinh doanh đặc thù trong nền kinh tế. Tính
đặc thù của loại hình kinh doanh này không chỉ đơn thuần là sự đặc biệt của đối tượng
kinh doanh là - tiền tệ - loại hàng hoá khác hẳn với các loại hàng hoá thông thường của
thị trường nói chung mà còn là kinh doanh tín dụng là kinh doanh “trên sự kinh doanh
của người khác”. Nói như vậy không có nghĩa là kinh doanh tín dụng hoàn toàn phụ
thuộc vào khách quan, vào kết quả kinh doanh của những người vay vốn của tổ chức tín
dụng (TCTD) nhưng đặc trưng hiển nhiên và là thuộc tính của kinh doanh tín dụng là phụ
thuộc rất nhiều vào sự trung thực và hiệu quả kinh doanh của những người vay vốn của
TCTD. Do vậy, kinh doanh tín dụng là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro. Đặc trưng
khác của hoạt động kinh doanh tín dụng là kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác,
tức là bằng tiền huy động được mà chúng ta vẫn thường nói là đi vay để cho vay. Và đặc
trưng nữa của hoạt động kinh doanh tín dụng là tính liên quan lẫn nhau trong hệ thống tín
dụng và mối quan hệ của các hoạt động tín dụng với toàn bộ nền kinh tế.
Để đảm bảo an toàn tín dụng. Nhà nước cùng với các tổ chức tín dụng phải tìm kiếm và
áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, tôi tạm xếp chúng thành hai nhóm là các biện pháp
pháp lí và các biện pháp tổ chức. Ngoài ra, cũng có thể kể đến loại biện pháp nữa là các
biện pháp nghiệp vụ của các TCTD. Các biện pháp pháp lí được thể hiện chủ yếu ở
những quy định trong các đạo luật về ngân hàng và các tổ chức tín dụng. ví dụ như các
quy định về mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng; về dự trữ bắt buộc; lập dự
phòng rủi ro; quy định về các hạn chế tín dụng; về giới hạn cho vay, bảo lãnh; giới hạn
góp vốn, mua cổ phần; các biện pháp bảo đảm tiền vay... Các biện pháp tổ chức quản lý
nhà nước đối với sự hình thành và hoạt động của các tổ chức tín dụng; thành lập các tổ
chức bảo hiểm, bảo toàn tiền gửi. Trong bài tập lớn lần này, tôi xin được làm rõ đề tài số
5 : Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại
và những đánh giá, nhận xét của tác giả về vấn đề nêu trên. Để giúp chúng ta có thể hiểu
rõ hơn về vấn đề áp dụng bảo hiểm tiền gửi ở các ngân hàng thương mại như thế nào.!
Bài viết này còn nhiều thiếu sót do kinh nghiệm và vốn hiểu biết còn nhiều hạn chế,
mong thầy cô thông cảm và giúp đỡ. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG:


1


I.

Khái quát về bảo hiểm tiền gửi.

1. Khái niệm.

Nguồn gốc ra đời của bảo hiểm tiền gửi gắn liền với việc chuyển từ “ Bảo vệ ngầm”
sang “bảo vệ công khai” tiền gửi. Theo đó, người gửi tiền sẽ được chi trả một phần hoặc
toàn bộ tiền gửi khi ngân hàng đổ vỡ theo hợp đồng hoặc cam kết công khai. Bởi lẽ, niềm
tin của người gửi tiền rất quan trọng đối với sự an toàn và phát triển lành mạnh của hệ
thống ngân hàng trong thế giới hiện đại. Với những ưu thế và tính chuyên nghiệp trong
việc bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo sự ổn định của hoạt động ngân hàng, hệ
thống bảo hiểm tiền gửi công khai ngày càng phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Tính đến
năm 2009, trên thế giới có khoảng 104 quốc gia trên thế giới sử dụng hệ thống bảo hiểm
tiền gửi công khai và 16 quốc gia khác đang nghiên cúu hình thành hệ thống bảo hiểm
tiền gửi để bảo vệ người gửi tiền, xu hướng này vẫn còn tiếp tục tăng cao do ưu thế vượt
trội của hệ thống bảo hiểm tiền gửi.
Ở Việt Nam, khởi đầu của chính sách bảo hiểm tiền gửi là quy tắc bảo hiểm trách
nhiệm của quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn đã được ban hành
kèm theo quyết định số 101/TCQĐ- BH ngày 1/2/1994 của Bộ Tài chính do Bảo Việt
triển khai.
Ngày 9/11/1999 Chính phủ đã ban hành quyết định số 218/QĐ-TTg cho phép thành
lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ( BHTG Việt Nam ) nhằm bảo vệ quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, duy trì sự phát triển ổn định, an toàn và lành mạnh
của hệ thống ngân hàng. Tổ chức chính thức đi vào hoạt động từ ngày 7/7/2000, cho đến
nay, văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động BHTG ở Việt Nam là Nghị định 89/1999/NĐCP ngày 1/9/1999 và Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về BHTG

Pháp luật về BHTG của Việt Nam và Luật BHTG của một số nước trên thế giới không
đưa ra khái niệm về BHTG. Tuy nhiên, thông qua việc xác định các vai trò, chức năng,
mô hình của tổ chức BHTG…có thể đưa ra khái niệm bảo hiểm tiền gửi như sau: Bảo
hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về
việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị
chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
2


2. Đặc điểm của Bảo hiển tiền gửi.

BHTG cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói chung, tức là, hoạt động
theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhưng bên cạnh đó, BHTG còn mang những tính chất
đặc thù như sau:
Thứ nhất: BHTG là công cụ được sử dụng để thực hiện chính sách công của từng
quốc gia và thường hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
tổ chức BHTG có trách nhiệm thay TCTD trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của tổ
chức,cá nhân gửi tiền ở tổ chức tham gia BHTG. Trong thực tế, hoạt động của ngân hàng
là hoạt động nhạy cảm, mang tính rủi ro và lan truyền cao. Sự đổ vỡ của các ngân hàng sẽ
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và gây ra những bất ổn về xã hội. Do đó, Chính phủ các
quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính BHTG nhằm góp phần đảm bảo sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng và ổn định xã hội.
Thứ hai: trong quan hệ BHTG, các TCTD là đối tượng tham gia BHTG, có trách
nhiệm đóng phí BHTG cho tổ chức BHTG và đối tượng được bảo hiểm chính là khoản
tiền gửi của người gửi tiền. Do đó, trong trường hợp tổ chức tham gia BHTg bị giải thể
hoặc phá sản thì thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả tiền
gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền theo quy định của pháp luật. Mặc dù người gửi tiền
được hưởng những quyền lợi trực tiếp từ chính sách BHTG nhưng họ không phải trực
tiếp tham gia BHTG. Thông qua cơ chế này, tổ chức tham gia BHTG cũng được hưởng
lợi gian tiếp từ việc tham gia BHTG vì niềm tin của công chúng đối với các tổ chức tham

gia BHTG sẽ cao hơn, hoạt động huy động tiền gửi từ cư dân sẽ dễ dàng hơn.
Thứ ba: cơ chế tham gia BHTG là bắt buộc đối với các tổ chức tài chính có hoạt động
huy động tiền gửi của cộng đồng. Pháp luật về BHTG quy định về điều kiện bảo hiểm,
mức phí bảo hiểm mà các tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ thực hiện,…các bên tham
gia không có quyền thỏa thuận. Đặc điểm này làm cho BHTG khác biệt so với đa số các
loại hình bảo hiểm thương mại được hình thành trên cơ sở hợp đồng và các bên có thể
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Việc áp dụng chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với tiền
gửi không chỉ nhằm hạn chế rủi ro cho các tổ chức nhận tiền gửi, bảo vệ lợi ích của người
gửi tiền mà còn đảm bảo sự bình đẳng, công bằng giữa các tổ chức có hoạt động ngân
hàng, góp phần nâng cao uy tín của các TCTD.
3


3. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động hoạt động ngân hàng.
Nhìn chung, vai trò của hoạt động BHTG có thể tóm tắt ở những điểm sau:
Một là: hoạt động bảo hiểm tiền gửi có vài trò quan trọng trong việc bảo vệ người
gửi tiền, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Điều này được
thực hiện thống qua hoạt động chức năng của BHTG trong giám sát, kiểm tra việc chấp
hành các quy định của pháp luật về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia
BHTG; hỗ trợ, xủ lý tổ chức tín dụng bị đổ vỡ, chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền…
Hai là: BHTG góp phần đảm bảo sự phát triển lành mạnh của hoạt động ngân hàng
bằng việc tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các TCTD, đặc biệt là các TCTD có
quy mô hoạt động nhỏ. Thông qua các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát rủi ro các TCTD,
BHTG có thể cảnh báo đến các cơ quan chức năng hoặc TCTD về tình hình hoạt động
của TCTD có vấn đề, từ đó giúp cơ quan chức năng và TCTD có vấn đề có những hành
động kịp thời nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động. Ngoài ra, trong trường hợp TCTD
gặp khó khăn thì BHTG sẽ sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính nhằm phục hồi tổ
TCTD có nguy cơ đổ vỡ và thực hiện chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại tổ chức tham
gia BHTG trong trường hợp có đổ vỡ xảy ra để tránh ảnh hưởng đến các TCTD khác và
ổn định tình hình kinh tế- xã hội.

Ba là: BHTG góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế
và ổn định xã hội. Thông qua vai trò người gửi tiền và xây dựng, củng cố niềm tin của
công chúng đối với hệ thống ngân hàng, BHTG có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình
huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Huy động vốn trong dân cư để phục vụ
phát triển là nhu cầu tất yếu đặt ra đối với mỗi nên kinh tế. Nguồn vốn trong dân cư được
thu hút qua nhiều kênh khác nhau, đặc biệt là thông qua các ngân hàng.
Bốn là: BHTG có vai trò quan trọng trong giải quyết khủng hoảng hang hàng. Một
trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng là hiện tượng rút tiền hàng loạt của người
gửi tiền. Trong khi đó, hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính nhạy cảm và lan
truyền cao, hiện tượng rút tiền hàng loạt có thể xảy ra do những tin đồn sai sự thật mà
không xuất phát từ chính hoạt động yếu kém của tổ chức nhận tiền gửi. Trong trường hợp
này, BHTG sẽ là một là chắn quan trọng hỗ trợ cho tổ chức tham gia BHTG, tạo tâm lý
an tâm cho người gửi tiền và ngăn chặn hiện tượng đổ vỡ hàng loạt xảy ra.
4


4. Một số hạn chế của Bảo hiểm tiền gửi.

Cơ chế bảo hiểm tiền gửi có những hạn chế nhất định cần được nghiên cữu để đánh
giá đúng vai trò của BHTG, từ đó xây dựng các quy định của pháp luật phù hợp một mặt
nhằm phát huy các vai trò tích cực của BHTG, mặt khác, nhằm ngăn ngừa các hệ quả tiêu
cực của cơ chế BHTG.


Vấn đề rủi ro đạo đức.

Rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG là loại rủi ro xuất phát từ hành cư xử thiếu đạo
đức của các chủ thể trong quan hệ BHTG, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động BHTG và
sự an toàn, ổn định của hệ thống ngân hàng. Loại rủi ro này có thể xuất phát từ hành vi
thiếu đạo đức của người gửi tiền hoặc các tổ chức nhận tiền gửi.

+ Hành vi của người gửi tiền: Người gửi tiền ít quan tâm đến hoạt động của tổ chức
nhận tiền gửi, ít quan tâm đến việc thu thập thông tin và đánh giá tình hình hoạt động của
tổ chức nhận tiền gửi để lựa chọn gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi hoạt động lành mạnh,
an toàn. Chính vì vậy, họ có thể gửi tiền vào các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động thiếu an
toàn, có khả năng đổ vỡ cao. Điều đó có thể gây mất an toàn đối với hệ thống ngân hàng
và có thể tăng thêm gánh nặng cho BHTG do phải tăng chi trả bảo hiểm khi tổ chức nhận
tiền gửi yếu kém bị đổ vỡ.
+ Hành vi của tổ chức nhận tiền gửi: Các tổ chức nhận tiền gửi có xu hướng ỷ lại vào
hoạt động BHTG và sự tin tưởng của người gửi tiền, họ có thể không sử dụng các biện
pháp an toàn như: không cần tăng vốn tự có, giảm dự trữ tối đa để tận dụng cho vay…Và
đặc biệt với khả năng thu hút nguồn vốn dễ dàng, các tổ chức nhận tiền gửi sẽ có xu
hướng cho vay dễ dàng hơn với những điều kiện và sự kiểm soát ít chặt chẽ hơn hoặc
chấp nhận cho vay ở lĩnh vực có rủi ro cao…Đó là những biểu hiện cư xử thiếu chuẩn
mực đạo đức, trái với kỷ cương thị trường và đe dọa đến sự an toàn của chính tổ chức
nhận tiền gửi và sự an toàn của hệ thống ngân hàng nói chung.
Để hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG, các nước sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau như xây dựng các quy định của pháp luật phù hợp về phạm vi tiền gửi được
bảo hiểm, chủ thể được BHTG, hạn mức BHTG, phí BHTG, tăng cường hoạt động của
cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng…


Bảo hiểm tiền gửi trong các cuộc khủng hoảng tài chính.
5


Trong các cuộc khủng hoảng tài chính, khi có nguy cơ đổ vỡ hàng loạt các ngân hàng,
có thể gồm nhiều ngân hàng lớn, BHTG thường không đủ khả năng để chi trả cho người
gửi tiền. Chính vì vậy, nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn của BHTG thì sẽ không bảo vệ
được quyền lợi của người gửi tiền củng cố được niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống
ngân hàng, từ đó, không hạn chế nguy cơ đổ vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống

ngân hàng. Khi đó, Chính phủ hoặc Ngân hàng trung ương cần hỗ trợ về tài chính để ổn
định tình hình hoạt động ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Thực tế đã chứng minh trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, Chính phủ
và Ngân hàng trung ương hầu hết các nước đã phải bỏ ra các khoản tiền rất lớn để hỗ trợ
khả năng thanh toán cho các ngân hàng hoặc mua cổ phần để tiếp sức cho các ngân hàng,
nhằm cứu vãn cho các ngân hàng trước nguy cơ phá sản và bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền.
II.

Pháp luật bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.

1. Quy định về các chủ thể thực thi pháp luật BHTG Việt Nam.
a. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ( DIV ) là tổ chức tài chính được thành lập theo
quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 9/11/1999 của thủ tướng Chính phủ, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức
tham gia BHTG và sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng. BHTG Việt
Nam có tư cách pháp nhân, độc lập về tài chính và chủ động trong quá trình hoạt động.
Nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam được hình thành từ nguồn vốn do
Nhà nước cấp và nguồn vốn góp thường xuyên của các tổ chức tham gia BHTG. Đây là
một tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn các loại thuế theo quy
định của pháp luật, được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước, Kho bạc nhà nước, tài
TCTD Nhà nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật, có cân đối tài chính và được
lập các quỹ phù hợp với quy định của pháp luật.
b. Quy định về tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
Chủ thể tham gia Bảo Hiểm tiền gửi được quy định tại điểm a, khoản 1 mục I của
thông tư số 3/2006/TT-NHHN gồm: Tổ chức tín dụng, tổ chức không phải là tổ chức tín
dụng được phép thực hiện một số hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
6



nghĩa Việt Nam có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia Bảo hiểm tiền gửi
bắt buộc.
Tính đến 31/12/2009, có 1.136 tổ chức tham gia BHTG gồm 3 Ngân hàng thương mại
Nhà nước; 39 Ngân hàng thương mại cổ phần; 5 Ngân hàng liên doanh; 33 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 11 công ty tài chính, 1 quỹ
tín dụng nhân dân trung ương và 1.039 quỹ tín dụng cơ sở.
c. Quy định về người gửi tiền.
Chủ thể được bảo hiểm trong quan hệ BHTG chính là người gửi tiền. Theo quy định
tại Điều 3 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ thì chỉ có khách hàng gửi tiền là cá
nhân thì mới được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG.
Nghị định của Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 quy định theo hướng mở
rộng hơn phạm vi người được hưởng quyền lợi bảo hiểm so với Nghị định 89/1999/NĐCP bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân công ty hợp danh gửi
tiền tại tổ chức tham gia BHTG, trừ các trường hợp:
+ Người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn
cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia BHTG đó;
+Người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
( Giám đốc) của tổ chức tham gia BHTG đó.
+Người gửi tiền có tiền gửi dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền
hoặc người gửi tiền dùng tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo
hướng dẫn của Ngân hàng Việt Nam.
2. Quy định về đối tượng được Bảo hiểm tiền gửi, phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức
bảo hiểm tiền gửi.
a. Quy định về đối tượng được Bảo hiểm tiền gửi.
Về đối tượng được bảo hiểm tiền gửi hay loại tiền được bảo hiểm tiền gửi , Điều 3
Nghị định 89/1999/NĐ-CP quy định: Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các
cá nhân gửi tại các tổ chức tham gia bảo hiểm. Theo quy định này, bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam chỉ bảo hiểm cho Đồng bản tệ là Việt Nam đồng. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và thông tư số
03/2006/TT-NHNN hướng dẫn thi hành hai Nghị định trên cũng quy định tiền gửi được

7


bảo hiểm là tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác, các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại các tổ chức tham gia Bảo
hiểm tiền gửi.
b. Quy định về mức phí bảo hiểm tiền gửi.
Hiện nay ở Việt Nam, sử dụng phương pháp tính đồng hạng trên tổng số dư tiền
gửi được bảo hiểm. Tức là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền
gửi theo mức 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền được bảo
hiểm tại tổ chức tham gia BHTG.
Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp làm bốn kỳ trong một năm theo định kỳ
hàng quý và được nộp vào tài khoản của BHTG Việt Nam chậm nhất là vào ngày 20
tháng đầu tiền của quý thu BHTG. Tổ chức vi phạm thời hạn nộp phí BHTG theo quy
định thì ngoài việc nộp đủ số phí còn thiếu, phải chịu phạt mỗi ngày chậm bằng 0,1% số
tiền chậm nộp.
c. Quy định về hạn mức Bảo hiểm tiền gửi.
Khoản 1 Điều 4 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi
quy định: “ số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các tài khoản tiền gửi của một cá nhân tại
một tổ chức tham gia BHTG, tối đa là 30 triệu đồng Việt Nam”. Tuy nhiên do điều kiệ
kinh tế- xã hội luôn thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng tăng lên, số người gửi tiền và
lượng tiền gửi vào các TCTD ngày càng tăng lên. Quy định về số lượng tiền gửi tối đa là
30 triệu đồng trở nên không còn phù hợp với thực tế, làm giảm hiệu quả hoạt động của tổ
chức BHTG. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
89/1999/NĐ-CP đã quy định về giới hạn số tiền được bảo hiểm như sau: số tiền bảo hiểm
được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bảo gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền tại
một tổ chức tham gia BHTG tối đa 50 triệu đồng. Số tiền vượt quá 50 triệu đồng sẽ được
trả trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG.
3. Quy định về chi trả bảo hiểm tiền gửi và thu hồi nợ sau khi chi trả bảo hiểm tiền
gửi.

a. Quy định về sự kiện bảo hiểm tiền gửi
Nghị định 109/2005/NĐ-CP và thông tư số 03/2006/TT-NHNN đã quy định về sự
kiện bảo hiểm, theo đó, sự kiện bảo hiểm xảy ra khi đồng thời có hai căn cứ:
8


+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia BHTG không có
khả năng thanh toán được số nợ đến hạn.
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức này chấm dứt các
giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản hoặc toà án thông báo quyết định mở thủ tục thanh
lý tài sản.
b. Quy định về chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày có văn
bản của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền hoặc của tòa án, tổ chức tham gia
BHTG phải nộp hồ sơ đề nghị chi trả bảo hiểm cho BHTG Việt Nam. Hồ sơ gồm danh
sách và số tiền gửi của từng người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG; danh sách và số
tiền của người gửi tiền đề nghị BHTG Việt Nam chi trả bảo hiểm.
BHTG Việt Nam sau khi tiến hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác định
chính xác số tiền chi trả phải có phương án chi trả bải hiểm cho người gửi tiền, đồng thời
niêm yết danh sách người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm được chi trả tại trụ sở chính
và phong giao dịch của tổ chức tham gia BHTG và các điểm chi trả bảo hiểm.
Sau 10 năm kể từ ngày tổ chức tham gia BHTG có thông báo đầu tiên về việc chi
trả bảo hiểm, những khoản tiền BHTG không có người nhận và không có lý do chính
đáng xẽ được bổ sung vòa nguồn vốn hoạt động của TCBHTG.
c. Vấn đề thu hồi nợ sau khi chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Sau khi chi trả tiền gửi được bảo hiểm, BHTG Việt Nam sẽ trở thành chủ nợ của tổ
chức tham gia BHTG. Theo quy định tại khoản 32 Mục VI thông tư số 03/2006/TTNHNN ngày 25/4/2006 của NHNN, BHTG Việt Nam được phân chia giá trị tài sản theo
thứ tự thanh toán theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản và được quyền tham gia
vào quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của pháp luật.
III.


Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương
mại.

1. Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh hiện nay
Trong những tháng đầu năm 2008, hoạt động tiền tệ tín dụng ở các ngân hàng
thương mại diễn ra hết sức sôi động. Các ngân hàng thương mại đã mở rộng mạng lưới
hoạt động của mình và các điểm giao dịch cuả một số chi nhánh ngân hàng trong trong cả
9


nước , lãi suất trên thị trường cũng có nhiều biến động lớn. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, môi trương kinh doanh của các ngân hàng
Việt Nam có nhiều thay đổi lớn. Sự thay đổi đó tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức
mới cho các ngân hàng thương mại Vit Nam. Đây là một dịp tốt để các ngân hàng cạnh
tranh với những ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đaị về công nghệ , phát triển theo
hướng chuẩn hóa và quốc tế hóa các sản phẩm dịch vụ . Hơn nữa các ngân hàng thương
mại Việt Nam có cơ hội không chỉ mở rộng thị trường trong nước mà cả thị trường nước
ngoài . Tuy nhiên thách thức đặt ra đối với các ngân hàng cũng không nhỏ về năng lực tài
chính, năng lực pháp lý,nguồn nhân lực , công nghệ, dịch vụ…
Đứng trước tình hình đó , giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra tình
trạng “ chạy đua lãi suất”. Chưa bao giờ lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại
lại cao như bây giờ. Hiện nay mức lãi suất phổ biến cho kì hạn 3 tháng là 8,52%/ năm, 6
tháng là 8,78%/năm, 12 tháng là 9,18%/ năm. Lãi suất huy động cao đồng nghĩa với lãi
suất cho vay cũng cao. Điều này ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp vay vốn , làm tăng
chi phí sản xuât, tác động vào làm giá cả tăng cao. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng buộc
phải đa dạng hóa sản phẩm, cung ứng công nghệ hiện đại.
2. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng thương mại
a. Tình hình kinh tế trong nước và chính sách của pháp luật BHTG
Đứng trước tình trạng nền kinh tế có nhiều biến động lớn như hiện nay , các ngân

hàng thương mại Việt Nam đã cố gắng để thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật
trong hoạt động ngân hàng. Số lượng các ngân tham gia tăng hơn nhiều so với các năm.
Quy mô và mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại được mở rộng hơn so với
trước đây.
Trong bối cảnh các ngân hàng đang tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía
mình bằng việc cố gắng mang lại lợi ích cao nhất cho người gửi tiền thì việc tạo tâm lý an
tâm về sự an toàn tiền gửi là một vấn đề quan trọng và góp phần thúc đẩy quá trình huy
động vốn . Vì lẽ đó mà việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi được các ngân hàng thương đề cao nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền lợi của
người gửi tiền với phương châm “lấy khách hàng làm tâm điểm”, các ngân hàng thương

10


maị đã có sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn các
quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi.
Trong những tháng gần đây , người ta liên tục chứng kiến những vụ đổ vỡ ngân
hàng diễn ra ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Đây được đánh giá là cuộc khủng hoảng tồi
tệ nhất trong 80 năm qua đối với một nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Như một hiệu ứng
toàn cầu , nó đã vượt qua biên giới nước Mỹ và lây lan sang nhiều nước Châu Á, Châu
Âu. Tình hình sẽ càng trở nên tồi tệ nếu như người gửi tiền ở các ngân hàng ồ ạt đến rút
tiền do tâm lý hoảng loạn . Và hơn lúc nào hết , người ta thấy vai trò của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi trong việc chung tay góp sức với Chính phủ , Ngân hàng trung ương trong
việc xử lý khủng hoảng tài chính . Các công ty bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã thực
hiện nhiều biện pháp tích cực như : tiếp nhận xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề, nâng
cao hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuyên truyền về chính sách bảo hiểm tiền gửi hoặc
công bố chính thức về tình hình tài chính ổn định của quốc gia để trấn an công chúng.
Đối với Việt Nam mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
song Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan tăng
cường giám sát sự an toàn của các ngân hàng trong nước , đồng thời rà soát sự an toàn

của ngân hàng nước ngoài mà các ngân hàng Việt Nam có quan hệ để đảm bảo an toàn
tiền gửi từ đó công bố đến người dân được biết để họ yên tâm vào sự an toàn của thị
trường tài chính Việt Nam.
Về phần mình qua 9 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng
góp tích cực đối với hệ thống tài chính ngân hàng .9 năm qua việc triển khai thực hiện có
kết quả các hoạt động nghiệp vụ như cấp chứng nhận bảo hiểm tiền, giám sát hoạt động
của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền
, hỗ trợ tài chính cho một số tổ chức tín dụng…,Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã không
ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm tiền
gửi để từng bước đưa chính sách bảo hiểm tiền gửi vào cuộc sống, góp phần củng cố
niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng nguồn vốn
huy động trong dân, khai thác nội lực cho sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở nước ta hiện
nay chính là thiếu khuôn khổ pháp lý , chưa có luật bảo hiểm tiền gửi. Các văn bản dưới
11


luật hiện chưa đồng bộ , chưa đầy đủ đã giảm năng lực hoạt động của bảo hiểm và khả
năng đóng góp của tổ chức này trong việc giám sát và ổn định hệ thống tài chính quốc
gia.
Tính đến cuối năm 2004 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận bảo
hiểm tiền gửi cho 1068 tổ chức tín dụng và tổ chức không phải tổ chúc không phải tổ
chức tín dụng được phép thực hiện một hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các
tổ chức tín dụng, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có huy động tiền gửi của các cá nhân
bằng đồng Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiển cho các loại tiền gửi
bằng ngoại tệ để góp phần thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nước.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động một số tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất
khả năng thanh toán và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt
động, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và thu hồi giấy chứng nhận bảo
hiểm của 97 tổ chức tín dụng.

Như vậy trong năm 2005, số lượng các tổ là 191 đơn vị , trong đó có 5 Ngân hàng
thương mại nhà nước, 34 Ngân hàng thương mại cổ phần , 25 Ngân hàng nước ngoài và
ngân hàng liên doanh, 4 công ty tài chính và 903 quỹ tín dụng nhân dân. Ngoài ra vấn đề
thu bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng đã được thục
hiện tốt. Bảo hiểm tiền gửi thườn xuyên theo dõi, hướng dẫn , đôn đốc các đơn vị tính và
nộp phí , đảm bảo nguyên tắc thu đúng thu đủ kịp thời theo quy định cuả Nhà nước. Số
phí bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng
5 năm sau so với 5 năm trước ở mức 20 – 25%. Đây là nguồn tài chính quan trọng để bảo
hiểm tiền gửi Việt Nam tăng cường năng lực xử lý các rủi ra có thể xảy ra từ phía các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , hạn chế tới mức thấp nhất việc bao cấp từ ngân sách
nhà nước.
Theo quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi thì các đơn vị tham gia bảo hiểm
tiền gửi đã chấp hành nghiêm chỉnh, nhất là vấn đề nộp phí bảo hiểm tiền gửi.Các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi nhất là các ngân hàng thương mại đã nộp đầy đủ và đúng thời
gian mà pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định.
b. Các ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện các quy định của pháp luật
b.1 Về đóng phí bảo hiểm tiền gửi:
12


Hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam đều nộp đúng, đủ mức phí theo quy
định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi. Nhìn chung các ngân hàng thương mại trên địa bàn
Hà Nội, khu vực Bắc trung bộ , khu vực Nam trung bộ và Tây nguyên đã nộp đủ và đúng
thời hạn mức phí mà luật bảo hiểm tiền gửi quy định. Một số ngân hàng thương mại đã
nộp thừa phí như ba ngân hàng thương mại ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có cơ
sở tại các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng , An Giang, Đồng Tháp nộp phí thừa với tổng số
tiền là 78.290.000 đồng. Nguyên nhân nộp thừa là không loại trừ số dư tiền gửi không
được bảo hiểm khi lấy số dư để tính phí…Những trường hợp này đã được baỏ hiểm tiền
gửi Việt Nam nhắc nhở.
Tuy nhiên trong việc nộp phí theo quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi có nhiều

điều cần phải quan tâm.
Trong thời gian gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển nhanh, mạnh cả về
quy mô hoạt động và tốc độ tăng trưởng. Hầu hết các đơn vị đầu tư hệ thống công nghệ
thông tin hiện đại trong các hoạt động kinh doanh đã mang lại hiệu quả, nâng cao uy tín,
hình ảnh đơn vị, đáp ứng yêu cầu phát triển hội nhập.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ngoạn mục đó, còn những bất cập xuất phát từ
nguyên nhân chủ quan, khách quan mà nhiều ngân hàng thương mại chưa thực sự quan
tâm khắc phục. Một trong những vấn đề đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về
tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi.
- Sai sót thường gặp trong cách tính phí.
Theo quy định, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi- Trong đó có các ngân hàng
thương mại- có nghĩa vụ nộp phí BHTG bốn kỳ trong năm, định kỳ hàng quý với mức phí
0,15%/ năm tính trên toàn bộ số dư bình quân được bảo hiểm.
Căn cứ đối tượng tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn
tính, nộp phí BHTG của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ( DIV), các ngân hàng thương mại,
các tổ chức hoạch toán, kế toán và ứng dụng phần mềm tùy thuộc điều kiện của mỗi đơn
vị để tính phí một cách nhanh chóng, đơn giản.
Thế nhưng, việc triển khai thực hiện tính và nộp phí BHTG tại một số Ngân hàng
thương mại thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí được xem như là công
việc hoàn thiện sau, mặc dù đã qua 8 năm thực hiện. Trong đó, nhiều Ngân hàng thương
13


mại từng được các đoàn kiểm tra của DIV kiến nghị khắc phục chỉnh sửa tại đợt kiểm tra
trước đây, nhưng việc nộp thừa, thiếu phí vẫn tiếp tục xảy ra.
Qua đợt kiểm tra mới đây đối với các Ngân hàng thương mại có trụ sở chính tại
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, 2/3 số đơn vị tính và nộp thừa phí, có đơn
vị, số phí nộp thừa lên tới trên tỉ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chưa xác
định đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm và không loại trừ đối tượng không được bảo
hiểm.

Điều này xuất phát từ việc, ngay từ đầu các đơn vị chưa thực sự quan tâm việc tổ chức
hạch toán kế toán tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là cá nhân, tiền gửi của tổ chức tín
dụng, tổ chức kinh tế một cách thống nhất, đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước tại
Quyết định 479/2004QĐ-NHNN và Quy chế tiền gửi tiết kiệm tại Quyết định số
1160/2004/QĐ-NHNN.
Đồng thời, chưa chú trọng việc tổ chức hạch toán nhóm tiền gửi thuộc đối tượng tiền
gửi được bảo hiểm. Từ đó dẫn đến việc tính phí cho cả số dư tiền gửi của tổ chức tín
dụng, tổ chức kinh tế, tiền gửi bằng ngoại tệ là những đối tượng không được bảo hiểm,
làm tăng chi phí không đáng có cho đơn vị, giảm đáng kể nguồn vốn trong thời gian dài
mà không được phát hiện.
Một thách thức khác mà các Ngân hàng thương mại đang phải tìm cách vượt qua,
đó là trong điều kiện gia tăng một số lượng đáng kể các chi nhánh, điểm giao dịch mở ra,
thì việc tìm kiếm, bố trí nguồn nhân lực lành nghề, phù hợp và ứng dụng kịp thời phần
mềm cho hoạt động nói chung và cho công tác thống kê, báo cáo cũng như tính phí là
việc làm khó khăn.
Xung quanh việc tính và nộp phí BHTG, đã nhiều năm nay các tổ chức tham gia
BHTG có ý kiến với cơ quan chức năng sớm hoàn thiện, đưa cơ chế chính sách của Nhà
nước trong lĩnh vực hoạt động này đi vào cuộc sống, phù hợp với thực tế.
Hầu hết các đơn vị muốn sự minh bạch, công bằng trong chính sách BHTG, rằng họ
phải nhận được lợi ích từ phía tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tương xứng với nghĩa vụ đóng
góp phí BHTG, như được cảnh báo sớm hơn rủi ro, được hỗ trợ tài chính khi cần thiết…
Những đơn vị hoạt động lành mạnh không thể đánh đồng cùng với đơn vị yếu kém,
với mức phí BHTG đồng hạng là 0,15%/năm như hiện nay. Hầu như các tổ chức tham gia
14


BHTG đều thống nhất thu phí BHTG theo mức độ rủi ro và có những tiêu chí đánh giá,
xếp hạng phù hợp, chính xác.
Những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHTG, những yêu
cầu tất yếu khách quan xuất phát từ thực tế hoạt động BHTG, đòi hỏi cấp thiết phải có cơ

sở pháp lý cao nhất là Luật Bảo hiểm tiền gửi, đồng bộ, nhất quán với các luật khác liên
quan.
Trên cơ sở pháp lý của luật, mọi hành vi hoạt động của tổ chức, cá nhân liên quan
đến hoạt động BHTG được điều chỉnh kịp thời, nâng cao trách nhiệm, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mỗi chủ thể tham gia, đặc biệt bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền.
Nhưng dù ở mức nghị định hoặc cao hơn là luật, thì pháp luật về BHTG cũng đều
công bằng và mỗi chủ thể là tổ chức, cá nhân tham gia đều có nghĩa vụ thực hiện theo
quy định.
- Một số khuyến nghị nhằm khắc phục:
+ Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tổ chức hạch toán đúng đối tượng tiền gửi tiết
kiệm của cá nhân, tiền gửi của tổ chức theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, để có cơ
sở tính phí BHTG chính xác.
+ Trên cơ sở hạch toán đúng các loại tiền gửi và tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm,
nên ứng dụng phần mềm phù hợp để tính phí BHTG một cách chính xác.
+ Có biện pháp theo dõi và hạch toán tiền gửi của các đối tượng phải loại trừ khỏi số dư
tính phí như: thành viên Hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát…
+ Tổ chức, phân quyền kiểm tra, kiểm soát hệ thống tài khoản mở mới của tổ chức, cá
nhân - đặc biệt đối với hệ thống Ngân hàng thương mại giao dịch Tuy nhiên, bên cạnh sự
phát triển ngoạn mục đó, còn những bất cập, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, khách
quan mà nhiều Ngân hàng thương mại chưa thực sự quan tâm khắc phục. Một trong
những vấn đề đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về tính và nộp phí bảo hiểm
tiền gửi (BHTG).
b. 2 Về Việc chấp hành chế độ kiểm tra, giám sát các ngân hàng thương mại đối với
các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi.
Như trên đã phân tích thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc
kiểm tra giám sát quá trình thực hiện các quy định pháp luật của các tổ chức tham gia bảo
15


hiểm tiền gửi. Thông qua công tác kiểm tra giám sát, bảo hiểm tiền gửi đã phát hiện ra

các sai sót trong quá trình thực các quy định pháp luật mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi mắc phải và có biện pháp kịp thời để xử lý.Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thường
xuyên phối hợp chặt chẽ với thanh tra Ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Kiểm tra việc thực hiện
các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và quy chế an toàn trong hoạt động ngân
hàng
Qua công tác kiểm tra , giám sát tại các ngân hàng thương mại của các chi nhánh
ngân hàng khu vực như các ngân hàng thương mại ở trên địa bàn Hà Nội, ở khu vực đồng
bằng sông Cửu Long thì tình hình tuân thủ pháp luật khá nghiêm chỉnh, sai phạm không
đáng kể. Nhìn chung các ngân hàng đều đã thực hiện theo quy định mà pháp luật đưa ra.
Nhìn chung các ngân hàng thương mại nghiêm chỉnh tuân thủ quy chế kiểm tra giám
sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, và công tác kiểm tra giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi được các ngân hàng thương mại nhìn nhận dưới “góc nhìn mới” chứ không đơn thuần
là dưới góc độ có sai phạm mới bị kiểm tra, giám sát. Qua việc áp dụng quy định về
kiểm tra , giám sát của bảo hiểm tiền gửi , ngân hàng thương mại đã rút ra những sai
phạm, yếu kém mà mình mắc phải trong quá trình hoạt động, đồng thời đưa ra các giải
pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động, tạo tâm lý ổn định cho khách hàng và nâng cao phát
triển và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn
cho hoạt động tài chính ngân hàng. Thể hiện, các ngân hàng thương mại và bảo hiểm tiền
gửi đã có sự phối hợp khá tốt và chặt chẽ trong vấn đề này. Bản thân các ngân hàng
thương mại thương mại cũng đã có sự nhìn nhận và đánh giá đúng về công tác kiểm tra,
giám sát của bảo hiểm tiền gửi,để qua đó có sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả hơn.
b.3 Công tác báo cáo, chi trả Bảo hiểm tại Ngân hàng thương mại
Hiện nay các ngân hàng thương mại đã có nhiều chuyển biến tốt trong việc thực hiện
thông tin báo cáo đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam . Tuy nhiên còn có nhiều ngân
hàng thương mại còn gửi báo cáo chậm, gửi báo cáo chưa đủ các chỉ tiêu báo cáo ngày ,
tuần, tháng như bảng cân đối kế toán nguyên tệ, phân loại nợ và trích lập dự phòng...Ví
dụ như trường hợp ngân hàng thương mại Miền Tây hầu như không thực hiện báo cáo
ngày do không còn phần mềm hỗ trợ , một số chỉ tiêu báo cáo đơn vị không có khả năng
16



thực hiện và do thiếu nhân sự. Nhưng nhìn chung thì qua công tác kiểm tra tại chỗ của
bảo hiểm tiền gửi cho thấy đa phần các ngân hàng thương mại chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi như phí bảo hiểm tiền gửi, đối tượng tiền
gửi, chi trả đầy đủ cho người gửi tiền trong những trường hợp cần thiết...
Trong tình hình kinh tế khủng hoảng như hiện nay,các ngân hàng thương mại ít nhiều
ảnh hưởng,việc đảm bảo thanh toán cho người gửi tiền gặp không ít khó khăn cần phải có
biện pháp khắc phục. Để giải quyết khó khăn về thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn để hoạt
động và đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền trong tình hình lạm phát cao,
trên cơ sở mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước quy định , các ngân hàng đồng
loạt tăng lãi suất để thu hut khách hàng gửi tiền, do đó vốn huy động từ thị trường tiền
gửi vẫn khá cao so với các năm. Mặc dầu có những khó khăn cho hoạt động của các ngân
hàng thương mại nhưng nhìn chung các ngân hàng vẫn phát triển khá ổn định.
IV.

Một số nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi
tại các ngân hàng thương mại.

Trong thời gian qua hoạt động bảo hiểm tiền gửi được triển khai dựa trên cơ sở Nghị
định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định 109/ 2005/NĐCP sửa đổi bổ sung một số điêù của Nghị định số 89. Theo đó nhiều cơ sở pháp lý chi tiết
đã được cụ thể hóa bằng các văn bản hướng dẫn,điều chỉnh ba đối tượng chính có liên
quan trực tiếp trong triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi, đó là người gửi tiền , tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Hiệu quả của hoạt động bảo
hiểm tiền gửi được đánh giá thông qua việc đáp ứng một các hài hòa và hợp lý mong
muốn và chính đáng của ba đối tác này, từ đó củng cố và duy trì niềm tin của người gửi
tiền trên cơ sở đảm bảo hoạt động an toàn của tổ chức huy động tiền gửi. Với tiền trình
phát triền của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, một số vấn đề về bảo hiểm
tiền gửi tại Nghị định 89 đã bộc lộ những bất cập cần được điều chỉnh. Đáp ứng yêu cầu
đó , ngày 24/8/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109 nhằm sửa đổi một số điều

của nghị định 89.
Mong muốn của người gửi tiền được đáp ứng ở mức cao hơn. Trong triển khai chính
sách bảo hiểm , người gửi tiền đối tượng mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi nhằm mục đích
bảo vệ cao nhất, có mong muốn được bảo hiểm đối với tiền gửi trong tiền lãi của
17


mình.Với cách nghĩ đơn giàn , họ mong muốn tiền gửi của mình được bảo hiểm và được
chi trả tối đa khi có đổ bể ngân hàng xảy ra. Như vậy để đáp ứng tốt hơn mong muốn của
người gửi tiền, các ngân hàng cần quan tâm tới: một là mở rộng loại tiền gửi được bảo
hiểm; hai là tăng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Hạn mức chi trả tối đa đối với một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi đã được tăng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng. Người gửi tiền có thể gửi tiền
lớn hơn hạn mức chi trả này sẽ được sẽ được tiếp tục thanh toán từ tiền thu thanh lý tài
sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với quy định của pháp luật về giải
thể, phá sản.
Mong muốn của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được xem xét, nghiên cứu và có
định hướng thích hợp hơn.
Với chính sách tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc, các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi có mong muốn, một là đóng phí bảo hiểm tiền gửi phù hợp với chất lượng hoạt
động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, hai là nhận được sự hỗ trợ kịp thời và đa
dạng từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi,ba là chi trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người gửi tiền.
Thứ nhất, về chi phí đóng BHTG , một mặt ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của tổ
chức tham gia BHTG đồng thời khả năng hoạt động ngân hàng càng phát triển thì tỷ lệ
phí áp dụng đối với các ngân hàng thương mại còn có tác dụng phản ánh chất lượng hoạt
động của tổ chức huy động tiền gửi.Để có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng,
cơ chế về phí BGTG theo đúng hình thức tỷ lệ phí BHTG không đồng hạng được xây
dựng trên cơ sở đánh giá, xếp loại từng khách hàng. Đây là một công việc khó đòi hỏi có
thời gian chuẩn bị cho việc đánh giá chính xác khách hàng. Trong Nghị định 109 đã đề
cập đến việc điều chỉnh phí BHTG theo loại hình tổ chức tham gia BHTG hoặc trên cơ sở

đánh giá xếp loại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ quyết
định theo đề nghị của tổ chức BHTG và ý kiến của Ngân hàng nhà nước, Bộ tài
chính.Đây là định hướng thúc đẩy nghiên cứu để sớm áp dụng phí BHTG không đồng
hạng trong tương lai, đáp ứng mong muốn của tổ chức tham gia BHTG.
Thứ hai, với chi phí đóng góp để tham gia BHTG, các tổ chức tham gia BHTG trong
đó có ngân hàng thương mại có mong muốn nhận được hỗ trợ kịp thời và đa dạng từ tổ
chức BHTG trong tình huống khó khăn. Nghị định 109 cho phép tổ chức BHTG có thể
18


triển khai các hình thức hỗ trợ từ tài chính phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngoài
các hình thức cho vay, bảo lãnh và mua lại nợ như được quy định tại Nghị định 89 trước
đây.Hơn nữa tình huống triển khai các hỗ trợ đó cũng nơi lỏng hơn trước,khi tổ chức
tham gia BHTG được Ngân hàng nhà nước Việt Nam xác định việc giải thể, phá sản của
tổ chức này có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ
thống tài chính ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội thì tổ chức BHTG được
xem xét đêt triển khai các hỗ trợ tài chính.
Thứ ba, khi tổ chức BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và phải chấm
dứt hoạt động, việc giải quyết các khoản nợ đặc biệt là nợ tiền gửi của người gửi tiền tại
tổ chức này là khó khăn lớn nhất, cần được giải quyết kịp thời. Việc chi trả cho người gửi
tiền vừa là yêu cầu cấp bách cần được giải quyết không chỉ đối với tổ chức tham gia
BHTG đó mà còn là yêu cầu cần được giải quyết ngay để tránh ảnh hưởng gây rút tiền
đồng loạt có thể lây truyền sang các ngân hàng.
Ngoài ra các tổ chức BHTG được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao với
hiệu quả cao hơn.
Để có thể thực hiện được mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người
gửi tiền, duy trì niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia , góp phần
đảm bảo an toàn và ổn định hoạt động ngân hàng , tổ chức BHTG cần có điều kiện triển
khai hiệu quả và đồng bộ các hoạt động nghiệp vụ. Cơ sở pháp lý cho phép triển khai
đồng bộ các hoạt động nghiệp vụ và đảm bảo về vốn là hai điều kiện cơ bản quyết định

thành công của chính sách BHTG đã được Nghị định số 109 quy định.
Hiện nay việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các
ngân hàng, đặc biệt là trong các ngân hàng thương mại Việt Nam khá đồng bộ và ngày
càng được chú trọng.Việc tuân thủ chính sách pháp luật đầy đủ đã giúp cho các ngân
hàng thương mại hoạt động tốt và có hiệu quả,củng cố niềm tin của khách hang, giúp các
ngân hàng này đủ sức để cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác, với các ngân hàng
mạnh nước ngoài trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO.Hơn nữa tuân thủ đầy đủ quy
định của pháp luật BHTG còn giúp các Ngân hàng thương maị vượt qua được cơn khủng
hoảng tài chính hiện nay, đảm bảo hoạt động ngân hàng ổn định và ngày càng phát triển.

19


Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập. Một số ngân hàng còn cố tình thực
hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi,nhất là
trong công tác kiểm tại chổ của tổ chức BHTG, lý do chủ yếu là do các ngân hàng còn
ngần ngại, không muốn tiết lộ hoạt động của mình.Một sai phạm thường gặp nữa là trong
việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi.Đó là tình trạng nộp phí thừa hay cố tình trốn tránh không
nộp phí BHTG,nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ. Ngoài ra trong việc thực hiện các
quy định về đối tượng bảo hiểm,chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền, trong việc bảo vệ tối
đa lợi ích của người gửi tiền cũng tồn tại nhiều vấn đề cần được khắc phục và cần phải có
quy định cụ thể hơn nữa.
Nguyên nhân còn tồn tại nhiều bất cập nói trên một phần do ý thức chấp hành pháp
luật của một bộ phận ngân hàng thương mại Việt Nam, phần quan trọng nữa là hiện nay ở
nước ta còn thiếu khuôn khổ pháp lý, chưa có Luật BHTG . Các văn bản pháp luật chưa
đồng bộ, chưa đầy đủ đã làm giảm năng lực hoạt động của BHTG và đóng góp của tổ
chức này trong việc giám sát và ổn định hệ thống tài chính quốc gia,ảnh hưởng đến quá
trình áp dụng pháp luật của các tổ chức tham gia BHTG trong đó có các ngân hàng
thương mại.Tới đây, trong việc xây dựng Luật BHTG, thể chế, mô hình của tổ chức
BHTG ở Việt Nam như thế nào là vấn đề cần bàn nhưng cùng với quá trình phát triển

của nền kinh hội nhập đặt ra yêu cầu về vai trò, chức năng giám sát của tổ chức BHTG
trở nên quan trọng nhằm phòng ngừa rủi ro thay vì chỉ xử lý đổ vỡ một cách thụ động.
V.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm
tiền gửi.

- Nâng cao năng lực tài chính cho tổ chức BHTG Việt Nam: Năng lực tài chính của tổ
chức BHTG Việt Nam chủ yếu dựa trên mức phí đóng góp của tổ chức tham gia BHTG
và nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp ( 5000 tỉ đồng). Theo đó, pháp luật nên quy
định tỉ lệ vốn mục tiêu cho BHTG và mở rộng lĩnh vực đầu tư mà tổ chức BHTG được
phép tham gia, được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ,
tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và gửi tiền taị Ngân hàng Nhà nước theo quy định về chế
độ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhằm tăng nguồn vốn cho tổ chức BHTG.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của công chúng về chính
sách BHTG Việt Nam. Đây là một lĩnh vực mới nên hoạt động tuyên truyền để nâng cao
20


hiểu biết của công chúng đối với tổ chức BHTG có ý nghĩa vô cùng quan trọng. BHTG
Việt Nam cần phải đẩy mạnh và thường xuyên đổi mới các phương thức tuyên truyền
quảng bá một cách rộng rãi đến công chúng, đặc biệt là đối với những người dân ở vùng
nông thôn. Từ đó tạo ra được lòng tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, đồng
thời giúp cho hoạt động huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư dễ dàng hơn, góp phần phát
triển kinh tế đất nước.
- Cần tiếp tục hoàn thiện Bộ máy tổ chức theo mô hình giảm thiểu rủi ro và đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đổi mới trong xu thể hội nhập. Ở Việt Nam hiện nay, tổ
chức bảo hiểm tiền gửi đang thực hiện mô hình giảm thiểu rủi ro chưa đầy đủ. Ngoài việc
chi trả tiền bảo hiểm thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam còn hỗ trợ cho các tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi và tham gia vào quá trình giám sát rủi ro, xử lý vi phạm đối

với tổ chức tham gia BHTG. Mô hình tổ chức này giúp thực hiện tốt vai trò bảo vệ người
gửi tiền và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng nên cần tiếp tục được hoàn thiện
hơn.
Hơn nữa hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguồn
nhân lực của tổ chức, vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, huấn luyện nghiệp
vụ để xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đảm bảo các tiêu chuẩn về chuyên môn
ngày càng cao trong xu thế hội nhập của đất nước.
- Tăng cường sự phối hợp giữa bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với các tổ chức có liên
quan. Hoạt động ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chịu sự chi phối của
các quan hệ kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Vì vậy, sự phối hợp, chia sẻ thông
tin giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan đến hoạt động BHTG như ủy ban giám sát,
ngân hàng nhà nước, bộ tài chính, BHTG Việt Nam là rất cần thiết để kịp thời ứng phó
với những tình huống xấu.
- Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế. Việt Nam cần tăng cường hơn
nữa những hoạt động giao lưu với các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới, từ đó trao
đổi kinh nghiệm cũng như thành tích đạt được nhằm tiếp thu những kinh nghiệm quý báu
của nước bạn trong quản lý, tổ chức và hoạt động Bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam phải phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế đồng thời tăng cường

21


tham gia các diễn đàn tài chính- ngân hàng để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính
cho hoạt động của mình

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

-

Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam;


-

Luật các tổ chức tín dụng;

-

Tạp chí Ngân hàng 2005;

-

Tạp chí Ngân hàng 2008;

-

Tạp chí Luật học 2002;

-

Luật doanh nghiệp 2005;

-

Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm
tiền gửi;

-

Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/0/1999 của Chính phủ về bảo

hiểm tiền gửi;

-

Đinh Thị Thu Hiền: “ Một số vấn đề pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt
Nam hiện nay”.

-

Nguyễn Thị Thùy Linh: “ Chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng
và phương hướng hoàn thiện”;
- Phạm Tiến Sỹ: “ Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam- Thực trạng và phương
hướng hoàn thiện”;
- Một số trang wed liên quan:
22



×