Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển nhân cách, liên hệ thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.9 KB, 11 trang )

BÀI LÀM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong khi nghiên cứu con người, tâm lý học gọi con người bằng các từ khác nhau
và tất nhiên là những từ đó chứa dựng những nội dung khác nhau tùy theo mục đích và
phương tiện nghiên cứu của mình. Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên
của một xã hội nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý
thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ.
Chúng ta chỉ có thể nói đến con người như là một nhân cách, bắt đầu từ một thời
kỳ nào đó trong quá trình phát triển của nó. Nhưng không phải mọi cá thể người với cá
tính của mình đều là nhân cách. Theo quan điểm của nhà tâm lý học người Nga
A.N.Lenonchev thì nhân cách không phải được sinh ra mà là được hình thành.
Khi đi sâu vào tìm hiểu các vấn đề về nhân cách,các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành nhân cách và vai trò của từng nhân tố đó em đã chọn đề tài 04: “Phân tích vai trò
của các yếu tố đối với sự hình thành, phát triển nhân cách, liên hệ thực tế” để làm bài
tập học kỳ.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách nhưng nhân cách thường
được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung
quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh
được biểu hiện trong niềm tin của họ, trong thế giới quan, trong thái độ của họ đói với
những người khác nhưng điều chủ yếu nhất là trong hoạt động và giao tiếp của họ.
Nhà tâm lý học Xô Viết nổi tiếng X.L.Rubinstein đã viết: “Con người là cá tính
do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định
được quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức”.
Trong quá trình sống của mình, con người đã làm biến đổi các phẩm chất tự nhiên
của mình, nhưng những biến đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách được hình thành
và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân đang lớn lên và đang được
biến đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sốn của mình. Chính trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của con người, các đặc điểm của họ với tư cách là cá tính được biến



đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội – đạo đức. Nói
cách khác, không phải sự biến đổi các đặc điêm cá thể tự nhiên của con người là nguyên
nhân của sự hình thành con người như là một nhân cách mà ngược lại sự hình thành con
người như một nhân cách là nguyên nhân của sự biến đổi và phát triển các đặc điểm cá
thể con người.
Qua những phân tích ở trên, ta có thể rút ra một định nghĩa đầy đủ về nhân cách.
Đó là: “Nhân cách lầ tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội của người ấy”.
II, ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN CÁCH
1,Tính ổn định của nhân cách
Trước hết, nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân. Thuộc
tính tâm lý là hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, có tính quy luật chứ không pahir xuất
hiện một cách ngẫu nhiên. Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý nghĩa là những
thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động với nhau
làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Mặc dù, từng nét nhân cách trong hoạt
động sống của con người được biến đổi, được chuyển hóa, nhưng trong tổng thể thì
chúng tạo thành cấu trúc trọn vẹn của nhân cách, cấu trúc này tương đối ổn định, ít nhất
là trong một quãng đời nào đó của con người.
2, Tính thông nhất của nhân cách
Nhân cách là mọi thể thống nhất của mọi nét nhân cách, nghĩa là nó không phải là
sự gộp lại của nhiều thuộc tính, phẩm chất riêng lẻ mà là một hệ thống thống nhất, trong
đó mỗi nét nhân cách đều liên quan, không tách rời với nét nhân cách khác và do đó nó
có một ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, đôi khi đối lập nhau là tùy thuộc vào sự kết hợp đã
được hình thành ở nhân cách đó của những nhân cách khác nhau. Vì vậy, khi nói một nét
nhân cách nào đó thì chúng ta không nên đành giá tự bản thân nó là tốt hay xấu.
Nhân cách luôn được hình thành như một thể thống nhất. Vì vậy, không nên giáo
dục nhân cách theo từng phần mà cần phải giáo dục con người như là một nhân cách
hoàn chỉnh.
3, Tính tích cực của nhân cách



Nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp là sản phẩm của xã hội. Nhân
cách không chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của các mỗi quan hệ xã hội, nghĩa là nó có
tính tích cự của mình. Một cá nhân được thừa nhận là một nhân cách khi nó tích cực hoạt
động trong các hình thức đa dạng. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện trong quá trình
thảo mãn các nhu cầu của nó. Con người không thỏa mãn bằng các đối tượng có sẵn mà
nhờ có công cụ, nhờ có lao động con người đã biến đổi, đã sáng tạo ra các đối tượng làm
cho nó phù hợp với nhu cầu của bản thân.
Mặt khác, con người tích cực tìm kiếm những cách thức, các phương thức thỏa
mãn các nhu cầu là một quá trình tích cực có mục đích, trong đó con người làm chủ được
những hình thức hoạt động do sự phát triển của xã hội quy định nên.
4, Tính giao tiếp của nhân cách
Nhân cách chỉ có thể hình thành, tồn tại, phát triển và thể hiện trong hoạt động và
trong mối quan hệ với những nhân cách khác.
Nhu cầu giao tiếp được coi là nhu cầu xã hội đầu tiên và cơ bản nhất của con
người. thông qua giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội các
chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng qua giao tiếp mà con
người có được đánh giá, được ghi nhận trong các mối quan hệ xã hội. Qua giao tiếp, con
người đống góp các giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội.
III, NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH, LIÊN HỆ THỰC TẾ.
1, Di truyền
Theo sinh vật học hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể sống đảm
bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật đối với thế hệ trước và
đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.
Tuy nhiên, mỗi cá thể lại có những nét đặc trưng riêng có của nó thông qua quá
trình vận động và phát triển cá thể được hình thành ngay từ khi cá thể trong bào thai của
mẹ. Chính vì vậy, một cá thể ngoài những đặc điểm được thừa hưởng di truyền từ bố mẹ
chúng để lại còn có nhưng đặc điểm riêng có của cá thể. Ví dụ: một đứa trẻ khi sinh ra

được thừa hưởng mắt đen, da trắng, mắt hai mí của mẹ; tóc xoăn, mũi thẳng của bố


nhưng đứa trẻ đó vẫn có những nét riêng có của nó trong nhờ tác động của yếu tố bên
ngoài như mắt đứa trẻ có thể tinh hơn, tai đứa trẻ có thể thính hơn…
Bẩm sinh - di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các
cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm
về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ những thế hệ trước theo con đường di truyền, trong
đó có cả những đặc điểm về cấu tạo và các chức năng của các giác quan và não. Những
đặc điểm của hệ thần kinh cấp cao (cường độ, tính cân bằng và linh hoạt của các quá
trình thần kinh) được biểu hiện ngay từ những ngay đầu của cá thể. Tuy nhiên, không thể
kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lý nhân
cách.
Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có
thể được phát triển trong hoạt động của bản thân cá nhân đó và trong điều kiện cảu xã hội
loài người. Ví dụ: khi nghiên cứu về trẻ sinh đôi cùng trứng ta nhận thấy, một đứa trẻ khi
sống ở vùng tối, thiếu ánh sáng thì mắt của nó sẽ tinh và nhạy hơn đứa trẻ còn lại khi
sống ở nơi có nhiều ánh sáng và cường độ ánh sáng mạnh. Và nhân cách chỉ được hình
thành khi cá thể đó sống trong điều kiện của xã hội loài người. Vì khi cá thể đó sống
ngoài xã hội loài người, không được tiếp thu, lĩnh hội những tố chất để trở thành con
người thì cá thể đó không có tâm lý con người nên không thể có nhân cách. Ví dụ: năm
1920 ở Ấn Độ, Tiến sĩ Xinhgo đã tìm thấy hai cô bé sống trong hang sói với bầy sói con.
Cô nhỏ không lâu sau thì chết, cô lớn sống được lâu hơn. Nhưng cô bé đó chỉ đi bằng tứ
chi, dựa vào tai và đầu gối, liếm nước và không dùng tay cầm đồ ăn…
Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự phát triển tâm lý nhân
cách ta cần phải thừa nhận một thực tế là mọi cơ thể bình thường đề có thể phát triển tốt
đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn thế, hoạt động tâm – sinh lý của con người lại có
khả năng bù trừ tức là sự thiếu hụt của một giác quan này có thể làm tăng tính nhạy cảm
của một giác quan khác (Ví dụ: sự thiếu hụt, tiêu giảm của cơ quan thị giác sẽ làm tăng
khả năng, tính nhạy cảm của cơ quan thính giác, khứu giác hoặc các cơ quan khác), một

chức năng tâm lý bị hủy hoại có thể được khôi phục bằng cách luyện tập để thiết lập một
hệ thống chức năng mới trên vỏ não ứng với chức năng tâm lý đó (Ví dụ: người mù có thể
được học lớp dành riêng cho họ, được học bảng chữ cái dành riêng cho người mù). Ngoài


ra, sự tác động của yếu tố di truyền đòi với từng giai đoạn phát triển lứa tuổi và đối với
từng hoạt động cụ thể là khác nhau.
Vậy nên, bẩm sinh – di truyền là đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và
các cơ quan cảm giác, vận động. Nó đóng vai trò tiền đề vật chất cho sự hình thành và
phát triển nhân cách, nó làm cho quá trình nhân cách diễn ra nhanh chóng hay chậm
chạp, thuận lợi hay khó khăn. Nhân tố này không quyết định chiều hướng và nội dung
của sự phát triển nhân cách.
2,Hoàn cảnh sống
a, Hoàn cảnh tự nhiên
Mỗi dân tộc sống trên một vùng lãnh thổ nhất định, có điều kiện tự nhiên, điều
kiện lịch sử - xã hội khác nhau vì thế mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa, phong tục tập
quán và những nét đặc trưng riêng của dân tộc mình. Có thể nói rằng, tâm lý dân tộc
mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống.
Nhân cách được coi như là một thành viên xã hội nên nó chịu ảnh hưởng của tự
nhiên thông qua giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa
phương, của nghề nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua
phương thức sống của chính bản thân nó.
Khi nói đến vai trò của hoàn cảnh tự nhiên đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách thì tồn tại hai luồng tư tưởng trái chiều. Quan điểm thứ nhất là của một số nhà tâm
lý học hiện đại cho rằng, hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định
trong sự phát triển tâm lý nhân cách.
Quan điểm thứ hai của một số tác giả tâm lý học phương Tây thì lại đề cao vai trò
của điều kiện hoàn cảnh sống tự nhiên. Họ giải thích nguyên nhân của một số thói xấu
hay đức tính cao quý của dân tộc này hay dân tộc khac bằng hoàn cảnh địa lý. Đây là một
quan niệm sai lầm và thiếu tính khoa học vì nhân cách con người không thể phụ thuộc

tuyệt đối vào hoàn cảnh sống mà nó chỉ chịu ảnh hưởng từ hoàn cảnh sống mà thôi.
b, Hoàn cảnh xã hội
Cá thể khi không được sống trong xã hội loài người thì không thể có tâm lý con
người, do đó cá thể đó không thể có nhân cách. Con người khi không có sự tiếp xúc với


con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành
một con người, một nhân cách. Nhân cách đó là một sản phẩm của xã hội.
Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách.
Tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị trí giai cấp của
cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này, mức độ khác trong vai trò xã
hội, đặc biệt là nhu cầu, hứng thú, tý tưởng.
Đặc tính của quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị pháp luật biểu hiện qua hệ tư
tưởng đạo đức và ở những mức độ khác nhau qua phong tục và tập quán.
Trong tất cả các mối quan hệ xã hội ở trên thì nhân cách vừa là khách thể vừa là
chủ thể của các quan hệ xã hội. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn
phương thức sống của mình và do đó lựa chọn những phản ứng khác nhau trước tác động
của hoàn cảnh xã hội.
Ngoài ra, trong môi trường xã hội ta còn thấy hiện tượng tâm lý xã hội quần chúng
khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Bao gồm:
+Tâm trạng chung bap trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan. Tình cảm của
nhân cách được kết tinh dần dần qua tâm trạng chung đó tạo ra tâm trạng chung của một
gia đình, một nhóm bạn, một thế hệ hay một dân tộc, một thời đại…
+Thi đua là phương thức tác động qua lại giữa các cá nhân, nhóm và tập thể làm
tăng cho kết quả hoạt động của nhau nhiều phẩm chất, nhân cách tập thể được phát triển
qua thi đua.
+Bắt chước thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, bắt chước diễn ra một cách
có ý thức hay không có ý thức. Ví dụ: trẻ con khi nhìn thấy người lớn làm việc gì thì
chúng cũng có xu hướng bắt chước làm theo. Đây là bắt chước không có ý thức. Còn việc
học sinh bắt chước cách tiếp cận bài giảng của giáo viên là bắt chước có ý thức.

3, nhân tố giáo dục
Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục hiện đại thì giáo dcuj giữ vai trò chủ
đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định.


Trong xã hội lịch sử Nho giáo đã không cho rằng giáo dục là nhân tố hình thành và
phát triển nhân cách. Khổng Tử thì cho rằng: mọi người sinh ra đều có bản tính gần
giống như nhau. Hay trong câu nói bất hủ của Mạnh Tử cũng cho rằng: “Nhân chi sơ,
tính bản thiện” tức là con người khi sinh ra đã vốn dĩ mang tính thiện, dù có giáo dục đào
tạo như thế nào đi chăng nữa cũng mang tính bản thiện. Hoặc Tuân Tử thì cho rằng :
“Nhân chi sơ, tính bản ác” tức là con người khi sinh ra đã vốn dĩ mang tính ác, dù có
giáo dục đào tạo như thế nào đi chăng nữa cũng mang tính bản ác. Quan điểm của Nho
giáo là duy tâm, thiếu toàn diện, coi bản tính, nhân cách con người là cố hữu, bất biến, do
trời sinh ra: “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” và không có gì thay đổi được.
Tuy nhiên, đó chỉ là quan niệm trong thời kỳ Nho giáo – khi nhận thức con người
còn chưa hoàn thiện và đầy đủ, duy tâm nhiều hơn duy vật. Ngay từ những ngày đầu, Hồ
Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta - đã nhận thức được rằng nhân cách con người
không phải do trời phú, không phải là cố hữu, bất biến, không thay đổi. Người viết:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền,
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Điều này đã bác bỏ quan niệm Nho giáo, quan niệm duy tâm về tính người. Hay
theo một nhà triết học lỗi thời đã từng nói: “Cho tôi một trăm đứa trẻ, tôi có thể tạo ra
50 đứa trẻ thành thiên tài, 50 đứa trẻ thành kẻ cắp”. Ông coi những đứa trẻ là những tờ
giấy trắng, ông có thể vẽ, viết bất cứ thứ gì trên đó. Thông qua đó, ông đế cao vai trò giáo
dục trong nhân cách con người, bác bỏ quan niệm duy tâm Nho giáo về nhân cách con

người.
Vậy nên, giáo dục có thể được hiểu như là quá trình tác động có ý thức, có mục
đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể trẻ em và học sinh,
trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối
với sự hình thành và phát triể nhân cách nhân cách thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm
sau:
+Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.


+Giáo dục mang lại những cái àm yếu tố bẩn sinh di truyền hay môi trường tự
nhiên không thể đem lại được. Ví dụ: một đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự
tăng trưởng và phát triển bình thường của cơ thể thì đứa trẻ đó se biết đi. Nhưng để đứa
trẻ đó biết nhảy, biết khiêu vũ thì đứa trẻ đó pahir được học, phải được giáo dục.
+Giáo dục bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người. Ví dụ: các
trường học, lớp học dành riêng cho người khuyết tật. Dạy học biết đọc, biết học bảng chữ
cái và có hệ thống giáo dục, hệ thống ngôn ngữ riêng cho họ.
+Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự phát của
môi trường xã hội gây nên làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã
hội. Ví dụ: trường giáo dưỡng dành cho trẻ vị thành niên phạm tội hay trại cải tạo dành
cho tội phạm nhằm giáo dục, cải tạo họ thành những con người có ích cho xã hội, quay
lại hòa nhập với cộng đồng và làm lại cuộc đời.
+Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tựu phát của xã hội chỉ ảnh
hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chiến lược trồng người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là chiến lược đào tạo giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa. Theo Người,
giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu, đầu tưu cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển
lâu dài về sau.
+Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng
minh rằng, sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những
điều kiện của sựu dạy học và giáo dục.

Giáo dục có vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển nhân cách con
người, tuy nhiên, giáo dục chỉ vách ra đường hướng cho sựu hình thành và phát triển nhâ
cách học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hứơng đó, còn cá nhân
học sinh có phát triển theo chiều hướng đó hay không thì giáo dục không thể trực tiếp tác
động được.
Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kỹ năng, kĩ
xảo, mặt khác, hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu
cầu của sự paths triển xã hội. Sản phẩm văn hóa của loài người có thể biến thành tài sản
tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động dạy học và giáo dục. Trong xã hội hiện nay, gia


đình, nhà trường và xã hội có thể đạt tới một sự thống nhất cao hơn trong việc giáo dục
thế hệ trẻ.
4, Nhân tố hoạt động
Hoạt động là sự tác động qua lại giữa con người với thế giới xung quanh, hướng
tới nhằm biến đổi nó và thỏa mãn nhu cầu của con người.
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự
hình thành và phát triển nhân cách. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm triết học,
đó là quan điểm “tự thân vận động”.
Tâm lý học hiện đại đã coi hoạt động là quá trình sáng tạo của con người (với tư
cách là chủ thể) và là quá trình con người lĩnh hội toàn bộ những cái có trong thực tại
xung quanh cần cho cuộc sống của chủ thể. Hai quá trình này diễn ra đồng thời và thống
nhất với nhau, chuyển hóa lẫn nhau, gọi là quá trình đối tượng hóa và quá trình chủ thể
hóa.
+Quá trình đối tượng hóa (quá trình khách thể hóa): là quá trính chủ thể của hoạt
động chuyển những cái của mình thành sản phẩm của hoạt động. Nói cách khác, đây là
quá trình chủ thể sử dụng trình độ tâm lý vốn có của bản thân như hiểu biết, tri thức, kỹ
năng kỹ xảo… tác động vào thể giới khách quan, làm ra sản phẩm của hoạt động. Quá
trình hoạt động cũng như sản phẩm của hoạt động chứa đựng những đặc đểm tâm lý của
chủ thể đã tiến hành hoạt động. Như vậy quá trình đối tượng hóa có thể hiểu là quá trình

chuyển những cái của chủ thể hoạt động thành những cái của đối tượng. Quá trình này
còn được gọi là quá trình xuất tâm.
+Quá trình chủ thể hóa: là quá trình biến những cái từ bên ngoài hiện thực khách
quan thành những cái của chủ thể. Hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú.
Mỗi hoạt động đòi hỏi ở chủ thể tiến hành những phẩm chất tâm lý nhất định. Để đạt hiệu
quả cao, chủ thể hoạt động phải trau dồi, rèn luyện các phẩm chất tâm lý phù hợp với yêu
cầu hoạt động mà họ tham gia. Hơn nữa, trong hoạt động, cá nhân khám phá những bản
chất, quy luật của đối tượng, tìm ra được các thao tác, kỹ năng kỹ xảo cần thiết. tất cả
những cái đó từ hiện thực khách quan sẽ được cá nhân lĩnh hội, tái tạo và biến nó thành
cái của chủ thể. Đó chính là quá trình chủ thể hóa, quá trình biến những cái bên ngoài
thành tâm lý của chủ thể. Quá trình này còn gọi là quá trình nhập tâm.


Như vậy, hoạt động được xem như là sự vận động tạo thành tâm lý nhân cách – sự
vận động gắn chủ thể hoạt động với thế giới đối tượng xung quanh nó.
5, Nhân tố giao tiếp
Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý sống động,
những nhân cách hoàn chỉnh. Giao tiếp diễn ra trong mối quan hệ giữa chủ thể và chủ
thể.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao tiếp là
một nhu cầu cơ bản, không thể thiếu của xã hội loài người. Chính con người làm xuất
hiện, duy trì, phát triển giao tiếp và trở thành sản phẩm của giao tiếp. Nhờ có giao tiếp mà
con người mới tham gia vào cac mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn
mực xã hội, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp năng lực của mình vào
kho tàng chung của nhân loại.
Trong giao tiếp, con người không chỉ nhận thức được người khác, nhận thức các
quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính bản thân mình, tự đối chiếu mình với người
khác, với các chuẩn mực xã hội, góp phần hoàn thiện nhân cách.
KẾT LUẬN
Nhân cách mang nét đặc trưng riêng cho từng người, từng tộc người từng dân tộc

có ý nghĩa phân biệt ngữa người này với người khác, giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Nhân cách chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố trong quá trình hình thành và phát triển.
Tuy nhiên, trong các nhân tố đó thì không có nhân tố nào ưu việt hơn nhân tố nào mà
chúng có sự tác động qua lại, bổ trợ cho nhau để hình thành nên một nhân cách toàn diện
và mỗi nhân tố có một vai trò nhất định trong sựu hình thành nhân cách.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Tâm lý học đại cương – hướng dẫn trả lời lý thuyết, giải bài tập tình huống, trắc
nghiệm, Nxb Chính Trị - Hành chính, Hà Nội 2010. TS. Bùi Kim Chi – ThS. Phan Công
Luận.
2, Giáo trình tâm lý học đại cương, Nxb CAND, Hà Nội – 2008.



×