Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Vấn đề ly thân trong thực tế hiện nay tương đối phổ biến.Hãy trình bày hiểu biết của mình về ly thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.61 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu......................................................................................................2
Giải quyết vấn đề.............................................................................................2
I.Sự hình thành và phát triển của vấn đề ly thân................................................2
1. Nguồn gốc của ly thân...................................................................................2
2. Ly thân trong pháp luật tư sản........................................................................3
3. Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề ly thân.......................................3
II. Khái niệm ly thân..........................................................................................5
III. Một số vấn đề về ly thân..............................................................................6
1.Tại sao Luật Hôn Nhân Gia Đình năm 1986 và các văn bản pháp luật có liên
quan không quy định vấn đề ly thân?................................................................6
2. Vấn đề “biệt sản” trong ly thân có đồng nhất với vấn đề chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân?..............................................................................................7
3. Vấn đề ly thân trên thực tế hiện nay................................................................8
3.1. Thực trạng ly thân trên thực tế...........................................................8
3.2. Vấn đề ly thân có nên được quy định lại trong luật HNGĐ và các văn
bản pháp lý khác có liên quan không?...............................................................9
Kết luận chung...............................................................................................10
Danh mục tài liệu tham khảo.........................................................................11

Page 1


LỜI MỞ ĐẦU
Thực tế hiện nay, không chỉ ở nước ta mà ở rất nhiều nước trên thế giới cụm từ
“lythân” đang ngày càng trở nên quen thuộc và phổ biến.Tuy nhiên, người ta vẫn
chưa thực sự hiểu về ly thân, thậm chí họ còn cho rằng, ly thân là việc bắt buộc
trước khi lyhôn .Khác với ly hôn là đã kết thúc trọn vẹn một bi kịch với đầy đủ cơ
sở pháp lý của nó. Trong ly thân, bài học đang được mở ra và có giá trị ngay tức
thì cho những người trong cuộc, vì những bất đồng, xung đột đang diễn ra theo hai


chiều hướng hoàn toàn đối lập nhau, hoặc tình huống sẽ khá lên, hoặc sẽ trở nên
ngày càng trầm trọng và tiến gần đến ly hôn. Do vậy những ứng xử bình tĩnh, sáng
suốt, thấu tình đạt lý của những người trong cuộc lúc này sẽ ngay lập tức quyết
định số phận hạnh phúc của chính họ và của con cái họ.
Vấn đề ly thân đã từng là vấn đề pháp lý được quy định trong luật hôn nhân gia
đình năm 1986.Tuy nhiên, pháp luật nước ta hiện nay không hề có một quy định
nào điều chỉnh vấn đề này trong khi tình trạng ly thân đang ngày càng gia tăng.Câu
hỏi được đặt ra là tại sao Luật hôn nhân gia đình năm 2000 không quy định vấn đề
ly thân?Chính vì vậy, em xin chọn đề tài “Vấn đề ly thân trong thực tế hiện nay
tương đối phổ biến.Hãy trình bàyhiểu biết của mình về ly thân.” để làm rõ hơn
về vấn đề này.
************
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VẤN ĐỀ LY THÂN.
1. Nguồn gốc của ly thân.
Theo học thuyết Mác – Lênin về hôn nhân và gia đình thì vấn đề ly thân có
nguồn gốc từ tôn giáo. Theo quan điểm của giáo hội Thiên chúa, việc lấy vợ, lấy
chồng của nam, nữ là do “chúa” tạo lập, vợ chồng phải “ăn đời ở kiếp” với nhau,
không được ruồng bỏ nhau, quan điểm của giáo hộithường cấm vợ chồng ly hôn.
Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống chung giữa vợ và chồng, có nhiều trường hợp
về những nguyên nhân, lý do, động cơ nào đó mà này sinh xung đột, mâu thuẫn
sâu sắc, vợ chồng không muốn hoặc không thể sống chung. Nhận thức được vấn đề
này pháp luật theo quan điểm tôn giáo đã khởi nguồn quy định chế định ly
thân.Với mục đích ban đầu coi ly thân là giải pháp nhằm giải tỏa xung đột trong
đời sống vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng “sống riêng”.

Page 2


2. Ly thân trong pháp luật tư sản.

Hiện nay, trong luật dân sự của nhiều nước tư sản, bên cạnh việc quy định cho
vợ chồng được ly hôn còn công nhận quyền ly thân của vợ chồng.Ly thân còn
được các nhà lập pháp coi như một giải pháp quá độ, một giai đoạn thử thách cuối
cùng trước khi ly hôn. Thời gian vợ chồng sống ly thân theo luật định sẽ tạo điều
kiện cho vợ chồng suy nghĩ lại, tạo điều kiện tái hợp cuộc sống chung của vợ
chồng trước khi vợ chồng quyết định ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật.
Thông thường, pháp luật của nhà nước tư sản quy định về ly thân và hậu quả
pháp lý của ly thân rất chặt chẽ. Tòa án giải quyết ly thân thường dựa trên cơ sở lỗi
của vợ, chồng. Hậu quả pháp lý của ly thân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật, chỉ tạm thời chấm dứt một số quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng
theo luật định, đặt vợ chồng rơi vào tình trạng “biệt sản” và “biệt cư”. Khi ly thân,
vợ chồng không còn sống chung với nhau, họ được quyền ở riêng. Tài sản chung
của vợ chồng sẽ được chia, mỗi bên vợ, chồng được nhận một phần tài sản trong
khối tài sản chung theo quyết định của tòa án, phần tài sản này thuộc quyền sở hữu
riêng của vợ, chồng. Tức là chế độ cộng đồng tài sản (tài sản chung của vợ, chồng)
chấm dứt khi vợ, chồng sống ly thân. Tuy nhiên, ly thân không làm chấm dứt quan
hệ vợ chồng trước pháp luật. Giữa vợ và chồng vẫn ràng buộc trách nhiệm đối với
nhau và với con chung: vợ chồng vẫn phải chung thủy với nhau, không được kết
hôn với người khác, phải có nghĩa vụ đóng góp phí tổn vào nhu cầu đời sống
chung của gia đình, nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng con chung,....
Sau một thời gian vợ chồng sống ly thân nếu xung đột, mâu thuẫn vợ chồng đã
được dàn xếp, vợ chồng có quyền yêu cầu tòa án hủy bỏ án ly thân trước đây và tái
hợp chung sống bình thường. Nếu không thể tái hợp được trong thời gian sống ly
thân (thông thường theo quy định của pháp luật là từ 3 năm đến 5 năm), vợ chồng
có quyền yêu cầu tòa án sửa đổi án ly thân trước đây thành án ly hôn để được chấm
dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật.
3.Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề ly thân.
a, Trước cách mạng Tháng tám 1945.
Trongpháp luật phong kiến Việt Nam, vấn đề ly thân hoàn toàn không được dự

liệu vì nó trái với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam. Theo tập quán
truyền thống của gia đình Việt Nam, quan hệ hôn nhân được xác lập dựa trên cơ sở
tình cảm yêu thương chân chính giữa nam và nữ, vợ chồng yêu thương nhau, cùng
nhau thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với gia đình, với con cái. Nguyên tắc không
bình đẳng giữa vợ và chồng của pháp luật phong kiến ở Việt Nam đã cột chặt
Page 3


người phụ nữ vào gia đình nhà chồng, lấy chồng theo quan điểm “thuyền theo lái,
gái theo chồng”, “sống thì gửi thịt, chết thì gửi xương”, người vợ thường “vô năng
lực”, chỉ được ở riêng nếu được “chồng cho”.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, trước năm 1945, chính quyền bù nhìn
đã ban hành ba bộ luật dân sự, áp dụng riêng biệt trên ba miền Bắc – Trung – Nam.
Chế độ hôn nhân và gia đình theo ba bộ dân luật này phần nhiều dựa trên Bộ dân
luật Pháp (1804). Tuy nhiên, vấn đề ly thân chỉ được quy định một cách giản đơn
trong Bộ dân luật giản yếu (1883) ở Nam Kì. Bộ dân luật Bắc Kì (1931) và Bộ dân
luật Trung Kì (1936) khôngquy định về ly thân. Trong thiên thứ VI về ly hôn của
Bộ dân luật giản yếu (1883), ở đoạn cuối nêu rõ: “trong các trường hợp có thể xin
ly hôn được, vợ chồng cũng có thể xin ly thân. Đơn ấy sẽ được thẩm cứu và xử
như trong vụ ly hôn. Sau này cũng có thể khởi tố xin ly hôn, và căn cứ vào những
duyên cớ đã nêu ra để xin ly thân”.
Ở Miền Nam nước ta trước ngày giải phóng (từ năm 1954 – 1975), chế độ
ngụy quyền Sài Gòn cũng ban hành một số văn bản luật, trong đó có quy định về
vấn đề ly thân.
Bộ luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm, tại Điều 55 đã quy
định rõ: “cấmvợ chồng khôngđược ly hôn, việc ly hôn chỉ được đặt ra trong trường
hợp đặc biệt và phải do chính tổng thống quyết định”. Từ Điều 56 đến Điều 69 của
Bộ luật này có quy định việc ly thân, những duyên cớđể vợ chồng yêu cầu ly thân
và hiệu lực của việc ly thân. Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 quy định về giá thú,
tử hệ và tài sản cộng đồng thay thế Bộ luật gia đình dưới chế độ Ngô Đình Diệm.

Sắc luật này vừa chấp nhận cho vợ chồng ly thân đồng thời đã công nhận quyền ly
hôn của vợ chồng (Chương II từ Điều 62 đến Điều 99 đã quy định về ly thân, ly
hôn).
Bộ luật dân sự ngày 20/12/1972 của ngụy quyền Sài Gòn thay thế Sắc luật số
115/64.Bộ dân luật này cũng quy định cho vợ chồng vừa được ly hôn vừa có quyền
yêu cầu ly thân.Điều 170 của Bộ luật này đã quy định các lỗi để vợ chồng xin ly
hôn hoặc ly thân. Trong tiết III nói về ly thân, từĐiều 202 đến Điều 206 quy định
thủ tục, hậu quả của ly thân.
b, Hệ thống pháp luật dân sự về Hôn Nhân và Gia Đình của Nhà nước
ta từ Cách mạng tháng tám (1945) đến nay không quy định vấn đềly thân của
vợ-chồng.
Ngay từ khi mới ra đời, những văn bản pháp luật đầu tiên mà Nhà nước ta ban
hành đã ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ (Điều 9 – Hiến pháp 1946), xóa bỏ
Page 4


quyền “trừng giới” của người gia trưởng, công nhận và thực hiện quyền bình đẳng
giữa vợ chồng, “người đàn bà lấy chồng có toàn năng lực về mặt hộ” (Điều 6 – Sắc
lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật).
Từ đó đến nay, sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã đạt được những thành tựu vĩ đại
trong xã hội ta. “Trong quan hệ giữa vợ và chồng, vợ chồng có quyền ở chung, chỗ
ở của vợ chồngdo vợ chồnglựa chọn, không bịràng buộc bởi phong tục tập quán”
(Điều 13 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986), “nơi cư trú của vợ chồng là nơi vợ
chồng sống chung. Vợ chồng có thể có nơi cư trú khác nhau, nếu có thỏa thuận”
(Điều 51 BLDS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).
II. KHÁI NIỆM LY THÂN.
Hiện nay, Luật Hôn Nhân và Gia Đình nước ta hoàn toàn không có chế định về
ly thân. Vì luật không hề quy định nên không có một định nghĩa chính xác về ly
thân, cũng không có cơ quan, tổ chức nào đứng ra giải quyết cho ly thân theo
hướng ra quyết định hoặc bản án công nhận cho ly thân. Trong quy định về căn cứ

cho ly hôn cũng không có quy định là vợ chồngphải sống ly thân một thời gian rồi
mới được ly hôn như nhiều người lầm tưởng. Hay nói cách khác, quyết định ly
thân và cách thức ly thân hoàn toàn phụ thuộc vào hai bên vợ chồng. Mục đích của
ly thân, theo quy định của luật pháp các nước là để giảm thiểu những căng thẳng,
xung đột gay gắt giữa vợ và chồng hoặc tránh những việc đáng tiếc có thể xảy ra.
Đồng thời để các bên có thời gian suy ngẫm, ăn năn, hối cải, khắc phục lỗi lầm,
sửa đổi tính tình, tha thứ cho nhau… để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống. Ly
thân không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lí giữa vợ và chồng nên trong thời
gian sống ly thân, các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung
và tài sản. Chính vì thế, có thể hiểu:
“Ly thân thường được hiểu như là sự tạm dừng chung sống, đặc biệt là về phương
diện "sinh hoạt thầm kín" giữa cặp vợ chồng, do những bất đồng, mâu thuẫn trong gia
đình, mà thường là chưa có sự can thiệp về mặt hành chính, pháp lý từ bên ngoài, nếu
như không có những sự tranh chấp, xung đột thô bạo trong gia đình”.
Đôi khi trong thực tế, người ta quan niệm ly thân một cách đơn giản, chỉ là sự "giãn
cách tạm thời giữa vợ chồng” khiến ta có thể chủ quan, mất cảnh giác trước những diễn
biến phức tạp cùng những hậu quả của nó đối với hạnh phúc gia đình, đặc biệt là đối
với phụ nữ và trẻ em. Thực ra khái niệm ly thân bao hàm một khoảng rất rộng lớn trong
thời gian, không gian, trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột và mức độ trầm
trọng của xung đột.

Page 5


III.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LY THÂN.
1. Tại sao Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm1986 và các văn bản pháp luật
có liên quan không quy định vấn đề ly thân?
Phân tích hậu quả pháp lý của ly thân ta thấy, khi một cặp vợ chồng được tòa
án xử ly thân có nghĩa là rơi vào tình trạng “biệt cư” và “biệt sản”.
Thứ nhất, xét về hậu quả pháp lý là “biệt cư”: vợ chồng trước tiên với tư cách

là công dân, có quyền lựa chọn chỗ ở. Vấn đề ở chung và ở riêng là quyền của vợ
chồng. Vợ chồng bình đẳng không bị lệ thuộc bởi ý chí của nhau hoặc của người
khác.Việc vợ chồng ở chung hay ở riêng còn phụ thuộc vào điều kiện nghề nghiệp,
sinh hoạt của bản thân, của gia đình và nguyện vọng chính đáng của vợ, chồng. Lẽ
thường khi vợ, chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc, họ ở chung, và khi mâu
thuẫn giận hờn, vợ chồng có thể ở riêng mà không cần được chồng cho phép hay
do Tòa án quyết định bằng một phán quyết có hiệu lực pháp luật. Vấn đề ở chung
hay ở riêng của vợ chồng thuộc về quyền nhân thân của vợ chồng, đây là điều hết
sức tế nhị trong cuộc sống tình cảm của vợ chồng. Không nhất thiết mỗi lần giận
hờn, khi có mâu thuẫn, mong muốn được ở riêng thì vợ, chồng lại phải yêu cầu tòa
án cho họ được ly thân, sau đó nếu tái hợp chung sống với nhau, vợ chồng lại cần
phải yêu cầu tòa án hủy bỏ án ly thân để được sống chung với nhau. Rõ ràng điều
này là không cần thiết.
Thứ hai, xét về vấn đề “biệt sản”: vợ chồng một khi tình cảm không còn thì
kéo theo đó là các vấn đề liên quan đến tài sản chung của cả hai người. Như chúng
ta đã biết, trong đời sống xã hội có những cặp vợ chồng vì lý do nào đó như sợ ảnh
hưởng đến hòa khí trong gia đình, hay ảnh hưởng đến uy tín, danh dự...mà họ
không muốn li hôn nhưng có yêu cầu chia tài sản chung vì không thể ăn ở chung
với nhau được, hoặc vì một bên vợ (hoặc chồng) vì lý do nào đó đã vay nợ sử dụng
với mục đích, nhu cầu riêng mà tài sản riêng của mình không có hoặc không đủ để
trả nợ và vợ chồng không thể thỏa thuận thành toán món nợ riêng của một bên vợ
(hoặc chồng) bằng tài sản chung của họ...Việc chia tài sản đang tồn tại trong những
trường hợp như vậy đã giải tỏa được sự xung đột (đặc biệt là vấn đề tài sản) giữa
vợ - chồng, tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng ổn định nghề nghiệp, cuộc sống
mà không cần thiết phải ly hôn, như thế cũng là để ổn định các quan hệ gia đình
(quy định của pháp luật không ngoài mục đích đó). Như vậy, quy định về vấn đề
“biệt sản” trở nên cần thiết đáp ứng thực tiễn xã hội.
Từ phân tích trên đòi hỏi pháp luật phải có một chế định pháp lý phù hợp.Điều
18 của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 1986 đã thể hiện sự điều chỉnh
của pháp luật về vấn đề này. Tuy nhiên bên cạnh đó có một số quan điểm cho rằng

Page 6


quy định tại Điều 18 chính là sự thừa nhận của pháp luật về vấn đề ly thân? Cùng
tìm hiểu vấn đề này ta thấy: Hiểu như vậy là không đúng với nội dung, ý nghĩa của
điều luật. Điều này chỉ quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân
đang tồn tại, nếu vợ, chồng có yêu cầu và có lí do chính đáng. Quy định này xuất
phát từ thực tế khách quan, có một số trường hợp, vì lí do nào đó dẫn tới việc vợ
chồng có xung đột nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng và có yêu cầu
chia tài sản chung (Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm
phán TAND tối cao, hướng dẫn TAND các cấp áp dụng một số quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986).Quy định này đã góp phần giải quyết ổn thỏa một
số mẫu thuẫn gia đình, đảm bảo quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng.
Theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 1986, các nguyên tắc vợ chồng bình
đẳng với nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình (Điều 64
Hiến pháp, Điều 10 Luật Hôn nhân – Gia đình), chỗ ở của vợ chồng do vợ chồng
lựa chọn không bị ràng buộc bởi phong tục tập quán (Điều 13), vợ chồng có quyền
lựa chọn nghề nghiệp chính đáng (Điều 12), đã tạo điều kiện cơ bản cho vợ, chồng
thực hiện các quyền cơ bản. Cùng với đó là sự ra đời của Luật HNGĐ năm 2000
cũng đã có những quy định ở điều 18 để phù hợp hơn trong điều kiện thực tiễn
hiện nay. Thiết nghĩ, đây là sự điều chỉnh phù hợp từ việc thay đổi quy định ly thân
trước đây sao cho phù hợp với thực tiễn xã hội.
2. Vấn đề “biệt sản” trong ly thân có đồng nhất với vấn đề chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân?
Vấn đề “biệt sản” trong ly thân được hiểu là khi cặp vợ chồng ly thân thì “tài
sản chungcủa vợ chồng sẽ được chia, mỗi bên vợ, chồng được nhận một phần tài
sản trong khối tài sản chung theo quyết định của tòa án, phần tài sản này thuộc
quyền sở hữu riêng của vợ, chồng”. Nói cách khác, về vấn đề tài sản trong hôn
nhân vợ chồng không còn ràng buộc với nhau, tài sản của người vợ, tài sản của
người người chồng nó là một khái niệm riêng biệt chứ không như trước đây khi

chưa ly thân chỉ tồn tại duy nhất một khái niệm “tài sản của vợ chồng”.
Khác với vấn đề “biệt sản”, vấn đề chia tài sản chung trong hôn nhân có thể
không tồn tại một cách chia dứt khoát như vậy. Vợ chồng vì không còn tình cảm
với nhau (nhưng không thể ly hôn), vì lý do kinh tế của bản thân hoặc vì phải hoàn
thành một nghĩa vụ nào đó ví dụ như phải trả nợ, chăm sóc cha mẹ đẻ...nên muốn
chia tài sản chung, trong trường hợp này vợ, chồng có thể yêu cầu tòa án chia hết
tài sản chung hoặc chỉ một phẩn tài sản chung. Nói về vấn đề này thì có sự khác
biệt của luật HNGĐ năm 2000 so với luật HNGĐ năm 1986 đó là “nguyên tắc tự
thỏa thuận của vợ chồng về vấn đề chia tài sản chung trong hôn nhân”, có nghĩa là
luật HNGĐ năm 2000 quy định vợ chồng có thể tự thỏa thuận chia một phần tài
sản hoặc chia hết...Như vậy, vấn đề chia tài sản chung trong hôn nhân khác với vấn
Page 7


đề “biệt sản” trong hôn nhân ở chỗ chia tài sản chung trong hôn nhân có thể không
chia hết tài sản chung của vợ chồng.
3. Một số vấn đề về ly thân.
3.1.Thực trạng ly thân trên thực tế.
“Vấn đề ly thân đang xảy ra tương đối phổ biến trong xã hội hiện nay”.
Khác với ly hôn, có thể dễ dàng thống kê số vụ ly hôn trên thực tế qua các tòa
án, bởi tòa án chính là cơ quan ra quyết định ly hôn, chấm dứt quan hệ hôn
nhân giữa vợ và chồng, ly thân rất khó thống kê được trên thực tế. Người ta chỉ
có thể đưa ra nhận đinh rằng ngày nay, số các cặp vợ chồng ly thân không hề
nhỏ, dựa trên những kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu xã hội của mình chứ
không hề có một con số thống kê cụ thể.
Thực tế này xuất phát từ chính đặc điểm của ly thân. Ly thân hoàn toàn do hai
bên vợ chồng tự thỏa thuận với nhau, không cần đến sự cho phép hay chờ quyết
định của bất cứ cơ quan nhà nước nào và cũng không hề có sự điều chỉnh của
pháp luật nên sự kiện ly thân có thể diễn ra và kết thúc bất cứ lúc nào.
Trên thực tế, vấn đề ly thân không được quy định trong bất kỳ một văn bản

pháp luật nào của nước ta. Chính vì thế, để có bảng số liệu thống kê của Tòa án về
các vụ án ly thân là không thể có. Do đó, để nghiên cứu hiện tượng này ta chỉ có
thể nghiên cứu dưới góc độ xã hội học.
Phần lớn các cặp vợ - chồng mặc dù cuộc sống đôi bên không hạnh phúc
nhưng vẫn không muốn ly hôn nên chọn biện pháp ly thân như một biện pháp cứu
vãn tình thế.
Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhận thức của con người ngày càng được
nâng cao, nhu cầu vật chất, tinh thần của con người cũng theo đó tăng lên. Các cặp
vợ chồng khi không thể chung sống hòa hợp nhưng do địa vị chính trị, vì con cái
và nhiều lý do tế nhị khác họ không thể đưa nhau ra tòa. Chính vì thế mà rất nhiều
cặp vợ chồng tuy biết pháp luật Việt Nam không có bất kỳ một chế định nào điều
chỉnh vấn đề ly thân nhưng họ vẫn chọn giải pháp này.
Qua việc tìm hiểu một số bài viết trên internet được phát biển của chị Nguyễn
Vân Anh, Giám đốc Trungtâm nghiên cứu về giới tính, gia đình, phụ nữ và vị
thành niên, cho biết, mỗi ngày trung tâm nhận được khoảng 300 cuộc tư vấn qua số
điện thoại 1900585808. Trong đó, phần lớn là các vấn đề khúc mắc gia đình, nhiều
ca xin tư vấn vì cuộc sống vợ chồng quá nặng nề nhưng không muốn ly hôn.Có
những khách hàng cho biết, vợ chồng họ bất hòa nhưng ông chồng là một quan
chức nhất định không chịu ly hôn vì danh tiếng. Ông này sẵn sàng chấp nhận vợ
cặp với người khác nhưng trước mặt quan khách, họ hàng thì hai người vẫn phải
Page 8


vui vẻ, quan tâm nhau như một cặp vợ chồng hạnh phúc. Theo tiến sĩ xã hội học
Hoàng Bá Thịnh, hiện nay ly thân đang khá phổ biến, thậm chí còn nhiều hơn các
ca ly hôn.Tuy nhiên, hiện tượng này chỉ xảy ra ở những cặp vợ chồng ngoài 30
tuổi. Nhóm tuổi này thường có cuộc sống thu nhập ổn định, thành đạt, họ không
muốn ly hôn vì sợ ảnh hưởng đến địa vị, uy tín hay con cái. Khác với ở các nước
phương Tây, người Việt Nam thường ly thân nhưng vẫn sống chung nhà, mọi giao
tiếp chỉ là chiếu lệ. Trước mặt người thân, bạn bè, hàng xóm họ vẫn tỏ ra quan tâm

yêu thương nhau.
3.2. Vấn đề ly thân có nên được quy định lại trong luật HNGĐ và các văn
bản pháp lý khác có liên quan không?
Như đã phân tích, vấn đề ly thân trong thực tế hiện nay xảy ra rất nhiều nhưng
không được pháp luật điều chỉnh và song song với vấn đề này là vấn đề chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân.
Khoản 1 Điều 29 Luật HNGĐ năm 2000 có quy định điều kiện của vợ chồng
khi làm đơn “chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân”:
“Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể
thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải được lập thành văn
bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa giải quyết”
Như vậy, điều kiện được đặt ra khôngxuất hiện vấn đề hai vợ chồng không còn
tình cảm hoặc sống không hợp nhau, muốn có thời gian suy nghĩ lại... trong khi
đây là một vấn đề rất phổ biến trong xã hội hiện nay đặc biệt là trong điều kiện
kinh tế - xã hội ngày càng phát triền. Trong thực tế cũng đã xuất hiện rất nhiều vụ
vợ chồngkéo nhau ra tòa đòi chia tài sản chung trong hôn nhân với lý do là thường
xuyên cãi vã, đánh nhau nhưng nghĩ đến con cái, địa vị xã hội nên không muốn ly
hôn...và trong trường hợp này tòa án không thể giải quyết cho họ vì luật không quy
định. (điều kiện “có lý do chính đáng không được đặt ra trong trường hợp này”
trong khi đây là một hiện tượng rất phổ biến trong xã hội).
Tuy nhiên, trên thực tế việc quy định lại vấn đề ly thân trong luật HNGĐ hay
các văn bản pháp lý khác là một điều rất khó. Bởi đây là một vấn đề quan trọng, vì
khi quy định lại sẽ gây phức tạp cho xét xử của tòa, ảnh hưởng đến con cái khi
chúng biết bố mẹ sống ly thân,….Và nếu có thể thì Luật HNGĐ cần phải bổ sung
hoặc có hướng dẫn cụ thể hơn trong việc quy định “chia tài sản chung trong thời kì
hôn nhân”.

Page 9



KẾT LUẬN CHUNG
Cùng với sự vận động và phát triển của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật cần
phải có những điều chỉnh nhất định, kịp thời để đảm bảo một lối sống lành mạnh,
một trật tự pháp luật ổn định, đảm bảo cho cả xã hội được sống và làm việc theo
hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Tình trạng ly thân xảy ra ngày càng nhiều trong
xã hội hiện nay đòi hỏi việc ban hành pháp luật kịp thời, tránh những tình trạng bất
cập xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội.

Page 10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo Trình Luật Hôn Nhân và Gia Đình Việt Nam; NXB Công An Nhân
Dân HN-2009; Chủ biên- TS. Nguyễn Văn Cừ;
2. Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000;
3. Bài viết “một số suy nghĩ về Điều 18 Luật Hôn Nhân và Gia Đình 1986”
– Tạp chí luật học số 1/1995,Tr.20 – ThS Nguyễn Văn Cừ;
4. Bài viết “ứng xử của phái nữ trước vấn đề ly thân” – http:vietbao.vn/Doisong-Gia-dinh/Ung-xu-cua-phai-nu-truoc-van-de-ly-than.

Page 11



×