MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự có một quá trình phát triển không ngừng theo trình độ
văn minh của xã hội loài người. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường phát sinh
nhiều loại hình giao dịch mà pháp luật dân sự từng bước phải hệ thống hóa bằng
các quy định cụ thể. Trong quá trình pháp điển hóa các quan hệ dân sự ở nước ta,
chế định giao dịch dân sự được Bộ luật dân sự (viết tắt là BLDS) ghi nhận tại
chương VI Phần thứ nhất gồm 18 điều (từ Điều 121 đến Điều 138 của BLDS).
Những quy định đó thể hiện được sự khái quát hóa thành những nguyên tắc
chung, áp dụng cho tất cả các giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương
hay hợp đồng. Có thể khẳng định rằng, giao dịch dân sự là loại quan hệ có tính
chất phổ biến, được áp dụng rộng rãi nhất trong giao lưu dân sự, xảy ra hàng
ngày, và tất cả các chủ thể tiến hành xác lập, thực hiện.
Giao dịch dân sự được BLDS ghi nhận là căn cứ pháp lý để xác lập quyền
và nghĩa vụ dân sự, chính vì thế trong tình hình hiện nay, BLDS đã phần nào đáp
ứng được yêu cầu của cuộc sống và thỏa mãn các điều kiện vật chất, tinh thần
hàng ngày của nhân dân. Thực tế đời sống dân sự là rẩt phức tạp, cho nên không
thể tránh khỏi các tranh chấp xảy ra, vì vậy nghiên cứu về chế định giao dịch dân
sự để hiểu rõ hơn bản chất của chuẩn mực pháp lý này, giúp cho việc hiểu và
hình thành thống nhất cách ứng xử của mọi người khi tham gia giao dịch là việc
làm không thể thiếu được. Tiểu luận sau đây xin được nghiên cứu về một khía
cạnh của giao dịch dân sự, đó là giao dịch dân sự có điều kiện – nhằm góp phần
đưa đến một cái nhìn rõ nét hơn về các chế định về giao dịch dân sự nói chung
và giao dịch dân sự có điều kiện nói riêng.
2
NỘI DUNG
1.
Một số vấn đề lý luận chung về giao dịch dân sự
1.1. Khái niệm giao dịch dân sự
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế hành chính bao cấp sang nền kinh tế
thị trường ở nước ta đã tác động mạnh vào cách nhìn nhận về các giao dịch dân
sự. Ngược lại, giao dịch dân sự của kinh tế thị trường cũng trở thành công cụ tác
động tích cực trở lại, thúc đẩy sự pháp triển kinh tế - xã hội, nhất là chúng thỏa
mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng tăng của mọi người dân. Các
giao dịch ngày càng đa dạng, phức tạp hơn do có sự tham gia của nhiều chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, trong và ngoài nước, và sự đan xen
nhiều loại hình sở hữu khác nhau, các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác được mở rộng hơn trước. Ví dụ như trong lĩnh vực sử dụng đất
đai, vấn đề ủy quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản…
Tại Điều 121 BLDS quy định: “ Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn
phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Từ quy định trên, ta có thể thấy giao dịch dân sự bao gồm các yếu tố sau:
* Chủ thể của giao dịch dân sự: là các bên có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi tham gia giao dịch dân sự nhằm vào một mục đích nhất định. Theo
BLDS chủ thể bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
- Về cá nhân (được quy định tại chương 3 phần thứ nhất của BLDS): Năng
lực pháp luật của cá nhân là khả năng của cá nhân hưởng quyền và có nghĩa vụ
dân sự do pháp luật dân sự điều chỉnh. Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi
người đó sịnh ra còn sống và chấm dứt khi người đó chết, mọi cá nhân đều có
năng lực pháp luật như nhau; không bị hạn chế, trừ trường hợp do pháp luật quy
định hạn chế năng lực pháp luật của cá nhân.
3
- Về pháp nhân (được quy định tại chương 4 phần thứ nhất BLDS): Theo
quy định tại Điều 14 BLDS một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ
các điều kiện sau đây:
+ Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng
ký hoặc công nhận (ở đây bao hàm yếu tố xin phép và được phép của tổ chức
đó).
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ (có lý lịch, tên gọi, trụ sở, điều lệ,…)
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó (đây là tiền đề vật chất có ý nghãi quan trọng trong thực tế để pháp nhân
tham gia giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể đọc lập).
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Đây là những điều kiện cơ bản quy định quy chế pháp lý đối với pháp
nhân, thiếu một trong bốn điều kiện kể trên, thì không thể trở thành pháp nhân
với tư cách là chủ thể của giao dịch dân sự.
- Về hộ gia đình và tổ hợp tác (được quy đinh tại chương 5 phần thứ nhất
BLDS):
+ Những hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung để lao động kinh tế
chung trong quan hệ sử dụng đấy, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư,
nghiệp và trong một số lĩnh vực sản cuất, kinh doanh, do pháp luật quy định, mới
trở thành chủ thể của giao dịch dân sự, chứ không phải tất cả các hộ gia đình đều
trở thành chủ thể của giao dịch dân sự (tức là phải có điều kiện nhất định).
+ Tổ hợp tác: là các cá nhân từ 3 người trở lên hình thành tổ hợp tác trên cơ
sở hợp đồng, hợp tác có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn, cũng đóng
góp tài sản công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và
cùng chịu trách nhiệm dân sự thì trở thành chủ thể của giao dịch dân sự.
* Khách thể của giao dịch dân sự: Giao dịch dân sự là phương tiện pháp
lý quan trọng nhất, phổ biến nhất trong giao lưu dân sự, nhằm chuyển dịch quyền
4
tài sản cũng như để thỏa mãn nhu cầu tinh thần cảu mọi người trong cuộc sống.
Nếu khách thể chung của quan hệ pháp luật là cái mà quan hệ pháp luật đó tác
dộng tới thì trong giao dịch dân sự có thể khẳng định nó là những quyền lợi, lợi
ích vật chất hay tinh thần mà các bên mong muốn đạt được thông qua giao dịch
dân sự.
Những lợi ích vật chất ở đây có thể bao gồm:
- Tài sản theo Điều 163 BLDS thì bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản. Tài sản ở đây được dùng mua bán, trao đổi, tặng cho… nhằm thỏa
mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hay phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
- Kết quả của hoạt động tinh thần sáng tạo: đó là thành quả của sản phẩm
trí tuệ do con người trong quá trình lao động tinh thần tạo ra. Nó được biểu hiện
dưới các dạng: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, là các sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp,…; có thể nói những đối tượng này phải
được đăng ký quyền đối với sản phẩm của mình mới được pháp luật bảo vệ.
- Quyền sử dụng đất: người sử dụng đất theo Luật đất đai và Luật dân sự
có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử
dụng đất. Vì vậy, quyền sử dụng đất là đối tượng của hợp đồng chuyển quyền sử
sử dụng đất và là di sản trong thừa kế.
* Nội dung của giao dịch dân sự: là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân
sự bên trong giao dịch dân sự. Giữa quyền và nghĩa vụ luôn luôn có mối quan hệ
biện chứng thống nhất với nhau. Đối với hợp đồng dân sự thì không thể có
quyền bên này mà không làm phát sinh nghĩa vụ của họ và ngược lại, nghĩa vụ
của bên kia cũng là căn cứ làm phát sinh quyền cho họ, vấn đề này được thường
xuyên đặt ra và giải quyết dễ dàng, nhưng trong hành vi pháp lý đơn phương
(như để lại di chúc, hứa thưởng,…) thì giữa quyền và nghĩa vụ dân sự phải được
nhìn nhận trong mối quan hệ tổng thể. Ví dụ: trong trường hợp một người từ bỏ
quyền sở hữu, thì sẽ phát sinh nghĩa vụ tôn trọng lợi ích công cộng, lợi ích của
5
người khác (người thứ ba có liên quan), nghĩa vụ này phát sinh trên những quy
định về nguyên tắc hay điều luật cụ thể.
Quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự thể hiện như sau:
- Quyền dân sự: đó là quyền năng dân sự của chủ thể được pháp luật dân
sự cho pháp, nó bao gồm quyền theo khả năng có thể được thực hiện (ví dụ như
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình), quyền này tồn tại và được ghi
nhận một cách khách quan, thường xuyên, xuyên suốt, tiềm ẩn trong quá trình
chủ thể còn tồn tại. Mặt khác, chủ thể có quyền hành xử theo ý muốn của mình
trong từng giao dịch cụ thể, tức là bằng khả năng của mình, họ biến quyền dân
sự đó trở thành thực tế (quyền chủ quan), sự thể hiện ý chí tức thời phải là sự
phản ánh đúng ý chí của họ đối với những loại giao dịch được phép, trong đó xác
lập được quyền dân sự của mình.
Quyền dân sự của các bên luôn luôn được pháp luật công nhận và bảo vệ,
có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ khi bị
người khác xâm phạm.
Nghĩa vụ dân sự: đó là cách xử sự bắt buộc của người có năng lực hành vi
dân sự. Về tổng quan thì nghĩa vụ đầu tiên phải là tôn trọng, không được xâm hại
lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều
luật quy định về nghĩa vụ này thường là ở dạng cấm không được làm hoặc phải
làm những hành vi nhất định (như cấm mua bán hàng Nhà nước cấm lưu thông,
cấm mua bán đất…), nghĩa vụ ở đây còn phải tôn trọng đạo đức xã hội, tập quan
của địa phương. Còn trong giao dịch dân sự cụ thể thì phải thực hiện nghịa vụ
nhằm thỏa mãn yêu cầu của bên có quyền. Nghĩa vụ có thể bằng một hay nhiều
hành vi nhất định (như giao tài sản hay trả tiền trong hợp đồng mua bán…) hoặc
không thực hiện những hành vi nhất định (như không được tự ý sửa chữa nhà
đang thuê, không được bán tài sản đang mượn…). Nghĩa vụ dân sự cũng có thể
do người có nghĩa vụ được phép lựa chọn cách xử sự (ví dụ như trả tiền hay
6
vàng có giá trị tương đương trong hợp đồng mua bán…). Nếu bên có nghĩa vụ
không thực hiện đúng nghĩa vụ mà gây thiệt hại thì có thể phải bồi thường thiệt
hại do lỗi của họ gây ra.
* Phân loại giao dịch dân sự: Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại
giao dịch dân sự, việc phân loại giao dịch dân sự có những ý nghĩa nhất định về
mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn
- Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể trong việc xác lập giao dịch dân
sự thì giao dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự được xác lập theo ý chỉ
của một phía chủ thể (hành vi pháp lý đơn phương) và giao dịch dân sự được xác
lập theo ý chỉ của nhiều chủ thể (hợp đồng dân sự).
- Căn cứ vào sự tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch dân sự thì giao
dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của chủ
thể tham gia giao dịch và giao dịch dân sự được phát sinh theo ý chí của Nhà
nước.
- Căn cứ vào hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự được xác lập thì giao
dịch dân sự được chia thành giao dịch dân sự có hậu quả làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ dân sự, giao dịch dân sự có hậu quả làm thay đổi quyền và nghĩa vụ dân
sự và giao dịch dân sự có hậu quả làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự
được thể hiện dưới hình thức lời nói, giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức
văn bản và giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể.
1.2. Ý nghĩa và mục đích của giao dịch dân sự
Từ khái niệm giao dịch dân sự được quy định tại Điều 121 BLDS, có thể
xác định: Hậu quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân
sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn phương hoặc đa
phương - một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả pháp lí. Tuỳ từng giao
7
dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Giao
dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên
giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch, với
những mục đích và động cơ nhất định.
Trong giao dịch dân sự có ý chí và thể hiện ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người
mà nội dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của
bản thân họ. Ý chí phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định
để các chủ thể khác có thể biết được ý chí của chủ thể muốn tham gia đã tham
gia vào một giao dịch dân sự cụ thể. Bởi vậy, giao dịch dân sự phải là sự thống
nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể
bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà
đúng với cả pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Bởi khi xác lập giao dịch dân sự
các chủ thể này đều thông qua người đại diện. Người đại diện thể hiện ý chí của
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch (Điều 123 BLDS). Mục đích của giao dịch chính
là hậu quả pháp lí sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch. Nói cách khác, mục đích ở đây luôn mang tính pháp lí (mục
đích pháp lí). Mục đích pháp lí (mong muốn) đó sẽ trở thành hiện thực, nếu như
các bên trong giao dịch thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán thì mục đích pháp lí của bên mua là
sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản mua bán, bên bán sẽ nhận tiền và chuyển quyền
sở hữu tài sản cho bên mua. Mục đích pháp lí đó sẽ trở thành hiện thực khi hợp
đồng mua bán tuân thủ mọi quy định của pháp luật và bên bán thực hiện xong
nghĩa vụ bàn giao tài sản mua bán, khi đó, hậu quả pháp lí phát sinh từ giao dịch
trùng với mong muốn ban đầu của các bên (tức là với mục đích pháp lí).
8
Cũng có những trường hợp hậu quả pháp lí phát sinh không phù hợp với
mong muốn ban đầu (với mục đích pháp lí). Điều đó có thể xảy ra do một trong
hai nguyên nhân chính. Nguyên nhân thứ nhất là khi giao dịch đó là bất hợp
pháp.Ví dụ: Khi người mua đã mua phải đồ trộm cắp thì không được xác lập
quyền sở hữu mà có nghĩa vụ phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu tài sản đó (người
bán không phải là chủ sở hữu tài sản thì không thể chuyển giao quyền sở hữu tài
sản đó cho người mua). Nguyên nhân thứ hai là do chính các bên không tuân thủ
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch có hiệu lực. Ví dụ: Sau khi xác lập giao dịch,
bên bán không thực hiện nghĩa vụ bàn giao vật cho nên họ phải chịu trách
nhiệm dân sự.
Mục đích pháp lí của giao dịch khác với động cơ xác lập giao dịch. Động
cơ xác lập giao dịch dân sự là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia giao dịch.
Động cơ của giao dịch không mang tính pháp lí. Khi xác lập giao dịch, nếu như
động cơ không đạt được thì điều đó cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của
giao dịch. Mục đích luôn luôn được xác định còn động cơ có thể được xác định
hoặc không. Ví dụ: Mua bán nhà ở - mục đích của người mua là quyền sở hữu
nhà, còn động cơ có thể để ở, có thể để cho thuê, có thể bán lại... Tuy nhiên,
động cơ của giao dịch có thể được các bên thoả thuận và mang ý nghĩa pháp lí.
Trong trường hợp này động cơ đã trở thành điều khoản của giao dịch, là một bộ
phận cấu thành của giao dịch đó (như cho vay tiền để sản xuất - mục đích của
người vay là quyền sở hữu số tiền nhưng họ chỉ được dùng tiền đó để sản xuất
mà không được sử dụng vào hoạt động khác).
Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí
quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung
ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên
trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao
9
dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các
nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình.
2. Giao dịch dân sự có điều kiện
Điều 125 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự có điều kiện
1.
Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy
bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc
hủy bỏ.
2.
Trong trường hợp điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một bên hoặc của người thứ
ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu có tác động của một bên hoặc của
người thứ ba cố ý thúc đẩy cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch
dân sự xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.”
Điều kiện để các bên thực hiện giao dịch dân sự là điều khoản tương đối
phổ biến khi các bên thỏa thuận cùng nhau xác lập giao dịch dân sự. Khi các bên
xác lập giao dịch dân sự với nhau, thì điều kiện đó chưa phát sinh, nhưng sẽ phát
sinh sau một khoảng thời gian hoặc phụ thuộc vào một sự kiện nhất định. Nhiều
nhà chuyên môn gọi đó là điều kiện “chờ”. Nó đã tồn tại, ngày càng phát triển và
có ý nghĩa pháp lý trong các giao dịch dân sự, nhưng trước ngày ban hành BLDS
chưa có văn bản pháp luật nào quy định về vấn đề này. Trên thực tế, có những
trường hợp trong quá trình đi đến xác lập giao dịch dân sự các bên thường thỏa
thuận điều kiện đi kèm nhằm làm phát sinh, thay đổi hay hủy bỏ giao dịch dân sự
đó.
Ví dụ 1: A và B thỏa thuận mua bán xe máy với nhau giá 20 triệu đồng những
hợp đồng sẽ được thực hiện sau khi A đi công tác 2 tháng ở tỉnh khác về.
10
Ví dụ 2: công ty C sẽ thưởng 1 triệu đồng cho vận động viên nào tham dự
cuộc thi chạy 100 mét do tỉnh H tổ chức, với điều kiện chạy bằng giầy có mang
tên công ty C.
Ở ví dụ 1, điều kiện khi A đi công tác 2 tháng và về thì việc thực hiện hợp
đồng mua bán tài sản (xe máy) sẽ xảy ra, còn ở ví dụ 2 thì điều kiện vận động
viên chạy bằng giầy có mang tên công ty C sẽ phát sinh quyền được hưởng 1
triệu đồng, công ty C có nghĩa vụ chuyển 1 triệu đồng cho vận động viên nào
chạy bằng giầy có tên công ty C. Tuyên bố thưởng của công ty C không có hiệu
lực đối với vân động viên không chạy bằng giày của công ty C.
Pháp luật dân sự trước ngày BLDS có hiệu lực thi hành không quy định cụ
thể về giao dịch dân sự có điều kiện, mà coi điều kiện trong giao dịch như là một
hợp đồng của hợp đồng khác (làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hợp đồng khác).
Mặt khác các tranh chấp về điều kiện trong nội dung văn bản hợp đồng ít thấy.
Giao dịch dân sự có điều kiện cũng là dạng thể hiện ý chí của các bên khi xác lập
nó, nhằm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một giao dịch dân sự với mục đích
duy trì, thúc đẩy giao dịch ở trạng thái ổn định trong tương lai gần, trong khuôn
khổ do pháp luật quy định.
Có thể hiểu: giao dịch dân sự có điều kiện: đó là sự thỏa thuận của chủ thể
tham gia giao dịch về điều kiện mà phụ thuộc vào điều kiện đó sẽ làm phát sinh,
thay đổi hay hủy bỏ một giao dịch dân sự mà các bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch dân sự đó.
Để giao dịch dân sự có điều kiện có hiệu lực, các yêu cầu về giao dịch dân
sự thông thường cũng được bảo đảm như:
- Các bên khi tham gia giao dịch dân sự có điều kiện phải có năng lực
hành vi dân sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 122 – BLDS. Có nghĩa là điều
kiện để giao dịch được phát sinh hay hủy bỏ phải thể hiện ý chí đích thực của
chủ thể. Các bên phải hoàn toàn tự do, tự nguyên lựa chọn, thảo luận không
11
những nội dung của giao dịch dân sự mà còn cả về điều kiện kèm theo. Nếu một
bên bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép về điều kiện phát sinh, hủy bỏ giao dịch dân
sự, thì giao dịch đó bị hủy bỏ.
- Nội dung của giao dịch dân sự có điều kiện phải hợp pháp, tức là không
trái pháp luật, đạo đức xã hội ở cả nội dung giao dịch và điều kiện cho giao dịch.
Ví dụ: không thể thỏa thuận điều kiện với một người thực hiện một hành vi trái
pháp luật (như mua bán thuốc phiện thì mới bán cho xe máy…)
- Hình thức của giao dịch có điều kiện phải phù hợp với quy định về hình
thức của giao dịch dân sự.
Ngoài các yêu cầu trên, giao dịch dân sự có điều kiện còn phải bao gồm
hai nội dung cấu thành:
- Phần giao dịch dân sự: đó là nội dung của giao dịch dân sự thông thường
do các bên xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự (hợp đồng mua, bán, tặng, cho,…)
- Phần điều kiện nhằm làm phát sinh, thay đổi hay hủy bỏ giao dịch dân
sự.
Hai phần này có mối liện hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau trong
giao dịch dân sự có điều kiện cụ thể, theo tinh thần một chiều, không quyết định
nội dung của nhau mà phần điều kiện chỉ nhằm làm cho giao dịch phát sinh hay
hủy bỏ và giao dịch được phát sinh hay hủy bở do điều kiện có xảy ra hay không.
* Đi sâu vào phân tích phần điều kiện làm cho giao dịch dân sự có hiệu
lực, ta có thể thấy:
- Điều kiện do một bên thực hiện, ví dụ: A sẽ thực hiện hợp đồng mua nhà
của B với giá thỏa thuận nếu A bán được nhà của mình trong hạn 6 tháng. Như
vậy A có nghĩa vụ thực hiện điều kiện bằng hành vi của chính mình không phụ
thuộc vào hành vi của B.
- Điều kiện do hai bên cùng thực hiện, ví dụ: A sẽ thực hiện hợp đồng thuê
B lái ô tô với điều kiện A mua được ô tô và B học xong và được cấp giấy phép
12
lái xe ô tô. Ở ví dụ này, A có nghĩa vụ mua ô tô và B có nghĩa vụ học và thi đỗ
lấy được bằng lái xe.
- Điều kiện có thể là điều kiện làm phát sinh. Ví dụ: A thỏa thuận với B
rằng A sẽ mua con ngựa của B nếu con ngựa đó thắng trong cuộc đua ngày hôm
sau.
- Điều kiện có thể là điều kiện làm hủy bỏ giao dịch. Ví dụ: A và B thỏa
thuận nếu mưa bão từ cấp 6 trở lên sẽ đình chỉ thực hiện hợp đồng hàng hóa.
Điều kiện bao giờ cũng xảy ra trên thực tế trước hoặc cùng với thời điểm
phát sinh, hủy bỏ giao dịch dân sự, vì vậy điều kiện mang tính quyết định cho
giao dịch dân sự.
* Yêu cầu của phần điều kiện trong giao dịch dân sự có điều kiện:
- Điều kiện cho giao dịch dân sự phát sinh, hủy bỏ phải hợp pháp (không
trái pháp luật, trái đạo đức xã hội).
- Điều kiện do các bên xác lập trong giao dịch dân sự phải tạo ra khả năng
nhất định (ở tương lai) có thể xảy ra, hoặc các bên có thể thực hiện được. Có
nghĩa là về ý chí các bên khi thỏa thuận tin rằng điều kiện nêu ra là thực tế, sẽ
xảy ra và vì vậy giao dịch dân sự được xác lập sẽ phát sinh hay hủy bỏ.
Để hiểu rõ hơn nữa điều kiện của giao dịch dân sự có điều kiện ra có thể
so sánh với điều kiện của giao dịch dân sự, bởi cả hai hình thức đều nhằm tạo ra
sự ổn định, chắc chắn của giao dịch dân sự.
Điều kiện của giao dịch dân sự có
Điều kiện của giao dịch dân sự
điều kiện
- Về ý chí cho phép chủ thể có thể lựa
- Bắt buộc chủ thể phải tuân theo khi
chọn hay không lựa chọn điều kiện đối
xác lập giao dịch dân sự.
với giao dịch dân sự.
- Chủ thể tự do lựa chọn các điều kiện
- Bắt buộc phải có các điều kiện quy
13
để cho phép giao dịch dân sự phát sinh,
định sẵn bởi pháp luật.
thay đổi hay hủy bỏ.
- Giao dịch dân sự có thể phát sinh, hủy - Giao dịch dân sự được xác lập, thực
bỏ nếu điều kiện xảy ra và ngược lại khi hiện phụ thuộc vào điều kiện và khi vi
điều kiện không xảy ra giao dịch dân sự phạm điều kiện thì hậu quả pháp lý là
không phát sinh hoặc hủy bỏ (ở đây thể quyền và nghĩa vụ các bên không phát
hiện mặt hình thức, bên ngoài của giao sinh kể từ thời điểm giao dịch xác lập
dịch).
(thể hiện mặt nội dung, bên trong của
giao dịch dân sự).
Điều kiện trong giao dịch dân sự phụ thuộc vào các bên khi đặt ra điều
kiện đó. Về nguyên tắc các bên phải có nghĩa vụ thực hiện điều kiện nhằm làm
phát sinh hay hủy bỏ giao dịch dân sự, nhưng nghĩa vụ về điều kiện không phải
là nghĩa vụ của giao dịch dân sự bởi điều kiện trong giao dịch dân sự có điều
kiện là yếu tố bên ngoài không phụ thuộc vào nội dung bên trong của giao dịch
dân sự, tuy nó có điểm chung là do các bên thỏa thuận xác lập vì vậy ta có thể
phân biệt nghĩa vụ về điều kiện và nghĩa vụ giao dịch dân sự như sau:
Nghĩa vụ về điều kiện
- Thực hiện nghĩa vụ làm phát sinh,
Nghĩa vụ giao dịch dấn sự
- Phát sinh, thay đổi, chấm dứt giao
hủy bỏ giao dịch dân sự.
- Nằm ngoài nội dung của giao dịch
dịch dân sự.
- Nằm trong nội dung giao dịch dân sự.
dân sự cụ thể.
- Thực hiện nghĩa vụ về điều kiện vì lợi - Vì lợi ích bên có quyền.
ích của các bên.
- Không cần gánh trách nhiệm
- Gắn trách nhiệm pháp lý và bồi
pháp lý khi điều kiện không xảy ra thường thiệt hại do không thực hiện
hoặc xảy ra ngoài ý muốn của các bên nghĩa vụ.
thì không phải bồi thường thiệt hại.
14
Giao dịch dân sự có điều kiện phụ thuộc vào điều kiện để phát sinh, hay
hủy bỏ giao dịch đó. Nếu những điều kiện đặt ra là hợp pháp thì giao dịch sẽ
được phát sinh, hủy bỏ khi điều kiện xảy ra. Nhưng với trường hợp điều kiện
được thỏa thuân đặt ra là bất hợp pháp, tức là trái với pháp luật hay đạo đức xã
hội, thì hướng giải quyết đối với giao dịch dân sự phụ thuộc vào điều kiện đó
như thế nào. Ví dụ: A muốn vay tiền của B đã nhất trí với điều kiện B đưa ra là
phải có hành vi hạ thấp nhân phẩm (như van xin, vu khống một người nào đó
theo yêu cầu của B…) và điều kiện đã xảy ra, A và B đã xác lập giao dịch dân sự
vay tiền nhưng điều kiện đưa ra là vi phạm đạo đức xã hội thì giao dịch giữa A
và B có hợp pháp hay vô hiệu. Theo quan điểm của bản thân, trong giao dịch dân
sự có điều kiện khi điều kiện vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội thì cũng bị coi là
vô hiệu. Có như vậy mới bảo vệ trật tự công cộng, hướng giải quyết đối với giao
dịch dân sự đó như với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu khác. Vì vậy cần
kiến nghị bổ sung thêm Điều 125 về giao dịch dân sự có điều kiện cần thêm câu:
“…nếu điều kiện đó không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội, tập quán địa
phương.”
Giao dịch dân sự có điều kiện cho phép chủ thể luật dân sự có quyền tự do
cam kết, thỏa thuận nhằm xác lập, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Nhưng
mặt khác đòi hỏi của điều kiện trong giao dịch dân sự đó cũng không cho phép
các chủ thể tự do chọn một cách bừa bãi mà phải trong khuôn khổ pháp luật quy
định hoặc phù hợp với đạo đức xã hội.
3. Một số tình huống thực tế về tranh chấp trong giao dịch dân sự
có điều kiện
3.1. Tình huống 1 (theo )
15
Tình huống: Ông A bỏ một số tiền ra để hợp thức hoá nhà cho bà B,
với điều kiện sau khi căn nhà đã được hợp thức hoá, bà B phải bán lại cho ông
A. Để thực hiện việc này, ông A lập bản giao ước với bà B. Việc giao ước giữa
ông A và bà B có hợp pháp không? Trong trường hợp căn nhà đã được hợp thức
hoá qua tên bà B mà bà B đổi ý, không chịu bán căn nhà cho ông A thì ông A có
thể kiện bà B hay không? Toà án có buộc bà B phải thực hiện giao ước, hoặc bồi
thường thiệt hại nếu không thực hiện giao ước hay không?
Giải quyết: Việc giao ước như trên được xem là hợp pháp. Đây là loại
giao dịch dân sự có điều kiện (theo điều 134 Bộ luật Dân sự). Ông A có thể
khởi kiện ra toà, yêu cầu bà B phải bán nhà cho mình, nếu không thì phải bồi
thường. Tuy nhiên, khi giao ước, hai bên phải thoả thuận rõ ràng, cụ thể về nội
dung giao dịch. Nếu các bên thoả thuận không rõ ràng, cụ thể, giao dịch trên rất
có thể bị xem là vô hiệu vì không hợp pháp (hứa bán một tài sản chưa phải là của
mình). Khi bị xem là giao dịch vô hiệu, quyền lợi của ông A rất khó được bảo
vệ.
3.2. Tình huống 2: Tranh chấp khi mua nhà bằng giấy viết tay (theo
)
Tháng 3-2005 anh Q. có mua của ông bà T. và X. một phần của căn
nhà ở phường Trường Thọ, Q.Thủ Đức (TP.HCM), diện tích 90m2 (4x22,5) gồm
một căn nhà tạm (phòng trọ) phần còn lại là đất trống.
Tại thời điểm anh Q. mua chỉ có hợp đồng viết tay (không công chứng)
do lúc đó ông T. đang làm thủ tục cấp sổ đỏ cho toàn bộ diện tích căn nhà
358,1m2. Anh Q. đã giao tiền gần đủ cho ông T. với cam kết trong hợp đồng là
ông T. phải có trách nhiệm hoàn tất sổ đỏ, trong đó có ghi toàn bộ diện tích 90m 2
của tôi phải là đất thổ cư (đất được phép xây nhà).
Tháng 12-2005, UBND quận Thủ Đức cấp cho ông T. giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất với toàn bộ diện tích 358,1m2 là đất ở tại đô thị. Lúc này,
16
không hiểu vì lý do gì ông T. lại xin điều chỉnh toàn bộ diện tích, bất chấp gia
đình tôi yêu cầu phải lấy sổ đỏ về và ra công chứng thực hiện các điều khoản đã
ghi trong hợp đồng trước đây.
Tháng 12-2007, UBND quận Thủ Đức đã cấp lại cho ông T. giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất với diện tích 166m2 và giấy chứng nhận quyền sử dụng
nhà ở và đất ở với diện tích 192m2. Điều đáng lưu ý là toàn bộ diện tích đất trống
phía sau nhà anh Q 33m2 không được chuyển thành đất ở mà vẫn là đất nông
nghiệp.
Việc anh Q mua bán giấy tay có phải là hành vi không đúng theo luật định
hay không? Và việc ông T. tự ý thay đổi công năng đất như vậy có phải là hành
vi lừa đảo hay không?
Giải quyết:
1/ Về giấy tay mua bán nhà:
Theo thư trình bày, tại thời điểm ký kết Hợp đồng mua bán nhà, thì ông T.
đang làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ diện
tích nhà đất là 358,1m2, đồng thời ông T. cam kết có trách nhiệm phải hoàn tất
thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với toàn bộ diện tích 90m 2 đã
bán cho anh Q. phải được chuyển mục đích sử dụng đất là đất ở.
Việc cam kết như vậy có nghĩa sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ông T. có trách nhiệm đến phòng công chứng có thẩm quyền để ký kết hợp
đồng sang nhượng một phần nhà đất đã bán cho anh Q. Do đó, hợp đồng mua
bán theo quy định tại Điều 450 Bộ Luật dân sự sẽ được hai bên tiến hành thực
hiện sau khi ông T. được cấp giấy chứng nhận.
Vì vậy, hợp đồng tay mà hai bên ký kết có thể được xem là một giao dịch
dân sự có điều kiện theo quy định tại Điều 125 Bộ Luật dân sự. Do đó, theo quy
định của Bộ Luật dân sự không cần phải có công chứng chứng thực. Vì vậy
không bị xem “là không đúng theo luật định”.
17
Việc ông T. tự ý thay đổi việc cấp giấy chứng nhận như thư trình bày được
xem là hành vi cố ý làm cho những điều kiện quy định tại hợp đồng không xảy ra
theo đúng cam kết của hai bên, để từ đó bên bán dễ dàng từ chối việc tiếp tục
thực hiện hợp đồng, thì bên bán bị xem là có lỗi làm cho hợp đồng không thể
thực hiện được.
2/ Về bồi thường thiệt hại:
Căn cứ khoản 2 Điều 307 Bộ Luật dân sự, khi một bên có lỗi trong giao
dịch dân sự thì phải có trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế tính được
bằng tiền do mình gây ra.
Căn cứ Nghị quyết 01/2003/NĐ-HĐTP ngày 16-4/-2003 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc xác định thiệt hại trong
trường hợp mua bán nhà ở vô hiệu, thì thiệt hại là khoản tiền mà bên mua đã đầu
tư để cải tạo, sửa chữa nhà… và khoản tiền chênh lệch giữa giá nhà đất tại thời
điểm mua bán với giá nhà đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm, trong thực tế được
hiểu là giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Hiện nay, chưa có quy định một cách cụ thể và rõ ràng trong việc xác định
thiệt hại đối với loại hợp đồng mà hai bên đã ký kết nêu trên, nhưng trong thực
tiễn tòa án áp dụng nguyên tắc giải thích tương tự của pháp luật để áp dụng Nghị
quyết 01/2003/NĐ-HĐTP để xác định thiệt hại trong trường hợp nêu trên.
3/ Thủ tục khởi kiện:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự, thì ông/bà nộp
đơn khởi kiện tại tòa án nhân dân nơi có bất động sản, trong trường hợp này là
Tòa án nhân dân quận Thủ Đức.
KẾT LUẬN
Giao dịch dân sự là căn cứ phổ biến, thông dụng nhất trong các căn cứ làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự; là phương tiện pháp lí
quan trọng nhất trong giao lưu dân sự, trong việc dịch chuyển tài sản và cung
18
ứng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của tất cả các thành viên
trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường, thông qua giao
dịch dân sự (hợp đồng) các chủ thể đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và các
nhu cầu khác trong đời sống hàng ngày của mình. Hiểu biết và nắm rõ được
những chế định liên quan đến giao dịch dân sự - một sự kiện pháp lý rất thường
xuyên xảy ra hàng ngày, đặc biệt là về giao dịch dân sự có điều kiện giúp ta thực
hiện tốt pháp luật, tránh được những tranh chấp không cần thiết trong công việc
cũng như cuộc sống.
Trên đây là những tìm hiểu của em về một số vấn đề liên quan đến giao
dịch dân sự có điều kiện. Bài viết còn nhiều điểm hạn chế, thiếu sót vì vậy xin
được sự góp ý của thầy cô để em có thể có được một cách nhìn đúng và hoàn
thiện nhất về vấn đề này.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2.
Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3.
PGS.TS. Hoàng Thế Liên - Thứ trưởng Bộ Tư pháp (chủ biên), Bộ
sách Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Tập I: Những vấn
đề chung, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
4.
TS. Phạm Văn Tuyết, “Tư cách chủ thể cá nhân khi tham gia giao
dịch dân sự”, Tạp chí luật học, số 02/2004.
5.
Trần Trung Trực, “Một số vấn đề về giao dịch dân sự và hậu quả
pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, Luận án thạc sĩ luật học.
6.
Bộ luật dân sự năm 2005.
7.
8.
9.
20