Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.34 KB, 19 trang )

Bài t ập nhóm 2 Lu ật Th ươ
n g m ại 2 – Tranh ch ấp th ươ
n g m ại
JUNE 16, 2012 BY LILYNNVIETNAM

I/ Khái quát về tranh chấp thương mại và các phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại
1.
Khái niệm về tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại hiểu theo nghĩa khái quát nhất là sự bất
đồng chính kiến, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Tranh
chấp thương mại là loại hình tranh chấp phổ biến nhất, thường
xuyên nhất phát sinh trong hoạt động kinh doanh giữa các chủ
thể kinh doanh với nhau trong lĩnh vực hoạt động thương mại.
Tranh chấp thương mại có một số đặc điểm là:
Thứ nhất, chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là các
thương nhân. Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các
thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên chủ thể
không phải là thương nhân. Ngoài thương nhân, trong một số
trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác cũng có thể là
chủ thể của tranh chấp thương mại.
Thứ hai, căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi
phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật.
Thứ ba, nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về
quyền và nghĩa vụ, lợi ích của các bên trong hoạt động thương
mại.
Tóm lại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong đời
sống kinh tế xã hội, vì vậy nó hội tụ đầy đủ đặc điểm của một
tranh chấp nói chung. Tuy nhiên, tranh chấp thương mại là tranh
chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ


thể kinh doanh khi thực hiện hoạt động thương mại, nên nó có
những đặc điểm đặc thù nhất định đòi hỏi phải có phương thức


giải quyết tranh chấp nhanh gọn, hiệu quả, đáp ứng được như cầu
của các chủ thể kinh doanh.
2.
Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại là quá trình các chủ thể có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp lựa chọn các cách thức, biện
pháp phù hợp để giải tỏa mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích
giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có
thể chấp nhận được. Hiện nay pháp luật nước ta thừa nhận có bốn
hình thức giải quyết tranh chấp thương mại được quy định tại điều
317 Luật thương mại 2005: “ Các hình thức giải quyết tranh chấp:
Thương lượng giữa các bên
Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải
3. Giải quyết bằng trọng tài hoặc tòa án.”
II/ Phân tích các phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại.
1.
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
thương lượng
1.1 Nội dung
a) Khái niệm
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua việc
các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ
những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có
sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Trong thực

tiễn, hầu hết các trường hợp có tranh chấp phát sinh thì các bên
thường tự nguyện và nhanh chóng liên hệ, gặp gỡ nhau để thương
lượng, tìm cách tháo gỡ bất đồng, với mục đích chung là giữ mối
quan hệ kinh doanh tốt đẹp và lâu dài giữa họ. Có thể coi đây là
hình thức thương lượng để đạt được sự thỏa thuận chung về bất
đồng phát sinh, vừa là một hình thức giải quyết tranh chấp.
1.
2.

b) Bản chất, đặc điểm
Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình
bày, phát biểu quan điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm các biện pháp
thích hợp và đi đến thống nhất thỏa thuận để tự giải quyết các
bất đồng.[1]


Bản chất của phương thức thương lượng trong giải quyết tranh
chấp thương mại được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất là phương thức giải quyết tranh chấp này được thực
hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp
gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng
phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ
giúp hay phán quyết.
Thứ hai là quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu
sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định
mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết
tranh chấp. Pháp luật của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi
nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ chế
giải quyết trạnh chấp thương mại bằng thương lượng.

Thứ ba là việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc
vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ
chế pháp lí nào đảm bảo việc thực thi đối với thỏa thuận của các
bên trong quá trình thương lượng.
c)
Các hình thức
Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp thương mại có
thể được thực hiện bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp,
thương lượng gián tiếp và kết hợp thương lượng trực tiếp với
thương lượng gián tiếp. Thương lượng trực tiếp là cách thức mà
các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề
xuất ý kiến của mỗi bên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh
chấp. Thương lượng gián tiếp là cách thức các bên tranh chấp gửi
cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của
mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.
Mỗi hình thức thương lượng đều có những ưu nhược điểm nhất
định, các bên cần xem xét và lựa chọn giữa hai hình thức này cho
phù hợp.
d) Các bước tiến hành thương lượng
Thương lượng là quá trình giải quyết tranh chấp mang đặc điểm
linh hoạt, tự do theo thỏa thuận giữa các bên tranh chấp nên
pháp luật không quy định cụ thể quá trình thực hiện trên thực tế.
Thông thường thương lượng được thực hiện theo các bước sau:


Hai bên tranh chấp cử đại diện gặp nhau để trao đổi, đưa ra
quan điểm của mình, đề xuất những phương án giải quyết để bên
kia xem xét. Đối với phương thức thương lượng gián tiếp thì các
bên thể hiện ý chí của mình thông qua văn viết rồi sau đó gửi bản
thương lượng đó cho bên kia.

Hai bên tranh chấp tiến hành thương lượng, đưa ra ý kiến
thống nhất cho lợi ích của cả hai bên.
Kết thúc thương lượng: Nếu hai bên nhất trí phương án giải
quyết hợp lí nhất; sau khi đã thống nhất phương án giải quyết thì
các bên tiến tới thực hiện theo như thương lượng để giải quyết
tranh chấp thương mại đang phát sinh. Nếu không đồng ý với
phương án nào, trường hợp này thương lượng không đạt hiệu quả
không giải quyết được tranh chấp tồn tại hai bên phải lựa chọn
phương thức khác.
1.2 Ưu điểm và nhược điểm
a) Ưu điểm
Ưu điểm nổi bật nhất của phương thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh
hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bởi lẽ, thương lượng thực chất là sự
gặp mặt giữa các bên tranh chấp để thỏa thuận, trao đổi, bày tỏ ý
chí nguyện vọng của mình nhằm đưa ra cách giải quyết tốt nhất.
Cho nên hai bên có thể tự do lựa chọn, quyết định địa điểm, thời
gian, cách thức lương lượng mà không bị ràng buộc bởi bên thứ ba
nào khác nên quá trình thương lượng đảm bảo tính linh hoạt, ít
tốn kém. Phương thức thực hiện đơn giản, lại không bị ràng buộc
bởi những thủ tục pháp lí phức tạp, các bên được toàn quyền
quyết định việc thực hiện thương lượng cho nên phương thức này
được các giới thương nhân lựa chọn nhiều mỗi khi xảy ra tranh
chấp.
Hơn nữa thương lượng cũng bảo vệ được uy tín cũng như bí mật
kinh doanh được đảm bảo tối đa và mức độ phương hại đến mối
quan hệ hợp tác giữa các bên cũng thấp. Các nhà kinh doanh hơn
ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân mình, hiểu rõ những
bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm



phán, thương lượng dễ hiểu và cảm thông với nhau hơn để tranh
có thể thỏa thuận được các giải pháp tối ưu theo đúng nguyện
vọng của mỗi bên mà không phải cơ quan tài phán nào cũng có
thể làm được. Không những thế còn tăng cường sự hiểu biết và
hợp tác lẫn nhau sau khi thương lượng thành công.
b) Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương thức giải quyết chấp
thương mại bằng thương lượng cũng có những hạn chế nhất định,
đó là:
- Thương lượng có thành công hay không phụ thuộc vào sự hiểu
biết và thái độ thiện chí, hợp tác của các bên tranh chấp. Nếu một
trong các bên tranh chấp thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực và vấn đề
đang tranh chấp, không nhận thức được vị thế của mình về khả
năng thắng thua nếu phải theo đuổi vụ kiện tại cơ quan tài phán
hoặc không có thái độ nỗ lực hợp tác, thiếu sự thiện chí, trung
thực trong quá trình thương lượng thì khả năng thành công là rất
mong manh, kết quả thương lượng thường bế tắc.
- Hình thức thương lượng chỉ thích hợp đối với các bên thực sự có
thiện chí muốn tìm giải pháp đối với tranh chấp. Nếu có bên muốn
dùng hình thức thương lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa
vụ thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài thời gian hơn.
- Kết quả thương lượng không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lí
mang tính bắt buộc. Dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải
quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng cũng
vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Do không
có một cơ quan cưỡng chế đảm bảo việc thực hiện kết quả thương
lượng cho nên đã làm hạn chế đi phần nào hiệu quả của phương
thức này.
2.

Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải:
Hoà giải thương mại hay trung gian thương mại là một
phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế
giới, đặc biệt tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển.


Theo Điều 37 Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25/02/2003
(có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2003) quy định, các bên có thể tự
hòa giải khi xảy ra tranh chấp.
2.1 Nội dung
a) Khái niệm
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham
gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ,
thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
b) Bản chất, đặc điểm
Thứ nhất, hoà giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc
giải quyết tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập
(hoà giải viên). Vai trò của hòa giải viên trong quá trình hòa giải
chỉ dừng lại ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một
giải pháp mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có
thể chấp nhận sau khi xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu
cầu của họ. Họ không có quyền quyết định hay áp đặt ràng buộc
các bên tranh chấp. Tùy thuộc nội dung, tính chất của vụ tranh
chấp và sự thỏa thuận của các bên, số lượng hòa giải viên có thể
là một hoặc nhiều. Hòa giải khác với phương thức thương lượng ở
sự có mặt của bên thứ ba (hòa giải viên) và cũng khác với phương
thức trọng tài ở chỗ, hòa giải viên không có quyền xét xử và ra
phán quyết như trọng tài viên.

Thứ hai, trong quá trình hòa giải các bên không chịu sự chi phối
bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về
thủ tục hòa giải. Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn việc thực
hiện hòa giải để giải quyết tranh chấp phát sinh.
Thứ ba, kết quả hòa giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ
thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất
kì cơ chế nào đảm bảo thi hành những cam kết của các bên trong
quá trình hòa giải.
c)
Các hình thức hòa giải
Trên thực tế có hai hình thức hòa giải là hòa giải ngoài tố tụng và
hòa giải trong tố tụng. Hòa giải ngoài tố tụng là hòa giải trung
gian, được các bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ
quan tư pháp giải quyết. Hòa giải trong tố tụng là hòa giải được


tiến hành tại tòa án khi cơ quan này giải quyết tranh chấp theo
yêu cầu của các bên.
d) Các bước tiến hành hòa giải
Để tiến hành hòa giải đạt hiệu quả mong muốn, thông thường các
bên tranh chấp cần tiến hành các bước sau đây:
- Các bên tranh chấp trao đổi thông tin, tài liệu, những vấn đề có
liên quan để làm rõ yêu cầu cũng như khả năng, vị thế của mỗi
bên đồng thời thương thảo lựa chọn bên (hoặc các bên) làm trung
gian hòa giải (hội đồng định giá, giám định viên…) nếu các bên
chưa có thỏa thuận hoặc mới có thỏa thuận mang tính nguyên tắc
về trung gian hòa giải.
Các bên có thể xác định một thủ tục tiến hành hòa giải qua
trung gian. Nếu không có thỏa thuận về vấn đề này thì có thể
hiểu một thủ tục linh hoạt, mềm dẻo đã được các bên trao cho

người trung gian hòa giải có toàn quyền quyết định.
Các bên trình bày ý kiến, quan điểm của mình về nội dung
vụ tranh chấp, lắng nghe ý kiến của người khác và đề xuất
phương án giải quyết tranh chấp.
Người trung gian hòa giải xem xét, phân tích, đánh giá các
tình tiết của vụ việc, làm sáng tỏ vị thế của các bên tranh chấp.
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá và khuyến nghị của
người trung gian hòa giải về các giải pháp cần lựa chọn, nếu các
bên thỏa thuận được với nhau về phương án giải quyết tranh chấp
thì nội dung sự thỏa thuận phải được ghi nhận bằng văn bản và
phải có đầy đủ chữ kí xác nhận của đại diện các bên và người
trung gian hòa giải.
2.2 Ưu điểm và nhược điểm
a) Ưu điểm
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu
điểm như phương thức thương lượng, bởi tính đơn giản, thuận
tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.


Phương thức hòa giải rõ ràng linh hoạt hơn cả về mặt thủ tục
cũng như kết quả giải quyết vụ tranh chấp. Các bên hoàn toàn
làm chủ quy trình hòa giải cũng như quyết định nội dung thỏa
thuận về việc giải quyết vụ tranh chấp. Hòa giải có thể được tiến
hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa
thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế
là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với
họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và
các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có
những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá phức tạp.
Hòa giải giúp giải quyết tranh chấp thương mại một cách nhanh

chóng, mau lẹ, ít tốn kém, tiết kiệm được thời gian và chi phí tiền
bạc. Nếu giải quyết tranh chấp bằng thủ tục trọng tài hoặc thủ tục
tư pháp mất khá nhiều thời gian do các bên phải chờ đợi cơ quan
trọng tài, tòa án thực hiện nhiều thủ tục do luật định…thì giải
quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài tố tụng có mức chi phí thấp
hơn những khoản phí, lệ phí lớn, thời gian giải quyết nhanh hơn do
các bên chủ động.
Người thứ ba được các bên chọn lựa làm trung gian hòa giải
thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, am hiểu
lĩnh vực và vấn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên
nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm, nhận
thức của mỗi bên, họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ
gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp. Do đó
cơ hội thành công trong hòa giải lại cao hơn so với thương lượng.
Ngoài ra, nguyên tắc bí mật của hòa giải cũng giúp các bên bảo
vệ được bí mật kinh doanhcủa mình, đặc biệt là giữ gìn hình
ảnh của doanh nghiệp mình trong mắt các đối tác và khách hàng.
Điều quan trọng nhất mà hòa giải có thể mang lại cho các doanh
nghiệp đó là việc duy trì mối quan hệ kinh doanh giữa các bên,
điều này đặc biệt quan trọng khi các bên tranh chấp vốn là những
đối tác có mối quan hệ kinh doanh lâu dài và có sự tín nhiệm nhất
định đối với nhau.
Kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba
nên mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đã đạt
được trong quá trình hòa giải cũng cao hơn so với phương thức
thương lượng.


b)


Nhược điểm

Bên cạnh những ưu điểm trên, hòa giải cũng không thoát li được
những hạn chế tương tự như phương thức thương lượng nói trên.
Bởi nền tảng của hòa giải vẫn được quyết định trên cơ sở ý chí
thỏa thuận cũng như sự tự nguyện thi hành của mỗi bên tranh
chấp mà không có cơ chế pháp lý ràng buộc nên cho dù có sự trợ
giúp của người thứ ba mà một bên không trung thực, thiếu sự
thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán thì hòa giải khó mà
đạt được kết quả như mong đợi. Việc sử dụng nhiều hòa giải viên
có thể không đảm bảo được tính bảo mật_một trong những ưu
điểm của hòa giải.
3.
Phương thức giải quyết thương mại bằng trọng tài.
3.1 Nội dung
a) Khái niệm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010
thì: “Trọng tài thương mạilà phương thức giải quyết tranh chấp do
các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”. Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ. Là một
tổ chức xã hội – nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết một số
tranh chấp theo qui định của pháp luật, không phụ thuộc vào
quốc tịch của các bên tranh chấp. Quá trình giải quyết, được thực
hiện theo nguyên tắc “phân xử trọng tài” phù hợp với quy định
trong Luật Trọng tài thương mại và quy chế của Tổ chức trọng tài
mà các bên đã lựa chọn.
b) Bản chất, đặc điểm
Xét về bản chất, trọng tài là một hình thức tài phán tư khác với
tòa án là cơ quan tài phán nhà nước, được nhà nước thành lập và
giao quyền thay mặt Nhà nước xét xử, giải quyết tranh chấp bất

đồng giữa cá nhân, tổ chức trong xã hội, thì trọng tài là cơ quan
tài phán mang bản chất phi nhà nước, không do nhà nước thành
lập mà được hình thành trên cơ sở quyền tự định đoạt của các bên
tranh chấp. Bản chất của phương thức này thể hiện ở một số điểm
đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, trọng tài nhân danh ý chí của các bên khi giải quyết tranh
chấp chứ không nhân danh quyền lực nhà nước. Trọng tài thương
mại là một tổ chức phi chính phủ, nhận giải quyết các vụ tranh


chấp khi các bên có thỏa thuận bằng văn bản về việc chọn trọng
tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoàn toàn
không có sự can thiệp của nhà nước. Chỉ khi một hay các bên
không thỏa mãn với phán quyết của trọng tài thì mới đề nghị tòa
án giải quyết tiếp.
Hai là, trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết trọng tài có giá trị
chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên tranh
chấp. Trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên phán
quyết của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm, không bị
kháng cáo kháng nghị như thủ tục tố tụng tư pháp. Các tranh
chấp thương mại chỉ được giải quyết bằng trọng tài một lần duy
nhất.
Ba là, thủ tục trọng tài đơn giản, mềm dẻo, linh hoạt và không
công khai. Vì trọng tài thương mại nhân danh ý chí của các bên
tranh chấp nên để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên, cơ
quan trọng tài sẽ tiến hành theo thủ tục trình tự đơn giản những
hiệu quả tiến tới thống nhất phương án giải quyết cuối cùng.
c)

Các hình thức tổ chức trọng tài:


Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức đó là trọng tài vụ
việc và trọng tài thường trực:
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp
thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và
trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy
điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài vụ
việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Trọng tài thường trực luôn luôn tồn tại không phụ thuộc vào tranh
chấp của các bên. Trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng
các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính
phủ không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước, có tư cách
pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn
định. Tổ chức và quản lí ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản


gọn nhẹ. Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt
động và có quy tắc tố tụng riêng.
d)

Thủ tục tiến hành

Thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài của
trung tâm trọng tài và hội đồng trọng tài do các bên thành lập là
tương đối giống nhau, đều trải qua các bước như sau: nộp đơn
kiện; tự bảo vệ của bị đơn; thành lập hội đồng trọng tài tại trung
tâm trọng tài, chuẩn bị giải quyết; tiến hành hoà giải thương
lượng mà không có sự can thiệp của trọng tài; tổ chức phiên họp
giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài.

3.2 Ưu điểm, nhược điểm
a) Ưu điểm
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại được thực hiện theo trình tự tố tụng linh hoạt và mềm dẻo.
Các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa
điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện
lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ
pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian
và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa
quyền tự chủ của các bên tranh chấp. Việc đưa tranh chấp ra
trọng tài giải quyết là xuất phát từ thỏa thuận của các bên có
quyền lựa chọn cơ quan trọng tài, lựa chọn hình thức trọng tài, lựa
chọn các quy tắc tố tụng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên để giải
quyết tranh chấp cho mình không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở
hoặc nơi cư trú của các bên…So với việc giải quyết tranh chấp
bằng tòa án thì bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng, tòa án có
thẩm quyền xét xử không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các
bên.
Thứ ba, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối
với việc giải quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng
tài thương mại có ưu điểm nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn,
kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm, tức


có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 – 3 lần, từ sơ
thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi
còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham gia của nhiều cơ quan
khác (như Viện kiểm sát…). Còn cách thức giải quyết bằng trọng
tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết

định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương
sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay kháng cáo.
Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết
xong, Uỷ ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ
và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu điểm này đặc biệt
quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính những ưu
điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước
ngoài khi quyết định tham gia đầu tư thương mại tại Việt Nam; tạo
thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông qua
việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Thứ tư, trọng tài là cơ chế giải quyết tranh chấp bảo đảm bí mật
cho các bên đương sự. Điều 4 Luật trọng tài thương mại quy
định: “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không
công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Hầu hết
pháp luật về trọng tài các nước thừa nhận nguyên tắc xét xử “
kín” nếu giữa các bên không có sự thoả thuận khác. Tính bí mật
thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các bên được
giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều
đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Đây là ưu điểm đối
với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ tranh
chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc
công chúng) – điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong
hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ năm, trọng tài thương mại giải quyết trên cơ sở thoả thuận và
tạo khả năng sau tranh chấp duy trì được quan hệ đối tác các
bên. Chính bởi có sự qua lại trên cơ sở tôn trọng mong muốn của
nhau nên các bên cần giữ được mối hoà khí trong quan hệ hợp tác
kinh doanh. Thêm vào đó tại phiên họp giải quyết tranh chấp khi
chỉ có hai bên đối tác họ có thể trao đổi kín đáo, nhẹ nhàng, làm

giảm những xung đột căng thẳng, bất đồng hai bên. Đó là những
yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan
hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết


định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt
hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ sáu, khi xét xử, trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh
nghiệm của các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền
chọn Trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội
đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu biết vững vàng
của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên
biệt như licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ,
sở hữu trí tuệ, chứng khoán…
Thứ bảy, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài –
một tổ chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp
lý của Toà án trên các mặt sau[2]: Xác định giá trị pháp lý của
thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội
đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét
đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành
quyết định trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu
quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại
thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, nhằm bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ bị
tiêu huỷ hoặc có nguy cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp
để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh
chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và
niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại ngân
hàng. Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan
trọng tài rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện

cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó,
Toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt
pháp lý, làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm
sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện trên các
chứng cứ “pháp lý”.
Ngoài ra phán quyết của trọng tài được sự công nhận của quốc tế.
Thông qua một loạt các công ước quốc tế, đặc biệt là Công ước
New – york năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của
trọng tài.
b)

Nhược điểm


Bên cạnh những ưu điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài thương mại còn có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả
năng chi trả. So với phương thức giải quyết tranh chấp khác như
thương lượng, hòa giải thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài tốn kém hơn.
Thứ hai, trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên
đôi khi các quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt
hại đối với doanh nghiệp.
Thứ ba, việc phán quyết có thể bị huỷ bỏ quyết định của toá án
cũng là điểm hạn chế vì nó hạn chế hiệu lực của phán quyết trọng
tài cũng như giảm sự tin cậy vào cơ chế giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài.
4. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa
án.

4.1 Nội dung
a) Khái niệm
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử
nhân danh quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ
tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của tòa án
về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được
đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
b) Bản chất, đặc điểm:
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại
tòa án có sự tham gia của bên thứ ba đó là tòa án thông qua hoạt
động xét xử thông qua hội đồng xét xử. Tòa án là cơ quan xét xử
nhân danh quyền lực nhà nước và việc giải quyết tranh chấp bằng
tòa án không cần phải có sự thỏa thuận trước.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp tại tòa án phải tuân thủ
nguyên tắc tố tụng do pháp luật quy định.


Thứ ba, Tòa án xét xử theo nguyên tắc công khai, trừ trường hợp
cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục
của dân tộc hoặc để giữ kín bí mật theo yêu cầu chính đáng của
các đương sự.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp thông qua quyết định của toà
án có thể qua nhiều cấp độ xét xử . Nguyên tắc này đảm bảo cho
quyết định của toà án được chính xác , công khai , khách quan và
đúng pháp luật.
Thứ năm, kết quả của việc giải quyết tranh chấp là một bản án do
Hội đồng xét xử tuyên có giá trị bắt buộc đối với các bên khi nó có
hiệu lực pháp luật. Khi bản án đã có hiệu lực thì các bên phải chấp
hành, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
c)

Thủ tục tiến hành
Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm, gồm có
khởi kiện và thụ lý vụ án; hòa giải và chuẩn bị xét xử; phiên tòa sơ
thẩm.
-

Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa cấp phúc thẩm.

Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật,
bao gồm: thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.
4.2 Ưu điểm, nhược điểm
a) Ưu điểm
Việc dựa vào cơ quan tài phán là toà án kinh tế để giải quyết các
tranh chấp kinh tế có những ưu điểm nhất định. Trước hết phải kể
đến, toà án là cơ quan nhân danh nhà nước để giải quyết tranh
chấp, do đó phản quyết của toà án được đảm bảo thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ
quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành
các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đăc điểm này được có thể coi
là yếu tố hấp dẫn nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến
phương thức giải quyết tranh chấp tại toà án.


Khi giải quyết tranh chấp tại toà án, việc giải quyết có thể qua
nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho
quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và
đúng với pháp luật.
Ngoài ra, ta còn thấy thẩm quyền giải quyết của toà án được mở
rộng đến tất cả các ngành kinh tế. Chính vì thế, khi xảy ra tranh
chấp, người ta thường nghĩ đến toà án như là nơi bao quát giải

quyết mọi vấn đề.
Với điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, chi phí cho việc giải
quyết tranh chấp kinh tế tại toà án thấp hơn rất nhiều so với việc
nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.
b) Nhược điểm
Tuy toà án là cơ quan tài phán có sức mạnh cưỡng chế giúp đôi
bên có thể giải quyết tranh chấp một cách triệt để, nhưng phương
thức giải quyết tranh chấp này cũng bộc lộ ra nhiều hạn chế:
Đầu tiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng
toà án, các bên phải nắm rõ đươc bản chất, vì việc giải quyết
tranh chấp của toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
mang tính hình thức của pháp luật tố tụng, và đặc điểm này đôi
khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của
động kinh doanh, thương mại đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt
và mềm dẻo.
Một điều bất lợi nữa của toà án, đó là nguyên tắc xét xử công
khai. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo
vệ pháp chế và duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội
thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công khai của toà án còn
có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật nhà nước hoặc
bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, toà án
có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp
làm ăn trên thương trường đều không muốn mang dấu đen phải
ra toà để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt


động kinh doanh của họ, cho nên khuyết điểm này có thể coi là
lớn nhất.
Mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của

toà án là chính xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng
sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây
bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp kinh tế có giá trị
lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc dây dưa,
kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời giờ, tiền
bạc của doanh nghiệp và có khi phải bỏ lỡ một cách đáng tiếc các
cơ hội kinh doanh.
Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn
chế, đôi lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên
tranh chấp.
III. Đánh giá chung
Với những phân tích trên đây, có thể thấy rằng ưu điểm nổi trội
nhất của các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là không mang
tính quyền lực Nhà nước, không bị ràng buộc bởi thủ tục phức tạp,
rườm rà mà chủ yếu được giải quyết theo ý chí của các bên tranh
chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa
chọn) theo những thủ tục linh hoạt, nhanh gọn, đảm bảo tối đa
quyền tự chủ của các bên. Và hơn nữa những phương thức này
đảm bảo tối đa bí mật cũng như uy tín của doanh nghiệp, góp
phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài trong tương
lai của các bên. Đối với tòa án thì lại là phương thức giải quyết
tranh chấp mang ý chí quyền lực nhà nước, xét xử công khai cộng
với những thủ tục phức tạp. Cho nên hiện nay các doanh nghiệp
thường lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp thương
lượng, hòa giải và trọng tài thương mại hơn mặc dù có những
nhược điểm như đã trình bày ở trên.
Hiện nay, phương thức hòa giải được sử dụng nhiều, nhưng phạm
vi và hiệu quả áp dụng còn ở mức khiêm tốn. Đặc biệt hòa giải với
tư cách là một phương thức GQTC thay thế dường như vẫn được

coi là công việc riêng tư của các bên nên cho đến thời điểm hiện


tại, hầu như không có văn bản nào quy định cụ thể, hướng dẫn chi
tiết về quy trình, thủ tục, nội dung, hiệu lực của phương thức
GQTC này. Ở nước ta, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
khẳng định: “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp
thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng
quyết định công nhận việc giải quyết đó”. Đây là chủ trương rất
quan trọng làm cơ sở cho việc xây dựng các quy định pháp luật về
các phương thức GQTC thay thế như hòa giải, trọng tài.
Tuy nhiên đối với những tranh chấp thương mại có quy mô lớn và
phức tạp, khó có thể giải quyết bằng thương lượng hòa giải thì các
bên thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại mà không muốn đưa ra Tòa án. So với phương thức
giải quyết bằng Trọng tài, việc đưa vụ việc ra Tòa án thực sự là
giải pháp cuối cùng ác bên phải cân nhắc khi biết những phức tạp
thực tế từ việc GQTC tại Tòa án; như là thủ tục kéo dài với nhiều
cấp xét xử, sự công khai trong quá trình xét xử công khai và tốn
rất nhiều thời gian và tiền bạc cho các bên. Đồng thời khi đó,
quan hệ giao thương giữa các đối tác khó có thể gắn kết lại như
lúc ban đầu. Tuy nhiên, việc GQTC bằng Trọng tài thương mại tại
Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại vẫn còn rất nhiều điểm hạn
chế, như là: hạn chế trong chính quy định về phạm vi áp dụng của
phương thức, Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên
tồn tại một thỏa thuận chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp,
phải thỏa thuận trọng tài cụ thể, rõ ràng và theo đúng quy định
của pháp luật, hạn chế về luật áp dụng trong giải quyết Trọng tài
và cũng là cơ sở để cho rằng: việc giải quyết bằng Trọng tài hiện

nay tại Việt Nam không thực sự tiến bộ hơn so với Tòa án….
Tóm lại, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh
doanh, thương mại ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển
trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư…
Vấn đề lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại phải được các bên cân nhắc, lựa chọn phù hợp
dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh
chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành
cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân


nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có quyết
định hợp lý.
C. KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh đều
muốn xây dựng lòng tin, duy trì mối quan hệ kinh tế với
các đối tác một cách lâu dài để bảo đảm cho hoạt động
kinh doanh, thương mại ổn định và phát triển. Tuy vậy, đôi
khi vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan
hệ kinh tế thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có
những bất đồng và mâu thuẫn dẫn đến các tranh chấp
trong việc thực hiện các cam kết. Vì thế, cần phải có
những phương thức giải quyết tranh chấp nhanh gọn, tiết
kiệm và có thể duy trì được quan hệ làm ăn giữa các bên.
Những tranh chấp xảy ra là điều không tránh khỏi những lựa chọn
hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi cho
thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các
thương nhân cần cân nhắc.
[1] Trần Đình Hào – Hòa giải, thương lượng trong việc giải quyết

tranh chấp hợp đồng kinh tế – Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
1/2000 – trang 30.
[2] trích 360/Giai_quyet_tranh_chap_bang_trong_tai/



×