Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.18 KB, 12 trang )

Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng(GTGT):
1.Khái niệm về thuế giá trị gia tăng:
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo luật định không hoàn lại trực tiếp đối với
các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước
Gía trị gia tăng là khoản giá trị mới tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh
trong quá trình sản xuất, lưu thông tới tiêu dung.
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008: “Thuế giá trị
gia tăng (VAT –Value Added Tax) là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hang
hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông tiêu dung”. Như vậy có
nghĩa là loại thuế có đối tượng chịu thuế rất rộng, chỉ đánh trên phần giá trị tăng
thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh và tổng số thuế thu được ở các
khâu chính bằng số thuế tính trong giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng
2. Đặc điểm:
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Đối tượng chịu thuế
được quy định tại Điều 3 của Luật này, theo đó đối tượng chịu thuế gồm: Hàng hóa,
dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu
thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này. Chính vì
vậy, mà chủ thể phải nộp thuế GTGT rất rộng, bất kỳ tổ chức, cá nhân nào, không
phân biệt giàu hay nghèo. Khi các chủ thể này muốn thụ hưởng kết quả sản xuất,
kinh doanh thì đều phải chịu thuế GTGT.
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch
vụ. Từ đó làm cho số thuế áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không
gây ra những đột biến về giá cả. Đây cũng là một trong những cách thức giúp Nhà
nước kiểm soát giá cả thị trường.
Thứ ba, tổng số thuế phải nộp qua các khâu bằng số thuế cuối cùng tính trên
tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải nộp. Đây là đặc điểm
mang tính ưu việt hơn hẳn so với Luật thuế doanh thu trước kia mà nước ta áp dụng.


3. Khái niệm pháp luật thuế giá trị gia tăng:
Pháp luật thuế giá trị gia tăng là tổng hợp các quy phạm luật do nhà nước ban
hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế,
quản lý và quyết toán thuế giá trị gia tăng.
II. Nội dung pháp luật thuế giá trị gia tăng:
1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế GTGT
a.Đối tượng nộp thuế GTGT
Theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế GTGT năm 2008 thì đối tượng chịu thuế
GTGT là “hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

Nam”. Như vậy, tất cả các hàng hóa, dịch vụ không năm trong diện đặc biệt khuyến
khích tiêu dùng đều nằm trong diện chịu thuế.
Điều 4 Luật Thuế GTGT năm 2008 quy định: “ Người nộp thuế giá trị gia tăng
là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng
(sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế
giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu)”.
Điều 5 Luật Thuế GTGT năm 2008 đã quy định 25 trường hợp hàng hóa, dịch
vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT bao gồm một số nhóm ngành hàng, dịch vụ có
nhu cầu tiêu dung thiết yếu, hàng đặc biệt phục vụ an ninh quốc phòng,…
b.Cơ quan quản lý, thu thuế GTGT:
Mục 1 phần Đ thông tư số 129/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật thuế giá trị
gia tăng và Nghị định 123/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của luật thuế GTGT quy định:
“1. cơ quan thuế chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quản lý thu thuế giá trị gia
tăng và hoàn thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh,
2. Cơ quan Hải quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quản lý thu thuế GTGT

đối với hàng hóa nhập khẩu”.
3.Căn cứ tính thuế GTGT
Tại Điều 7 Luật Thuế GTGT năm 2008 có quy định giá trị thuế GTGT đối với
từng mặt hàng, và đối với hoạt động kinh doanh phổ biến, giá tính thuế dịch vụ,
hàng hóa chịu thuế là giá chưa có thuế GTGT đối với hàng hóa dịch vụ đó,Trường
hợp, hàng hóa dịch vị thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, giá tính thuế GTGT là
giá đã có thuế tiêu thụ đặc biệt
Hiện nay, Việt Nam áp dụng ba mức thuế suất GTGT dành cho các nhóm hàng
hóa, dịch vụ khác nhau:
- Mức thuế suất 0% được áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu không
phân biệt đối tượng và hình thức xuất khẩu
- Thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát
triển, đầu tư. Đó là các sản phẩm thiết yếu, sản phẩm công nghiệp nặng hoặc công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công cộng.
- Mức thuế suất 10% được áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ thông thường
4. Phương pháp tính thuế GTGT
Điều 9 Luật thuế GTGT quy định “Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng gồm
phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng và phương pháp tính trực tiếp trên giá
trị gia tăng”
- Phương pháp khấu trừ thuế GTGT áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực
hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế
toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, trừ
các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Theo
đó, số thuế GTGT phải nộp sẽ bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ.

12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2


- Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được quy định tại Điều 11 Luật
thuế GTGT, theo đó “Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực
tiếp trên giá trị gia tăng bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với
thuế suất thuế giá trị gia tăng”. Điều kiện áp dụng phương pháp này là: Cơ sở kinh
doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt
Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế
toán, hoá đơn, chứng từ; Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý.....
5. Quản lý thuế GTGT
a. Đăng kí, kê khai và nộp thuế
Điều 21 Luật quản lý thuế năm 2006 quy định mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh
đều phải đăng kí thuế
Đối với các chủ thuế kinh doanh thông thường hàng tháng phải kê khai đầy đủ,
chính xác thuế GTGT với cơ quan thuế, khong phân biệt có phát sinh nghĩa vụ thuế
thức tế trong thắng hay không.
Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có trách nhiện kê khai thuế GTGT cho từng
lần nhập khẩu.
b. Hoá đơn, chứng từ:
Luật thuế GTGT quy định chi tiết về các loại chứng từ, hoá đơn áp dụng cho các
đối tượng nộp thuế là:
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hoá đơn
GTGT
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị tăng sử
dụng hoá đơn bán hàng.
c. Hoàn thuế GTGT:
Hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế GTGT đã
nộp vượt quá của chủ thế nộp thuế. Các đối tượng được hoàn thuế được quy định tại
Điều 13 Luật thuế GTGT, đó là cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương
pháp khấu trừ thuế trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế GTGT đầu vào chưa
được khấu trừ hết;

III. Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam:
1. Những thành tựu đã đạt được:
1.1.Đối với nền kinh tế nói chung:
Theo nghiên cứu và thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (IMF), phần lớn các nước trong đó có Việt Nam, sau khi áp dụng thuế GTGT, giá
cả các loại hàng hóa, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay đổi một tỷ lệ không
đáng kể, mức sản xuất của các DN, mức tiêu dùng của dân chúng không sút giảm
hoặc sút giảm không nhiều. Thuế GTGT góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu
thông hàng hóa, góp phần thúc đẩy sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu; Qua những
năm triển khai và thực hiện, Luật thuế GTGT đã đem lại một số thành tựu đáng kể.
Cụ thể là đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và
đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT còn góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ
sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế.
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

Thuế GTGT thu trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ ở các khâu sản xuất,
lưu thông nên khắc phục được nhược điểm cơ bản của luật thuế doanh thu là thu
trùng lặp qua các khâu sản xuất, kinh doanh, tạo sự công bằng hơn về thuế, từ đó
góp phần thực hiện hợp tác, lưu thông hàng hóa. Điều này đã góp phần tích cực phần
vào lấy lại đà tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao.Nếu như năm 1999, tăng trưởng
kinh tế nằm ở điểm đáy so với các năm trước đó và sau đó, có ý kiến cho rằng
nguyên nhân của mức tăng trưởng thấp là do ảnh hưởng của việc áp dụng Luật thuế
GTGT làm ảnh hưởng đến người sản xuất và tiêu dùng. Thực tế, người ta thấy rằng
nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng trên là do tác động của cuộc khủng hoảng tiền
tệ khu vực năm 1997-1998 cùng với sự giảm sút của vốn đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, những năm đó, nền kinh tế nước ta đã phát triển trở lại đó là minh chứng cho
thấy hiệu quả của việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. Tính chung 6 tháng đầu

năm 2010, GDP trong nước tăng 6,16% so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng GDP
6 tháng đầu năm tuy chưa bằng mục tiêu 6,5% đề ra cho cả năm nhưng là tốc độ
tăng khá cao trong điều kiện sản xuất, kinh doanh trong nước còn gặp khó khăn,
điều đó cho thấy nền kinh tế nước ta phục hồi rất nhanh và có khả năng đạt mức
tăng trưởng cao hơn trong thời gian tới.
Ngoài ra, việc áp dụng luật thuế GTGT còn góp phần tạo ra một hành lang pháp
lý thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng vốn đầu tư theo giá
trực tiếp vào Việt Nam liên tục tăng lên trong các năm. Năm 1998 là 8,1% đến 1999
sau một năm luật thuế GTGT đi vào thực tiễn tốc độ này đã tăng lên 12%. Trong 10
năm gần đây, con số này không ngừng tăng, có thể kể đến trên 124 tỷ USD vốn đăng
ký cấp mới thuộc gần 8,5 nghìn dự án; vốn thực hiện đạt gần 48 tỷ USD; đầu tư từ
khu vực FDI chiếm khoảng 25-30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
Đối với nền kinh tế nói chung, tác động của thuế GTGT còn thể hiện thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu. Thuế GTGT hàng nhập khẩu do được tính trên giá mua
(đã có thuế nhập khẩu) nên làm cho phần chi trả của DN cao hơn nhiều so với cùng
loại hàng mua trong nước. Vì vậy thuế GTGT có tác dụng hạn chế nhập khẩu, tích
cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa. Theo quy định hiện hành, đối với hàng
hóa nhập khẩu, ngoài thuế nhập khẩu còn phải nộp thêm thuế GTGT, như vậy giá
hàng nhập khẩu đã tăng lên. Lúc này, các doanh nghiệp không thể nhập hàng hóa
một cách ồ ạt, thiếu tính toán, họ sẽ phải cân nhắc, xem xét kĩ càng tính hiệu quả của
hàng hóa nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết mà doanh
nghiệp trong nước đã sản xuất được hay những mặt hàng có giá nhập khẩu cao mà
sức mua trên thị trường nội địa lại thấp.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước thì việc đánh thuế GTGT đối với
hàng nhập khẩu cũng là cơ hội để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa với hàng
nhập khẩu. Giá cả của các mặt hàng nhập khẩu cũng sẽ tăng lên tuy nhiên mức độ
tăng giá sẽ là mức tối thiểu do sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và
các doanh nghiệp trong nước. Lúc này, giải pháp tốt nhất cho các doanh nghiệp nhập
khẩu là cải tiến quá trình sản xuất kinh doanh, tiết kiệm chi phí. Tất cả những biểu
hiện trên đều xuất phát từ việc áp dụng thuế GTGT. Theo luật thuế GTGT hiện hành

thì mức thuế suất 0% được áp dụng đối với hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu. Như vậy, các doanh nghiệp không những không phải nộp thuế GTGT đầu ra
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

mà còn được hoàn thuế GTGT đầu vào. Điều này đã khuyến khích hoạt động xuất
khẩu rất nhiều. Năm 2001 do tình trạng tăng trưởng của thế giới giảm sút mạnh đã
làm cho hoạt động xuất khẩu của nước ta cũng bị ảnh hưởng. Năm 2004 với tốc độ
tăng 28,2% hệ số giữa tốc độ tăng của xuất khẩu so với tốc độ tăng của GDP đạt trên
3,7 lần. Đây cũng là hệ số cao nhất so với 3 năm trước đó (năm 2001 là 0,6 lần; năm
2002 là 1,6 lần; năm 2003 là 2,9 lần) và là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm cho đà tăng trưởng kinh tế cao lên trong mấy năm qua. Năm 2008, Việt Nam
xuất khẩu được khoảng 64,8 tỷ dollar Mỹ, trong đó khoảng 32,1 % giá trị xuất khẩu
là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45,2% là hàng công nghiệp nhẹ và hàng
tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thủy sản.
1.2. Đối với thu ngân sách nhà nước.
Thuế GTGT được áp dụng rộng rãi với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản
phẩm hàng hóa hoặc được cung ứng dịch vụ, đã góp phần tạo nguồn thu lớn và
tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước (NSNN). Thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong các sắc thuế – khoảng 20% tổng số thu NSNN. Luật thuế GTGT ban hành
là cơ sở pháp lý vững chắc để ổn định nguồn thu từ thuế GTGT vào ngân sách nhà
nước, đảm bảo nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu khi áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu đó không chỉ nhằm ổn
định mà còn phải làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Qua nhiều năm đi
vào cuộc sống, cơ bản mục tiêu này đã thu được những mục tiêu đáng ghi nhận: số
thu về thuế GTGT không giảm so với thuế doanh thu trước đây(theo số liệu báo cáo
của Bộ Tài chính tính toán khi đưa thuế GTGT vào áp dụng thì: số thuế GTGT nhập
khẩu tăng 9000 tỷ, bố trí để hoàn thuế cho hàng xuất khẩu là 4000 tỷ, đưa vào ngân

sách khoảng 5000 tỷ, trong khi đó thu thuế GTGT nội địa giảm 5000 tỷ; vậy thu
thuế GTGT tương đương với thuế doanh thu khi đang hiện hành). Trên thực tế áp
dụng thì thuế GTGT thu hàng năm liên tục tăng. Tổng số thu cho ngân sách nhà
nước từ thuế, phí và lệ phí hàng năm tăng rõ rệt, tỷ trọng thuế GTGT trên tổng số
thu từ thuế, phí và lệ phí cũng tăng.
Số thuế GTGT được tập trung thu ở khâu sản xuất, nhập khẩu hàng hóa. Khi áp
dụng thuế GTGT cơ cấu giá hàng nhập khẩu còn có thêm cả phần thuế GTGT đánh
vào hàng nhập khẩu. Do đó, có thể thấy nguồn thu từ ngân sách nhà nước đối với
hàng hóa nhập khẩu bị giảm một khoản là phần GTGT được tạo ra ở nước ngoài
nhưng chưa được tính thuế tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Vì vậy, theo quy định của
thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu phải tính thêm phần GTGT, lúc này, doanh
nghiệp nhập khẩu vừa phải nộp thuế nhập khẩu vừa phải nộp thuế GTGT. Những
quy định trên không những làm tăng số thu mà còn tập trung nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, tránh được hiện tượng bỏ sót nguồn thu đặc biệt là đối với một nước
có kim ngạch nhập khẩu lớn như Việt Nam hiện nay.
1.3. Đối với việc hệ thống chính sách thuế ở Việt Nam.
Trước đây, với thuế doanh thu, có tới 10 thuế suất dao động từ 1% - 40% được
ban hành vào năm 1990 và 58 nhóm thuế suất nếu xét theo ngành nghề. Biểu thuế
doanh thu năm 1991 còn chi tiết hơn, có tới 16 thuế suất khác nhau từ 0%, 0,5% đến
40%. Nếu xét theo ngành nghề hoạt động kinh doanh thì có tới 61 nhóm thuế suất.
Năm 1993 sau khi bổ sung, chỉnh sửa, thuế doanh thu được chi tiết hóa tới 17 thuế
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

suất khác nhau từ 0%, 0,5% đến 40%. Năm 1994, sau khi bổ sung chỉnh sửa, biểu
thuế doanh thu có 18 thuế suất khác nhau và 61 nhóm thuế suất nếu xét theo ngành
nghề. Biểu thuế doanh thu năm 1995 sau khi được bổ sung, chỉnh sửa còn lại 11
thuế suất từ 0%; 0,5% đến 30% và 56 nhóm thuế suất theo ngành nghề. Việc quy

định nhiều mức thuế suất như trên đã có tác động không tốt cho quá trình phân công
lao động xã hội và phân bổ vốn, đồng thời cũng gây khó khăn nhất định cho công
tác quản lý thu, nộp thuế, tạo kẽ hở cho việc trốn thuế.
Với thuế GTGT, theo Luật thuế GTGT năm 1997, có bốn mức thuế suất được quy
định là 0%, 5%, 10% và 20% nhưng đến năm 2008 đã rút gọn lại còn ba mức thuế
suất là 0%, 5% và 10%. Việc quy định ít mức thuế suất giúp cho việc quản lý của
Nhà nước nói chung và ngành Thuế nói riêng đạt được hiệu quả tốt hơn, giảm bớt
được các hiện tượng gian lận về thuế.
Việc ban hành luật thuế GTGT thay thế thuế doanh thu đã đem lại những lợi ích
sau:
Thứ nhất, hạn chế những nhược điểm còn tồn tại của thuế doanh thu và nhằm thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, kích thích
các ngành nghề phát triển.
Thứ hai, thuế GTGT được ban hành gắn với việc sửa đổi bổ sung một số sắc thuế
khác (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp ... ) làm
cho hình thức thuế Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với cơ chế thị trường
hơn, tương đồng với hình thức thuế trong khu vực và trên thế giới góp phần tạo ra
môi trường tốt cho việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thứ ba, luật thuế GTGT ra đời còn thúc đẩy việc tăng cường thực hiện chế độ hoá
đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối với các nhà doanh nghiệp, đảm bảo số thu
ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở kinh doanh, tập trung được
nguồn thu thuế GTGT vào NSNN ngay từ khâu sản xuất, hạn chế được thất thu về
thuế ...
1.4. Cơ chế quản lý thuế.
Luật thuế GTGT góp phần tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán
và thúc đẩy việc mua bán hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc
kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh
nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến
công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua

việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc
kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế
từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
Khi thuế GTGT được áp dụng tính theo phương pháp khấu trừ, việc khấu trừ thuế
được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua vào, điều này thúc đẩy người mua đòi hỏi
người bán phải phát hành hóa đơn hợp pháp, khắc phục được tình trạng thông đồng
giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. Thuế GTGT góp phần thúc đẩy thực
hiện tốt chế độ chứng từ trong công tác kế toán với việc phải hoàn thiện đầy đủ các
hóa đơn mua, bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ. Do yêu cầu của việc kê khai thuế
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, các DN đã rất chú trọng đến công tác kế toán,
đặc biệt là kế toán thuế nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ về mặt hóa đơn. Sự
chuyển biến này thể hiện rõ rệt hơn cả trong các DN nhỏ và vừa.
Từ năm 2003, nước ta đã bắt đầu áp dụng cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế. Tuy
nhiên, do chưa đủ các điều kiện cần thiết nên chưa thể thực hiện một cách đồng bộ,
mà phải thực hiện từng bước một. Ngày 23/9/2003, Thủ tướng Chính phủ đã có
quyết định số 127/2003/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm cơ chế mới đối với doanh
nghiệp ở Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh bắt đầu từ năm
2004 và mở rộng đối với cục thuế Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu trong năm 2005. Qua
hơn hai năm thực hiện, đã thu được những kết quả tốt, phát huy tính tự giác chấp
hành và tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện cơ chế mới đã
giúp cho năng lực hiện quả hoạt động của cơ quan thuế được nâng cao. Bộ máy tổ
chức quản lý thuế được tổ chức chuyên sâu theo chức năng, các nghiệp vụ quy trình
quản lý thuế mới được xây dựng và vận hành. Các cục thuế đã thực hiện được việc
nhận và xử lý nhanh chóng, chính xác các tờ khai thuế, theo dõi được các lỗi kê khai
của các đối tượng nộp thuế; trong tháng đầu thực hiện cơ chế mới, số tờ khai lỗi rất

lớn chiếm tỷ lệ khoảng 61%, đến kỳ kê khai tháng 5/2005 số tờ khai lỗi đã giảm
xuống chỉ còn dưới 10%...cho đến nay, cơ chế quản lý tự khai, tự nộp thuế đã được
triển khai trên phạm vi toàn quốc.
1.5. Các thành tựu khác.
Việc áp dụng thuế GTGT còn thúc đẩy tăng cường quản lý, hạch toán kinh doanh
của các doanh nghiệp, nâng cao nhận thức và ý thức tự giác chấp hành luật thuế của
các đối tượng nộp thuế; hiện đại hóa công tác quản lý thuế, cải cách hành chính
thuế, nâng cao năng lực quản lý thuế.
Thứ nhất, thực hiện thuế GTGT với 3 mức thuế suất 0%, 5%, 10%, ít hơn so với
11 mức thuế suất doanh thu trước đây (từ 0,5% đến 30%) đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh, tính toán giá
thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế, nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các ngành như: cơ khí, xây dựng, vận tải....
trước khi áp dụng luật thuế GTGT còn gặp nhiều khó khăn, kinh doanh không hiệu
quả; sau khi áp dụng thuế thì đa số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu
quả hơn trước và nộp đủ thuế theo quy định;
Thứ hai, thực hiện luật thuế mới ngành thuế đã thực hiện một bước củng cố tổ
chức, hoàn thiện và đổi mới quy trình. Trong thời gian qua, ngành thuế đã xây dựng
và ngày một hoàn thiện hệ thống nghiệp vụ quản lý tương đối đơn giản, dễ hiểu, dễ
thực hiện, tăng dần tính công khai minh bạch. Kiên toàn bộ máy tổ chức ngành thuế
dọc từ trung ương đến tỉnh, huyện, thực hiện song trùng lãnh đạo giữa ngành và địa
phương. Tổ chức bộ máy theo mô hình kết hợp giữa quản lý theo chức năng, theo
đối tượng. Đào tạo được đội ngũ gần bốn vạn cán bộ thuế có trình độ nghiệp vụ khá,
có phẩm chất đạo đức tốt.
2. Những bất cập, hạn chế còn tồn tại:
Chúng ta có thể thấy rằng, qua một thời gian triển khai, áp dụng thuế GTGT, pháp
luật thuế GTGT ở nước ta đã đáp ứng cơ bản được các yêu cầu về lý luận của pháp
12



Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

luật cũng như có sự tác động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế trong các quy định của pháp luật, cụ thể như
sau:
2.1.Đối tượng chịu thuế:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 5 Luật Thuế GTGT thì có 25 nhóm hàng hóa,
dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT. Có thể thấy, diện không chịu thuế như
vậy là rộng và số lượng cũng là quá nhiều. Trong khi đó, mục tiêu của thuế GTGT là
mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện
không phải chịu thuế là chưa hợp lý, còn mâu thuẫn với mục tiêu của các nhà làm
luật và các nhà hoạch định chính sách ưu đãi.
Ví dụ: đối với các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm không thuộc diện chịu thuế
GTGT thì giá thành sản phẩm thường cao vì giá này thường bao gồm cả số thuế giá
trị gia tăng đã trả khi mua nguyên liệu, máy móc, thiết bị vào (do không có thuế giá
trị gia tăng đầu ra để khấu trừ). Ngược lại, đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng
hóa thuộc diện chịu thuế GTGT nhưng do nguyên liệu đầu vào thuộc diện không
chịu thuế GTGT nên được hưởng lợi thế khấu trừ, vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT sẽ
phải tăng giá bán hoặc giảm giá để đảm bảo nghĩa vụ nộp thuế.
Thứ hai, một số hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế như “hàng hóa,
dịch vụ của các nhân kinh doanh có mức thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức
lương tối thiểu chung áp dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước” - khoản
25 Điều 5 được đưa vào luật nhằm thực hiện chính sách xã hội đối với đối tượng là
người có thu nhập thấp. Tuy nhiên, việc quy định như vậy là không rõ căn cứ, rất
khó xác định đâu là hàng hóa, dịch vụ của cá nhân có thu nhập thấp, cá nhân có thu
nhập cao.
Thứ ba, việc quy định đối tượng không thuộc diện chịu thuế quy định tại khoản
23 Điều 5: “sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến
theo quy định của Chính phủ” còn nhiều bất cập, bởi lẽ, đây là loại sản phẩm đặc
thù, chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành – luật khoáng sản. Nếu nghị định của

Chính phủ không theo quy định của luật này, có cách hướng dẫn khác, thì theo
nguyên tắc áp dụng luật vẫn phải theo quy định của luật khoáng sản. Nếu nghị định
theo quy định của luật khoáng sản thì khi luật này sửa đổi, nghị định cũng phải sửa
theo. Việc luật thuế GTGT không quy định cụ thể về vấn đề trên mà lại trao thẩm
quyền cho Chính phủ hướng dẫn sẽ dẫn tới tình trạng bất lợi về hiệu lực áp dụng,
gây ra sự chậm trễ trong áp dụng pháp luật, ảnh hưởng tới quyền lợi của các chủ thể
trong quan hệ thuế GTGT.
2.2.Về thuế suất:
Hiện nay, luật thuế GTGT áp dụng các mức thuế suất là 0%, 5% và 10%. Việc
cùng lúc áp dụng nhiều mức thuế suất đã tạo ra sự không công bằng giữa hàng hóa,
dịch vụ thuộc các mức thuế suất khác nhau. Hơn nữa, việc quy định này lại dựa trên
công dụng của hàng hóa hoặc nguyên vật liệu trong kết cấu nên rất khó xác định
được hàng hóa chịu mức thuế suất là bao nhiêu (5% hay 10%).
Ví dụ: theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 8 Luật thuế GTGT quy định: thức
ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác thuộc diện áp dụng thuế suất 5%.
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

Thực tế, có những sản phẩm vừa sử dụng với mục đích làm thực phẩm cho con
người, vừa làm thức ăn cho gia súc như ngô mảnh, sắn mảnh… thì áp dụng thuế suất
là bao nhiêu? (5% hay 10%). Điều này cho thấy, xét về hiệu quả quản lý và cả về
mặt lý luận thì xu hướng chuyển dần sang áp dụng một mức thuế suất là phù hợp và
cần thiết, hạn chế được những cách hiểu và vận dụng không thống nhất, gây bất bình
đẳng.
Ngoài ra, hiện nay việc xây dựng tiêu chí cơ bản nhằm xác định khi nào thì dịch
vụ xuất khẩu được hưởng mức thuế suất GTGT 0% là chưa rõ ràng, do đó, gây
không ít khó khăn cho doanh nghiệp trong việc muốn hưởng lợi ích từ quy định này.
Vì vậy, về thuế suất 0% đối với dịch vụ cần phải có quy định cụ thể trong luật thuế

GTGT, bởi lẽ, việc xuất khẩu dịch vụ là khó kiểm soát, có thể lợi dụng để được hoàn
thuế đầu vào khống, làm thất thu ngân sách nhà nước.
2.3.Phương pháp tính thuế:
Hiện nay, có ý kiến cho rằng áp dụng hai phương pháp tính thuế không đảm bảo
công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Bởi lẽ, khi áp dụng nhiều phương pháp như
quy định hiện hành sẽ dẫn đến sự không thống nhất về giá tính thuế. Đối với phương
pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT còn phương pháp trực tiếp là giá đã
có thuế GTGT, điều này làm cho tính liên hoàn của thuế GTGT bị đứt đoạn, không
công bằng giữa địa bàn tỉnh. Do quy định Cục thuế tỉnh xác định tỷ lệ % GTGT tính
trên doanh thu làm căn cứ tính thuế, dẫn đến mỗi tỉnh ban hành một biểu tỷ lệ thuế
suất riêng không thống nhất trong cả nước. Điều này làm mất đi ý nghĩa của thuế
GTGT vì đối tượng nộp thuế trong trường hợp này không quan tâm đến tỷ lệ GTGT
trên doanh thu mà họ chỉ quan tâm đến doanh thu và số thuế phải nộp.
Ngoài ra, tính thuế theo phương pháp trực tiếp không khắc phục được hiện tượng
trùng thuế. Theo công thức của phương pháp trực tiếp thì giá bán và giá vốn của
hàng hoá đều đã là giá có thuế GTGT, trong trường hợp nếu doanh số bán ra lớn hơn
giá vốn (thường phổ biến) thì phần chênh lệch đã bị đánh trùng thuế.
2.4.Chế độ hoá đơn, chứng từ:
Đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cương hạch toán kinh tế và thực hiện chặt
chẽ nguyên tắc dựa vào hoá đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu
trước. Tuy nhiên, hiện nay việc mua bán ở nước ta được thanh toán chủ yếu bằng
tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hoá đơn nên những khó khắn
khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi. Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT
lại quy định quá nhiều loại hoá đơn. Các hoá đơn đều có tính pháp lý như nhau do
Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý là việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ
có hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn đặc tại các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hoá đơn, chứng từ như Nghị định
89/2002/NĐ – CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hoá đơn...nhưng vẫn nảy
sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để khai man

thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
2.5. Cơ chế quản lý và công tác thực hiện cơ chế quản lý của các cơ quan
thuế:
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

- Cơ chế quản lý: hệ thống cơ quán hành thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán
bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không đáng kể…các khâu hành thu phức
tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng chồng chéo. Khi áp dụng cơ chế hành
thu tự khai, tự nốp do các điều kiện cần thiết chưa xuất hiện một cách đồng bộ nên
vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu gây thất thoát thuế. Công tác quản lý mặc dù đã đạt
được một số thành tựu nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cấp trên các lĩnh vực từ thể
chế đến cách thức quản lý vì quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoá
học, hợp lý.
- Bộ máy tổ chức ngành thuế: hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được
tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện. Hệ thống này của nước ta
được phân chia theo sắc thuế lại vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải
đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không
có điều kiện chuyên sâu và một nghiệp vụ nhất định, trình độ của một số cán bộ còn
thấp do đo không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại
một số bất cập trong quản lý và tổ chức như: chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố,
cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý…công tác tổ chức cán bộ còn nhiều
khiếm khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển
cán bộ còn hạn chế. Do truyền thống thanh toán trong giao dịch chủ yếu là tiền mặt
nên đã hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuế trong việc kiểm soát hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Sự thống nhất trong hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số
còn chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp

nhằm đưa ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
3. Nguyên nhân của những hạn chế:
IV. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật:
Trong điều kiện hội nhập kinh tế, thuế Giá trị gia tăng càng có vai trò trong việc
bù đắp các khoản hụt thu do các điều kiện của hội nhập yêu cầu. Chính vì vậy, nhóm
em xin đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, đổi mới cơ chế chính sách thuế GTGT.
Nhìn chung, hệ thống cơ chế chính sách thuế GTGT hiện hành là tương đối đầy
đủ, ngày càng phù hợp với tình hình thực tế của VN và phần nào phù hợp với thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu yêu cầu và xu hướng hoàn thiện, kiến
nghị cần thiết phải đổi mới chính sách thuế GTGT ở nước ta như sau:
Về phạm vi, đối tượng chịu thuế:
Ở nước ta, Luật thuế GTGT hiện hành việc quy định đối tượng không chịu thuế
và chịu thuế cần phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể và rõ ràng hơn nữa, và
mang tính khoa học chính xác. Do đó, trong thời gian tới, việc điều chỉnh đối tượng
chịu thuế, đối tượng không chịu thuế là thật sự cần thiết với đà phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
- Xây dựng mức ngưỡng thuế trên doanh thu thay cho ngưỡng miễn thuế tính theo
thu nhập tối thiểu hiện hành đối với các hộ, cá nhân kinh doanh nhỏ. Mục tiêu là
đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và nâng cao hiệu quả quản lý thu.
12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

- Đối với hoạt động kinh doanh nhà ở chỉ nên đánh thuế đối với tiền bán nhà mới
xây. Đối với tiền thuê và bán nhà đang ở nên xem xét cơ chế cho phép miễn thuế vì
xét về mặt bản chất, thuế GTGT là thuế đánh trên giá trị tăng của hàng hóa, dịch vụ
vì các hoạt động kinh doanh này nhiều khi không những không có giá trị tăng thêm
mà còn bị giảm trừ. Đối với hoạt động bảo hiểm, cần có quy định phù hợp để xác

định mức thuế hợp lý nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt
Nam.
Về thuế suất:
- Quy định một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong
nước. Việc quy định này sẽ góp phần đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của chính
sách thuế.
- Duy trì và mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu, hàng hóa,
dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế. Điều này góp phần đảm bảo tăng khả
năng cạnh tranh cảu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế cũng như đảm bảo
sự tồn tại và phát triển của kinh doanh, xuất khẩu
- Lộ trình áp dụng thuế suất cần thiết phải được thực hiện công khai cho mọi
người nộp thuế được biết để có đủ thời gian chuẩn bị nhằm thay đổi chiến lược phát
triển kinh doanh phù hợp chính sách thuế suất mới.
Về phương pháp tính thuế:
- Cải tiến và đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ đối
với các doanh nghiệp có quy mô phù hợp. Điều này nhằm đảm bảo tính nhất quán,
chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế trong xác định nghĩa vụ thuế phải nộp của
các đối tượng
- Nghiên cứu áp dụng chế độ thuế phù hợp đối với các doanh nghiệp. Hệ thống
thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ ở nước ta tương đối phức tạp và kém hiệu quả,
cần quy định thống nhất một loại thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ để đảm bảo tính
đơn giản, dễ triển khai thực hiện và nâng cao tính công bằng hiệu quả của hệ thống
chính sách thuế.
Về hoàn thuế:
- Xây dựng tiêu chí rõ ràng về điều kiện. thời hạn, mức hoàn thuế, đối tượng hoàn
thuế, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế để đảm bảo hoàn thuế đúng đối tượng, đầy đủ
và kịp thời
- Hoàn thiện quy trình quản lý hóa đơn, chứng từ thuế GTGT, trong đó chú trọng
tăng cường trách nhiệm quản lý của cơ quan thuế trong việc cấp và kiểm tra, giảm
sát quá trình sử dụng hóa đơn, chững từ thuế GTGT tại các doanh nghiệp. Như vậy

sẽ từng bước góp phần giảm bớt tình trạng vi phạm pháp luật về thuế, đặc biệt là
gian lận trong sử dụng hóa đơn thuế GTGT để chiếm dụng tiền hoàn thuế của nhà
nước
Về kê khai nộp thuế:
Mở rộng việc kê khai thuế tập trung trên nguyên tắc thực hiện kê khai đúng, đủ,
nộp kịp thời. Số thuế phải nộp, doanh nghiệp có thể nộp tập trung hoặc cho tính

12


Trường ĐH Luật Hà Nội – Luật Tài Chính - Lớp No4. TL3.Nhóm 2

phân bổ theo doanh thu để chuyển nộp về các địa phương nơi có chi nhánh kinh
doanh bán hàng tránh biến động nguồn thu ngân sách địa phương.
Thứ hai, đổi mới công tác quản lý thu thuế GTGT
Tăng cường quản lý thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo ổn định và
hiệu quả của hệ thống thuế. Cùng với việc thiết kế và xây dựng chính sách thuế
GTGT đơn giản và khả thi, cần tăng cường công tác quản lý thuế để đảm bảo đưa
cuộc sống thuế vào thực tiễn, phát huy hiệu quả của chúng đối với nền sản xuất hàng
hóa. Trong đó tập trung vào các vấn đề sau:
- Tăng cường tính minh bạch, công khai của quy trình quản lý thuế GTGT, quy
định thống nhất trong luật quản lý thuế, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền,
giáo dục kiến thức chung về pháp luật thuế đến mọi đối tượng trong xã hội.
- Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế toán
nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch trong tính toán, xác định nhiệm vụ thuế và
hoàn thuế để tránh những hiện tượng lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn thuế và chiếm
dụng tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
- Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế dưới cả hình thức nhà
nước và tư nhân để đảm bảo nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế, đặc biệt là
tiết kiệm chi phí đối với người nộp thuế

- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp với
sự tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong công tác quản lý thuế.
- Đối với cán bộ người có trách nhiệm cần lực chọn những người có năng lực, đạo
đức gắn bó với công việc, tăng cường công tác quản lý hơn nữa và cả ý thức của
người dân…

KẾT LUẬN

12



×